- Nhân duyên Pháp
giới
Vô ngã tức Ðại Bi
Do nhân
duyên nào các pháp đồng thời hiện khởi, tương y tương quan toàn diện,
hỗ tương nhiếp nhập, nhân và quả kết dệt lẫn nhau khắp mọi nơi, tạo
thành một toàn thể toàn vẹn không có một sự thể đơn độc cô lập
nào cả?
Trừng
Quán, một đệ tử nổi tiếng của Pháp Tạng và được truy tặng là tổ
thứ tư của Hoa nghiêm tông, nêu ra mười nhân để minh chứng Pháp giới
vô ngại một cách tổng quát:
(1) Vì vạn
pháp do tâm sanh.
(2) Vì tất
cả pháp đều vô tự tính.
(3) Vì lý
duyên khởi chỉ cho sự tương y tương quan.
(4) Vì tất
cả đều có chung Pháp tánh hay Phật tánh.
(5) Vì thế
giới hiện tượng là như huyễn mộng.
(6) Vì các
pháp hiện hành trong vũ trụ được coi như ảnh tượng.
(7) Vì sự
giác ngộ của Phật là do tích cực tu tập vô hạn căn nhân của hiện khởi.
(8) Vì sự
giác ngộ của Phật là tối thượng và tuyệt đối.
(9) Vì tác
dụng thiền định thâm áo của Phật nên thế giới chuyển hóa như ý muốn
của Ngài.
(10) Do thần
lực siêu nhiên và giải thoát bất khả tư nghì của Như Lai nên sự chuyển
hóa thế giới là tự tại.
Trên phương
diện triết học, sáu nhân đầu giải thích tại sao Pháp giới là thế,
còn về mặt tu dưỡng thời bốn nhân sau mô tả làm thế nào để chứng
nghiệm thế giới tuệ giác của Phật. Về nhân duyên tạo lập Pháp giới,
kinh Hoa nghiêm nói rất rõ: "Chư Phật tử! Lược nói do mười thứ nhân
duyên mà tất cả thế giới hải đã thành, hiện thành, và sẽ thành [Thế
giới hải có nghĩa là Vũ trụ hay Pháp giới]. Chính là do vì thần lực của
Như Lai, vì duyên khởi pháp là pháp tự nhiên như vậy, vì hạnh nghiệp của
tất cả chúng sanh, vì chỗ sở đắc của tất cả Bồ tát thành nhất thiết
trí, vì các chúng sanh và chư Bồ tát đồng chứa nhóm thiện căn, vì nguyện
lực nghiêm tịnh Phật độ của chư Bồ tát, vì hạnh nguyện thành tựu bất
thối của chư Bồ tát, vì thắng giải tự tại thanh tịnh của chư Bồ tát,
vì chỗ lưu xuất do thiện căn của chư Như Lai và thế lực tự tại lúc
chư Phật thành đạo, vì nguyện lực tự tại của Phổ Hiền Bồ tát. Chư
Phật tử! Ðó là lược nói mười thứ nhân duyên. Nếu rộng nói thời lượng
số nhân duyên nhiều như số vi trần trong một thế giới hải." (Phẩm
4: Thế giới thành tựu).
Vậy Pháp
giới chỉ có thể chứng được bằng công năng tập định chứ không qua
trung gian khái niệm do kết quả của trí năng suy luận hay do trí tưởng
tượng bày vẽ. Về công hạnh tu tập như thế nào mới chiêm ngưỡng được
đức Thế tôn và thấy hiểu được cảnh giới tráng lệ Hoa nghiêm, Phẩm
1: Thế chủ diệu nghiêm, có câu: "Cả những chúng hội này đều đã
rời tất cả tâm cấu nhiễm phiền não và những tập khí thừa, xô ngã
tòa núi trọng chướng, được thấy Phật không bị trệ ngại ".
Trong số
các trọng chướng làm phát sinh phiền não, mê vọng, đau khổ, làm hại
thiện tâm, và ngăn bít Thánh đạo, đứng hàng đầu là ngã chấp. "Chấp
lấy ngã thường tìm có không, suy xét bất chánh, khởi vọng hạnh, làm đạo
tà, nghiệp tội, nghiệp phước, nghiệp bất động tích tập thêm lớn.
Ở trong các nghiệp hành trồng hột giống tâm hữu lậu hữu thủ, lại khởi
hậu hữu: sanh và lão tử. Chính là: nghiệp làm đồng ruộng, thức làm hột
giống, vô minh che rợp, nước ái thấm nhuần, ngã mạn tưới bón, lưới
chấp kiến thêm lớn, mọc mầm danh sắc, danh sắc thêm lớn nẩy chồi ngũ
căn, các căn đối nhau sanh ra xúc, xúc đối sanh có thọ, sau khi thọ rồi
mong cầu sanh có ái, ái tăng thêm sanh ra thủ, thêm lớn thủ sanh ra hữu,
đã sanh hữu thời ở trong các loài khởi thân ngũ uẩn gọi là sanh, suy biến
gọi là lão, chết mất gọi là tử. ... ... ... Lúc tử ly biệt, ngu mê tham
luyến trong lòng phiền muộn là sầu. Rơi lệ than thở là thán. Tại năm
căn là khổ. Tại ý tưởng là ưu. Ưu khổ càng nhiều là não. Như thế thời
chỉ có cây khổ tăng trưởng, trọn không ngã không ngã sở, không tác giả,
không thọ giả. ... ... ... Ðại Bồ tát dùng mười tướng quán các duyên
khởi biết là vô ngã, vô nhơn, vô thọ mạng, tự tính không, chẳng có
tác giả, không có thọ giả, liền được môn Không giải thoát hiện tiền."
(Phẩm 26: Thập địa)
Ðể giải
thích ngã chấp, Hòa thượng Thích Thiện Siêu viết trong bài Lý duyên khởi:
"Không hiểu được định lý duyên khởi thời tự thấy rằng ta có một
bản ngã, một bản ngã cá biệt, một bản ngã đáng tôn trọng, một bản
ngã đáng quý báu, một bản ngã hơn tất cả ngã khác. ... Có ảo tưởng
bản ngã, có nghĩa là tự thấy mình khác với cái khác, tự thấy mình
khác với người khác. Khi đã thấy mình khác với người khác, khác với
cái khác, mới khởi lên tham, sân, si. Nếu thấy tất cả vạn pháp cùng với
mình, mình cùng với tất cả vạn pháp, trùng trùng trong một pháp giới
tánh bình đẳng duyên khởi, thời làm gì có tham, sân, si, vì chẳng có năng
mà cũng chẳng có sở. Chỉ do tự thấy mình khác với sự vật, mình khác
với cái khác, mới mong đem cái khác về cho mình; chứ khi tự thấy mình với
cái khác hòa đồng nhất thể trong một nhịp nhàng tương quan chằng chịt
lẫn nhau, thời tự nhiên tánh tri kiến hư vọng thấy rằng mình có bản
ngã riêng biệt bị tiêu diệt."
Trên phương
diện tích cực, vô ngã chính là đại bi. Bởi vì khi chấp ngã hết thời
đại bi tâm hiển lộ không bờ bến. Thiền định về tâm Bi là nhằm thực
hiện tánh cách bình đẳng giữa mình và người khác và cũng đặt mình
trong kẻ khác. Giải thoát trong lòng tay, Pabongka Rinpoche, Thích Nữ Trí Hải
dịch, trong phần nói về phép luyện tâm bồ đề bằng cách trao đổi địa
vị mình với người, đã đề cập năm phép quán: quán mình người bình
đẳng, quán những lỗi lầm phát xuất từ ngã ái, quán những lợi ích do
sự thương mến người khác, quán thực sự về trao đổi địa vị mình với
người, và cuối cùng, quán về Cho để xây dựng đại từ, và Nhận để
xây dựng đại bi. Trong khi thực hành như vậy hành giả mất dần ý niệm
về cái ta và không còn thấy sự khác biệt giữa mình và người khác. Người
thực hiện tâm Bi đến mức cùng tột thấy mình đồng hóa với tất cả
chúng sinh, không còn sự khác biệt giữa mình và người. Cái tâm vị tha tự
nhiên tràn đầy vô hạn, mở rộng lan tràn cùng khắp càn khôn vạn vật.
Mọi sự chia rẽ đều tiêu tan. Vạn vật trở thành một, đồng thể, đồng
nhất.
Vật lý
gia David Bohm, đồng sự của Einstein và bạn thân của Krishnamurti dã ví
ngã như nguyên tử (atom). Ðúng hơn, Bohm ví nguyên tử như người suy tưởng
(thinker). Nên biết rằng nguyên tử không phải là một thực thể. Ðó là
danh xưng của một xuất hiện tánh khi hội đủ một số điều kiện. Sự
dính kết các hạt âm điện tử, dương điện tử, và trung hòa tử lại với
nhau để tạo thành nguyên tử cần đến một số năng lượng liên kết
(binding energy) rất lớn. Người suy tưởng giống như nguyên tử đang sử dụng
năng lượng liên kết ra công sức dính kết các hạt lại với nhau. Chính
số năng lượng liên kết rất lớn ấy đã phát sinh và bảo tồn "người
suy tưởng" (tức nguyên tử) và duy trì nơi người suy tưởng cái ảo
tưởng rằng mình là một hiện thực bền vững, tối giản, và độc lập
riêng biệt. Cái dụng của năng lượng liên kết như vậy là bị kiềm chế
hạn định trong sự chấp trì một ảo tưởng và chủ trì một kiến thức
hư tưởng. Nó nuôi dưỡng phiền não tạng là chướng hoặc do vô minh tập
khí, tập quán, và tập tục ung đúc hợp thành. Tư tưởng của "người
suy tưởng" ví như cái nhìn bị vật chất ngăn bít tù hãm trong một
khung tâm ba thứ nguyên (3-dimensional mind).
Khi nguyên
tử phân tán vỡ nát trong máy gia tốc hạt nhân (atomic accelerator), thời
vô số năng lượng liên kết bị kiềm chế bấy lâu được giải tỏa.
Cũng vậy, nhờ "phát tâm rộng lớn như hư không giới, khởi tâm vô
ngại, bỏ tất cả cõi, rời tất cả chấp, tâm vô ngại đi trong tất cả
pháp vô ngại, tâm vô ngại vào khắp tất cả thập phương, tâm thanh tịnh
vào cảnh giới của nhất thiết trí", "người suy tưởng" bị
tiêu diệt, ngã chấp hoàn toàn tan vỡ. Năng lượng được giải tỏa chính
là lực đại từ bi, viên dung vô ngại, có vô hạn thứ nguyên (infinite
dimensionality), là căn nhân của hiện khởi trong sự giác ngộ của Phật
được đề cập trong nhân thứ bảy trên đây. Ðó là một thứ năng lực
điện quang khai hiển "trí huệ của đức Như Lai, vô lượng vô ngại,
có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh, đầy đủ ở trong thân chúng
sanh. Chỉ vì hàng phàm phu vọng tưởng chấp trước nên chẳng biết chẳng
hay, chẳng được lợi ích".
Bohm và
Krishnamurti gọi thí nghiệm nghiền nát nguyên tử là "tỉnh thức"
(awareness). Quá trình phá nát ngã chấp dẫn thức trực tiếp cảm giác năng
lực điện quang được giải tỏa và thực chứng bản tánh của vũ trụ
(Pháp giới) là biển đại bi, một biển rộng lớn vô biên tràn đầy vô
lượng năng lực tình thương. Theo thuật ngữ Hoa nghiêm, tâm bình đẳng
nơi tất cả thân chúng sanh và nơi tất cả pháp được gọi là mầm giống
của hỗ nhập và là bản tánh hỗ tức của Pháp giới.
Hỗ tức hỗ nhập
Xét về
toàn thể tiến trình duyên khởi của vạn hữu, thời Pháp giới được thành
lập tựa trên hai nguyên lý, nguyên lý hỗ tức (mutual identity), và nguyên
lý hỗ nhập (mutual penetration). "Hỗ tức" phô diễn ý nghĩa của câu
"Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc" trong Tâm kinh. "Hỗ
nhập" tương ứng với nguyên lý duyên khởi theo đó không có sự vật
nào hiện hữu độc lập, có sẵn định tánh nơi bản thể của nó, và mọi
vật đồng thời hiện khởi, nương tựa lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, cái
này không chướng ngại sự hiện hữu và hoạt động của những cái kia.
"Hỗ nhập" vẽ ra ba công thức: đồng thời câu khởi, đồng thời
hỗ nhiếp, và đồng thời hỗ dung để thuyết minh lý duyên khởi.
Theo triết
gia Alfred North Whitehead, các nhà khoa học thường phân chia hiện thực thành
loại riêng biệt để thiết lập những bảng phân hạng khoa học. Chẳng hạn,
phân hạng vạn vật phát sinh thành nhiều loại: người, động vật, thực
vật, tế bào sống, vô cơ thô, và lượng tử vi tế. Ðó là một việc
làm rất cần thiết đối với phương pháp khoa học, nhưng rất nguy hiểm
đối với triết học, bởi vì sự phân hạng như vậy ngăn cản không cho
thấy trên thực tế các hiện thực được phân thành loại khác nhau không
hẳn hoàn toàn khác biệt nhau. Mỗi loại đều có bóng dáng của nó dự phần
trong các loại hiện thực khác. Các nhà khoa học quả đã tìm cách phân
chia một toàn thể vị phân hóa, cái thực tại không thể phân chia, nhằm
thực hiện những mục đích riêng tư và hạn định. Nguy hiểm là vì phân
chia ra nhiều diện như vậy thời mỗi khi diện này được hiển bày, diện
khác tất bị che khuất.
Con người
thường đứng trên quan điểm cá biệt mà nhìn vào sự vật, do đó luôn
luôn thiên vị và độc đoán, không thể nào có được cái nhãn quan viên
dung khi nhìn vào thực tại. Nếu thông đạt lý đồng thời câu khởi thời
một mặt bớt thiên vị và hẹp hòi, và mặt khác tâm trở nên quảng đại
không còn bị ngã chấp trói buộc và cảm giác về sự hữu hạn chế ngự.
Vả lại, một khi chỉ nhìn thấy sự vật theo quan điểm hẹp hòi cá nhân
thời không thể nào hay biết đến vô số khuynh hướng, khả năng, và tiềm
lực hiện khởi hàm chứa trong sự vật.
Một sự vật
hiện hữu là hiện hữu cùng với và hỗ tương giao thiệp với mỗi mỗi
sự vật khác. Có bao nhiêu sự vật trong vũ trụ thời sự vật ấy có bấy
nhiêu mối quan hệ. Mỗi quan hệ biểu hiện một hình tướng, hay một phẩm
tính. Tuy nhiên, trong đời sống hằng ngày, ý nghĩa về sự hiện hữu của
một sự vật bị giới hạn trong khung ý niệm và phương cách diễn đạt
riêng biệt của cá nhân hay cộng đồng liên hệ. Vì vậy định nghĩa và
danh xưng của sự vật không thoát khỏi giới hạn của thời gian và không
gian, không bao hàm hết thảy mọi quan hệ của sự vật mà chỉ nói lên một
số hạn định hình tướng hay phẩm tính của sự vật tại một nơi nhất
định vào một thời nhất định. Như thế, sự vật hay hiện tượng được
nói đến thường ngày không phải thực tại mà là những khái niệm do vọng
tưởng phân biệt thi thiết. Theo thuật ngữ Bát nhã, đó là danh tự giả
tướng.
Trong mười
nhân khởi Pháp giới vô ngại trùng trùng vô tận nêu ra ở trên, nhân thứ
sáu: "Vì các pháp hiện hành trong vũ trụ được coi như ảnh tượng"
làm sáng tỏ lý đồng thời câu khởi và lý đồng thời hỗ dung. Truyện
kể lại khi nữ hoàng Vũ Tắc Thiên bày tỏ sự muốn hiểu biết một
cách cụ thể thế nào là cái nhìn viên dung vô ngại, ngài Pháp Tạng thực
hiện thí nghiệm vật lý sau đây để giải thích hiện tượng "hỗ tức
hỗ nhập".
Ngài cho đặt
mặt kính khắp nơi trong một căn phòng, trên trần và sàn nhà, trên bốn
vách tường bao quanh, và cả bốn góc phòng. Ngay chính giữa phòng, Ngài đốt
một ngọn nến để sát bên cạnh một tượng Phật. Nữ hoàng kinh ngạc
không tả xiết nhận ra ngay rằng hình ảnh của hết thảy mọi mặt kính
cùng với hình ảnh của tượng Phật phản chiếu trong tất cả và mỗi một
mặt kính. Và trong tất cả và mỗi một hình ảnh phản chiếu trong bất cứ
mặt kính nào cũng tìm thấy được hết thảy mọi hình ảnh phản chiếu
trong tất cả mặt kính khác cùng với hình phản chiếu của tượng Phật.
Thí nghiệm này chứng minh lý hỗ nhiếp và hỗ dung và làm sáng tỏ lẽ mầu
nhiệm về thế giới trùng trùng vô tận. Lý đồng thời câu khởi thật
quá hiển nhiên nên không cần phải giải thích.
Ngài Pháp
Tạng lấy trong tay áo ra một quả cầu thủy tinh nhỏ, đặt trên lòng tay,
rồi nói: "Trong quả cầu nhỏ bé này, hiện ra tất cả mặt kính cùng
với hết thảy phản chiếu. Ðây là một thí dụ về cái nhỏ chứa cái lớn
và cái lớn chứa cái nhỏ. Thí dụ này chứng minh tánh vô ngại của kích
thước lớn nhỏ hay là của không gian. Nó không chứng minh được tánh vô
ngại của thời gian, quá khứ dung nhiếp tương lai và tương lai dung nhiếp
quá khứ, vì đây là một thí nghiệm tĩnh, thiếu tánh cách động của thời
gian. Không thể nào với phương tiện thông thường ta có thể trưng dẫn bằng
chứng cụ thể về thời gian vô ngại, hay thời gian và không gian vô ngại.
Muốn chứng nghiệm một hiện tượng như thế phải có một mức độ nhận
thức khác."
nh phản
chiếu trên gương được dùng để trình bày ba lý do về Pháp giới vô ngại.
Một, vì mọi sự vật đều là ảnh tượng nên không thật có. Chúng
không tự hữu nên tùy thuộc vật thể khác. Bởi thế mà nói tánh Không
bàng bạc khắp nơi. Không đây là Như huyễn Không. Hai, vô lượng số ảnh
tượng đồng loạt phát khởi do mặt gương đồng thời phản chiếu. Ðiều
này làm sáng tỏ lý đồng thời đốn khởi. Ba, mỗi mỗi sự vật đồng
thời vừa là gương phản chiếu vì nó phản chiếu tất cả sự vật, vừa
là ảnh tượng vì đồng thời nó được tất cả sự vật khác phản chiếu.
Do đó mà lý đồng thời hỗ nhiếp được minh chứng.
Hai lý đồng
thời đốn khởi và đồng thời hỗ nhiếp cũng được minh giải bằng ẩn
dụ gọi là Hải ấn tam muội hay Hải kính tam muội. Thuật ngữ Hoa nghiêm
"Hải ấn" hay "Hải kính" biểu tượng Phật tâm, biển
tâm thanh tịnh. Do gió cảnh thổi nên sóng thức nổi dậy. Người đạt
được ngoại cảnh vốn không thời biển tâm tự vắng lặng. Tâm cảnh đều
lặng thời việc gì cũng sáng tỏ, ví như biển cả lặng gió thời mặt
trời mặt trăng và vạn vật hiện hình rõ ràng. Ðó là "cái gương
pha lê tên là năng chiếu, gương này trong sạch sáng suốt, lớn vô lượng
vô biên bằng mười thế giới. Trong các quốc độ, tất cả hình tượng
của núi sông, của mọi loài, nhẫn đến ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục
đều hiện trong gương đó" (Phẩm 35: Như Lai tùy hảo).
Phật tâm,
còn gọi là tâm Chân như, chỉ cho bản thể chơn tâm lìa các vọng niệm.
Tâm này sẵn có trong tất cả chúng sanh. Tâm chúng sanh và tâm Phật hỗ tức
hỗ nhập, phản chiếu lẫn nhau một cách kỳ diệu. Ðiều này được ngài
Trừng Quán giải thích bằng thí dụ sau đây.
Một Ðạo
sư giảng pháp cho đệ tử trong một căn phòng có treo một tấm kính. Tấm
kính, Ðạo sư, và người đệ tử biểu tượng theo thứ tự, tâm Chân như,
đức Phật, và con người. Tấm kính phản chiếu hình ảnh hai nhân vật đối
diện, một đang thuyết pháp, và một đang lắng tai nghe. Ðể mô tả các mối
quan hệ giữa các thành phần tham dự ta có thể nói hoặc là vị Ðạo sư
ở trong tấm kính của người đệ tử đang thuyết pháp cho người đệ tử
ở trong tấm kính của Ðạo sư, hoặc là người đệ tử ở trong tấm kính
của vị Ðạo sư đang lắng tai nghe Pháp do Ðạo sư ở trong tấm kính của
người đệ tử thuyết giảng. Như vậy, khi đức Phật thuyết pháp cho
thính chúng, đó không phải là một mối liên hệ hai chiều giữa người nói
và người nghe. Ðó là một mối liên hệ bốn chiều, đức Phật ở trong
tâm người nghe giảng pháp cho người ở trong tâm Phật và người ở trong
tâm Phật nghe lời thuyết giảng của đức Phật ở trong tâm người nghe.
Viên giáo kiến
Ðứng
trên quan điểm viên dung, "hỗ nhập" hay "đồng thời câu khởi,
đồng thời hỗ nhiếp, và đồng thời hỗ dung" miêu tả tính cách tương
quan vô tận và vô ngại. "Hỗ tức" miêu tả tính cách không phân
biệt, không sai khác của vạn hữu. Hoa nghiêm ngũ giáo chỉ quan của Ðỗ
Thuận giảng dạy phép tu Chỉ Quán theo lý Viên Dung giúp ta hiểu rõ thêm
hai nguyên lý hỗ nhập và hỗ tức này. Trong đó có đoạn đề cập ba
phương pháp chứng nhập Chân như, thấy rõ Chân như là ly danh tự tướng
(không có danh tự để gọi), ly ngôn thuyết tướng (không có lời nói để
luận bàn), và ly tâm duyên tướng (không thể dùng tâm để suy nghĩ được).
Phương pháp
thứ ba nhằm chứng minh các pháp vượt ngoài hết thảy ngôn thuyết và tư
duy thông tục. Hai cách để thực hiện: đoạn hoặc và chứng chân. Cách
đầu, đoạn hoặc, được áp dụng như sau.
Hỏi: Các
pháp duyên khởi là có?
Trả lời:
Không, các pháp duyên khởi không có. Chúng đồng nhất với tánh Không; hết
thảy mọi pháp duyên khởi đều vô tự tính nên Không.
Hỏi: Vậy
các pháp duyên khởi là không?
Trả lời:
Không, chúng có. Bởi vì các pháp do quan hệ phát sinh đã có từ vô thỉ.
Nếu không thời câu hỏi vừa rồi không thể đặt ra.
Hỏi: Như
thế, chúng là cả hai, có và không?
Trả lời:
Không, bởi vì Không và có hỗ tương nhiếp nhập thành một. Trong cảnh giới
Không và có hỗ tương nhiếp nhập tất cả các pháp duyên khởi đều không
sai khác. Không mảy may dấu vết phân hai. Ðiều này có thể minh chứng bằng
ẩn dụ đồ trang sức bằng vàng và vàng dùng làm chất liệu cho đồ
trang sức.
Hỏi: Vậy
chúng chẳng phải không chẳng phải có?
Trả lời:
Không, bởi vì cả hai, có và Không, cùng có một lúc, một chỗ (câu hữu)
mà không trở ngại lẫn nhau. Ðó là do sự hỗ tương nhiếp nhập mà các
pháp duyên khởi đồng thời câu khởi.
Hỏi: Như
thế, rốt cuộc tất cả chúng rõ ràng là không?
Trả lời:
Không, do có và Không hỗ tương nhiếp nhập nên cả hai đều biến mất. Các
pháp đều Không khi nhìn từ quan điểm Tánh Không phủ định sự hiện hữu;
chúng hiện hữu khi nhìn từ quan điểm Có phủ định tánh Không. Nhìn từ
hai quan điểm đồng thời phủ định thời cả hai diện, có và Không, đều
biến mất. Nhìn từ hai quan điểm hỗ tương câu khởi thời cả hai diện,
có và Không, đều hiện có.
Ðiều đáng
lưu ý ở đây là không cần biết đến sự thay đổi lập trường và
cách đặt câu hỏi, Hoa nghiêm vẫn một mực giữ lập trường "đoạn
hoặc", nhất thiết phủ định trong mọi câu trả lời! Lý do: Mọi
quan điểm đều là kiến tư hoặc hay phiến diện, lộ bày mặt này nhưng
che lấp mặt khác.
Bây giờ
hãy đọc đoạn kế tiếp nói về cách thực hiện chứng nhập Chân như bằng
"chứng chân". Các câu hỏi vẫn như trước, không thay đổi, nhưng
các câu trả lời lần này hoàn toàn trái nghịch với lần trước, luôn
luôn xác quyết khẳng định.
Hỏi: Các
pháp duyên khởi là có?
Trả lời:
Phải, bởi vì giả hữu là không phải phi hữu.
Hỏi: Vậy
các pháp duyên khởi là không?
Trả lời:
Phải, bởi vì chúng vô tự tính nên Không.
Hỏi: Như
thế, chúng là cả hai, có và không?
Trả lời:
Phải, bởi vì có và không không trở ngại lẫn nhau, cái này không che lấp
cái kia.
Hỏi: Vậy
chúng chẳng phải không chẳng phải có?
Trả lời:
Phải, bởi vì có và không hỗ tương phủ định nên cả hai đều bị loại
trừ. Tóm lại, chính do duyên khởi mà vạn pháp hiện hữu; chính do duyên
khởi mà vạn pháp không hiện hữu; chính do duyên khởi vạn pháp chẳng những
hiện hữu mà còn là không hiện hữu; và chính do duyên khởi mà vạn pháp
chẳng phải hữu chẳng phải phi hữu. Cùng một lối diễn tả như vậy, một
là một, một là không một, một là cả hai, một và không một, và một
chẳng phải một chẳng phải không một; nhiều là nhiều, nhiều là không
nhiều, và là cả hai, nhiều và không nhiều, và chẳng phải nhiều chẳng
phải không nhiều. Như thế, vạn pháp là nhiều; vạn pháp là một; vạn
pháp là cả hai, nhiều và một; và vạn pháp chẳng phải nhiều chẳng phải
một. Tứ cú về đồng nhất và dị biệt cũng theo mẫu hình lý luận tương
tợ. "Ðoạn" và "chứng" hỗ tương nhiếp nhập viên dung
vô ngại, được như vậy là do tự thể của duyên khởi hoàn toàn giải
thoát khỏi mọi trói buộc.
Theo đoạn
văn vừa kể, tinh thần và cốt lõi của giáo lý Hoa nghiêm tìm thấy ngay
trong những cách trả lời khác nhau đối với những câu hỏi giống nhau,
phải, không phải, cả phải và không phải, và chẳng phải phải chẳng phải
không phải. Rõ ràng mỗi khi câu hỏi qui chiếu phạm trù A, thời câu trả
lời qui chiếu phạm trù B. Khung ý niệm chuyển đổi khi cần phải trả lời
cùng một câu hỏi hay một câu hỏi đồng loại. Như thế có hợp lý hay
không? Nếu người trả lời bị trói buộc ở trong một cảnh giới nhất
định, thời trả lời như vậy là sai lạc. Nhưng nếu người đó tự tại
vô ngại, không bị ràng buộc vào bất cứ cảnh giới nào, thời các cách
trả lời dầu đối nghịch nhau vẫn xem như không phạm lỗi.
Thật vậy,
bảo rằng lỗi lầm, tức là lỗi lầm đối với quan điểm phát xuất từ
một khung ý niệm nào đó có sẵn. Thoát khỏi mọi khung ý niệm do ngã kiến
thời mới có thể thông đạt Viên giáo, giáo lý căn cứ trên hai nguyên
lý hỗ tức và hỗ nhập. "Nếu đến ngay nơi Viên giáo để nói thời
một chướng tức là tất cả chướng, đoạn một tức là đoạn tất cả.
Chính vì hễ một chỗ niệm mê thời cả pháp giới đều mê, mà hễ trong
lúc một hoặc đoạn bằng cách đúng tánh, thời tất cả hoặc đều đoạn
ráo. Bởi vì số một với số tất cả lẫn nhau làm duyên để sanh khởi;
hễ một pháp xứng tánh, thời lan khắp tất cả pháp, vì tướng nó chẳng
hoại, nên chẳng ngại đoạn riêng dùng cái riêng để trùm cái chung."
(Hoa nghiêm nguyên nhân luận. Tông Mật. Thích Khánh Anh dịch)
Câu chuyện
Thiền sau đây có ý nghĩa tương tợ: Mã Tổ trắc nghiệm Ðại Mai, trích
từ "Thỏng tay vào chợ" của Tuệ Sỹ.
"Mã Tổ
nghe Ðại Mai lên núi ở, bèn sai một người đến thăm dò, tăng đến hỏi
Ðại Mai: "Hòa thượng gặp Mã Tổ được cái gì mà về ở núi
này?"
Sư đáp:
"Mã Tổ nói với tôi "Tức tâm tức Phật" tôi bèn ở núi
này."
Vị tăng
thưa: "Gần đây Mã Tổ nói "Phi tâm phi Phật".
Ðại Mai
nói: "Ông già mê hoặc người chưa lúc nào nghỉ. Mặc ông phi tâm phi
Phật, tôi chỉ biết tức tâm tức Phật."
Vị tăng
trở về thưa lại Mã Tổ những lời sư nói. Mã Tổ bảo với đại chúng:
"Trái Mai (me) đã chín rồi".
Ðiểm đáng
ghi trong câu chuyện này là đối với người có trí viên dung vô ngại thời
dù nói ngược nói xuôi, nói phải nói quấy, không có gì là sai trái chướng
ngại. Mọi chuyện đều là những thể hiện nhiệm mầu dung nhiếp của cuộc
sống. Ðại Mai đã thể hiện trong cuộc sống tự tại thong dong của
chính mình khi được Mã Tổ trắc nghiệm.
Vào lúc đầu
đi tìm hiểu giáo lý Hoa nghiêm hai câu hỏi sau đây thường được đặt
ra. Một, Viên giáo kiến của Hoa nghiêm có trái nghịch với những qui luật
cơ bản của logic hay không? Hai, làm thế nào một thứ triết lý về toàn
thể tính của tất cả hiện hữu như lý Viên dung có thể dẫn đến sự
thành tựu một trật tự, xã hội, đạo đức, tâm linh, ...?
Ðể giải
đáp thắc mắc thứ nhất, tưởng nên biết rằng theo luận lý hình thức,
nếu một mệnh đề và mệnh đề phủ định nó được đồng thời chấp
nhận làm tiền đề của luận pháp thời suy diễn bất cứ mệnh đề nào
thành đoán án cũng đúng cả. Viên giáo kiến là hệ luận tự nhiên của
quan hệ hỗ tức giữa Có và Không, giữa Hữu và Phi hữu, bởi vậy cho
nên theo luận lý hình thức, Viên giáo kiến đúng trên phương diện diễn
dịch. Mặt khác, bằng vào những kinh nghiệm tu chứng thời Viên giáo kiến
chân thật. Mọi sự bất nhất bất đồng trong cảnh giới này có thể trở
thành nhất quán hòa đồng trong cảnh giới khác.
Thắc mắc
thứ hai là theo Viên giáo mọi phát biểu đều có thể đồng thời được
chấp nhận và không được chấp nhận, thử hỏi làm thế nào một phát
biểu như vậy có thể thi thiết một nguyên lý hay trật tự? Câu trả lời
là vấn đề chấp nhận hay không chấp nhận một phát biểu tùy thuộc trạng
huống hay cảnh giới. Một nguyên lý hay trật tự chỉ đúng và có hiệu năng
trong một cảnh giới nào đó mà thôi. Ðối với cảnh giới khác, nó có
thể không còn đúng và mất hết hiệu năng tác dụng.Thường trật tự
thiết lập trong những cảnh giới mức phức tạp thấp không ứng nghiệm
đối với những cảnh giới mức phức tạp cao, cho nên mới phát sinh những
trật tự mới tuy có công năng thích hợp với những cảnh giới phức tạp
nhiều hơn thế mà vẫn còn hàm dung chứ không khiển trừ trật tự có trước.
Ðó là sự thật hiển nhiên trong mọi ngành khoa học, xã hội học, đạo
đức học, v..v... Chẳng hạn, trong vật lý học, thuyết tương đối, cơ học
lượng tử, và cơ học cổ điển đồng thời câu khởi, đồng thời hỗ nhiếp, đồng thời hỗ
dung. Chúng không ngăn ngại nhau. Trật tự nào vận dụng lợi ích trong cảnh
giới tương hợp với trật tự đó. Thuyết tương đối rất cần thiết
để mô tả những chuyển động có tốc độ lớn gần bằng tốc độ
ánh sáng. Cơ học cổ điển được sử dụng để mô tả những chuyển động
thấy trong đời sống hằng ngày. Cơ học lượng tử đúng và hiệu nghiệm
trong thế giới hiện tượng vi mô mà thôi. Viên giáo kiến không loại bỏ
hay gây trở ngại bất kỳ một trật tự nào trong bất cứ cảnh giới
nào. Nhìn trên quan điểm viên dung, mọi bất nhất và bất đồng trở thành
vô ngại và nhất quán. Ðó là hành tướng của hai nguyên lý, hỗ nhập
và hỗ tức.
Một
nguyên lý căn bản của khoa học là "chư hành vô thường". Tính
cách vô thường của thế giới hiện tượng là do vạn hữu hỗ tương tác
dụng. Khoa học không xét tương quan nhân quả giữa vạn hữu theo phương
diện tự thể, nghĩa là không nói sự thể này đã sinh sự thể kia ra thế
nào, mà chỉ xét theo phương diện tác động, nghĩa là sự tương tác giữa
các sự thể. Tương tác còn gọi là lực được phân chia thành bốn loại:
trọng lực tức tương tác giữa các trọng khối, điện từ lực tức
tương tác giữa các điện tích (charges), lực hạt nhân yếu tức nguyên
nhân phân rã neutron thành proton và electron ở bên trong hạt nhân, và lực hạt
nhân mạnh tức nguyên nhân dính chặt neutron và proton ở bên trong hạt
nhân.
Một
nguyên lý căn bản khác của khoa học là nguyên lý Thực tại nhất thể.
Trong trường hợp sử dụng thuyết tương đối của Einstein, thời theo một
định lý toán của Roger Penrose và Stephen Hawking, vũ trụ hiện khởi từ một
dị điểm (singularity). Thuyết này thường được gọi là thuyết Bùng nổ
(Big Bang). Nhưng thuyết này mới giải quyết vấn đề được một nửa mà
thôi, vì thuyết tương đối không đủ khả năng mô tả cái điểm nguyên
thủy của vũ trụ. Bởi vậy, Stephen Hawking tìm cách phối hợp thuyết tương
đối với cơ học lượng tử và thành công chứng minh bằng toán học rằng
vạn hữu hiện khởi không phải từ một dị điểm mà từ một thực tại
nhất thể, vô thỉ vô chung, không biên giới, đồng nhất, không có dị
điểm, không sai biệt, nghĩa là không có hạt cơ bản nào để phân biệt.
Cái thực tại nhất thể này không sai khác Pháp giới Hoa nghiêm, nên có thể
gọi là Pháp giới Khoa học. Nguyên lý Thực tại nhất thể hướng mọi nỗ
lực nghiên cứu và thực nghiệm vật lý vào những công trình tổng hợp bốn
loại lực tương tác nói trên thành một lực duy nhất. Steven Weinberg (1967)
và Abdus Salam (1968) thành công tổng hợp điện từ lực và lực hạt nhân
yếu. Trên lý thuyết, đó là hai mặt tác dụng của lực tổng hợp gọi
là lực điện yếu (electroweak interaction). Ðến năm 1970, các điều dự đoán
của lý thuyết được thử nghiệm đúng nên hai nhà vật lý học này được
giải Nobel Vật lý năm 1979. Vũ trụ bùng dãn là nguyên nhân làm nhiệt độ
giảm bớt và đến một mức nào đó (độ chừng 1015 K, 10-10 giây sau khi điểm nguyên thủy
bùng dãn) hai lực ấy khởi xuất sai biệt từ một tương tác gọi là lực
điện yếu. Lực này hiện khởi sai biệt với lực hạt nhân mạnh ở vào
nhiệt độ cao hơn, độ chừng 1018
K, 10-35 giây sau bùng dãn. Ðến
nay sự tổng hợp hai lực điện yếu và lực hạt nhân mạnh chưa đạt
được kết quả nào đáng kể, tại vì trong thực tế không thể thực hiện
các cuộc thử nghiệm ở vào nhiệt độ quá lớn, lớn hơn 1018 K. Tuy vậy mọi nỗ lực vẫn
được tiếp tục nhằm khám phá những lý thuyết thâu nhiếp tất cả ba lực:
lực điện yếu, lực hạt nhân mạnh, và trọng lực thành Một hầu tìm
hiểu những nhân duyên hiện khởi của thế giới hiện tượng. Như vậy,
theo thuật ngữ Phật giáo, mục đích của vũ trụ học là nhằm tìm hiểu
lý chân không vô ngại và lý hữu hóa duyên sanh của vạn pháp.
http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/nhanduyen_phapgioi.htm