Những
lúc rảnh rỗi, mẹ thằng Lâm thường biểu nó đọc chuyện Phật cho mẹ nghe.
Thật ra mẹ thường tự đọc lấy. Có lẽ mẹ muốn nó đừng lơ là việc học Phật
nên mẹ mới bắt nó đọc. Mẹ thích nghe tiểu sử suốt cuộc đời của Đức Phật từ
tuổi ấu thơ đến khi đắc đạo, rồi sau đó dùng hết những năm còn lại để
hoằng pháp cứu độ chúng sanh. Niềm tin của mẹ là bằng cả tâm hồn, không
chất vấn. Mẹ tin rằng tu tập theo đúng lời Phật dạy sẽ tạo cho con người
một tâm hồn có đạo đức, minh mẫn và sáng suốt mà đỉnh cao là một đạo đức
vô biên và một thính thị siêu việt như Đức Phật vậy. Mẹ vui mừng thấy
thằng Lâm chăm lo việc học Phật. Do đó mẹ không ngạc nhiên sự tiến bộ của
nó trong việc học hành những lĩnh vực khác. Mẹ đã thọ giới trường trai khi
thằng Lâm vào đại học. Lòng mẹ vui mừng khôn tả.
Ở đại học, thằng Lâm được học thêm nhiều môn toán học
mới lạ. Tuy nhiên môn hình học Euclid vẫn là môn học phổ biến. Euclid
(3307–2707 BC) là cha đẻ của môn hình học này. Không gian Euclid là một
không gian 3 thứ nguyên, bằng phẳng, là một sân khấu bao la. Diễn viên là
những hình tượng vô cùng lý tưởng như điểm, đường thẳng, mặt phẳng, đường
tròn, tam giác, mặt trụ, mặt nón, v.v. Điểm không có kích thước. Đường
thẳng không có chiều rộng. Mặt phẳng không có bề dày. Hai đường song song
không bao giờ gặp nhau. Từ một điểm chỉ có thể vẽ một đường thẳng duy nhất
song song với một đường thẳng cho sẵn. Tổng số ba góc của mọi tam giác
phải bằng 180 độ, v.v. Nói chung, hiếm có một vật thể nào trong vũ trụ có
thể đạt được những tiêu chuẩn lý tưởng của hình học Euclid. Tuy có nhiều
bài toán, nhất là toán hình học không gian, rất hóc búa, nhưng hình học
Euclid rất phù hợp với những trực giác thông thường của chúng ta. Do đó đa
số sinh viên có thể hiểu môn học này tương đối dễ dàng.
Hình học Euclid đứng vững hơn 2300 năm không bị thách
đố. Không lạ gì môn học này ảnh hưởng lớn đến triết học. Không gian không
thể có nhiều hơn cũng không thể có ít hơn 3 thứ nguyên. Trực giác thông
thường cho thấy chỉ cần biết hoành độ, tung độ và cao độ của một điểm là
điểm đó hoàn toàn được xác định. Nhiều hơn ba là thừa. Ít hơn ba là thiếu.
Aristotle (384–322 BC) là nhà triết học đầu tiên khẳng định điều này.
Ptolemy (AD 100?–165?) đi một bước xa hơn, chứng minh rằng không gian
không thể có chiều thứ tư, đại khái như sau: Trước hết vẽ ba đường thẳng
vuông góc từng đôi một. Xong ông lập luận rằng không có cách nào có thể vẽ
một đường thẳng thứ tư vuông góc với cả ba đường thẳng nói trên. Thực ra
lập luận của Ptolemy chỉ nói lên sự kiện rằng chúng ta không cách gì có
thể hình dung được chiều thứ tư của không gian. Ngày nay, toán học khẳng
định rằng tuy không thể hình dung được chiều thứ tư nhưng đã chứng minh
được rằng một không gian nhiều thứ nguyên có thể tồn tại.
Hình học Euclid thật ra chỉ là một trường hợp đặc biệt
của môn hình học Riemann. Không gian Riemann rất đa dạng, muôn màu muôn vẻ,
lãng mạn hơn không gian Euclid. Gauss (1777–1855,) sư phụ của Riemann
(1826–1865,) là một trong những người tiên phong đã làm lung lay nền tảng
hình học Euclid. Gauss hình dung mấy con mọt sách như đang sống trong
những không gian hai thứ nguyên (tức những trang sách.) Từ đó ông suy rộng
ra rằng có thể tồn tại những không gian nhiều thứ nguyên, hai, ba, bốn,
năm, v.v. Tuy nhiên Gauss dù là một thiên tài nhưng bảo thủ. Do đó ông
không xuất bản công trình nghiên cứu của mình, sợ những tay quyền thế thủ
cựu phẫn nộ. Nhân có đồ đệ tài ba là Riemann, ông giao phó Riemann thuyết
trình đề tài về nền tảng môn hình học.
Riemann sinh ra trong một gia đình nghèo khó, gồm sáu
anh chị em. Thân phụ là một mục sư, đồng lương khiêm tốn không đủ sống. Từ
nhỏ Riemann vốn là người rụt rè nhút nhát, sức khỏe lại yếu kém, bị bệnh
lao phổi. Ở trường ông thường bị chúng bạn chê cười. Tuy nhiên Riemann có
biệt tài về toán học.
Vâng lời thân phụ, ông ghi danh học môn thần học, hầu
có thể nhanh chóng trở thành một mục sư, phụ giúp gia đình. Tuy phải học
Kinh Thánh, nhưng đầu óc ông luôn luôn bị toán học lôi cuốn. Với quyển về
lý thuyết số học của Legendre (1752–1833) dày 859 trang, một lý thuyết rất
khó hiểu, Riemann chỉ đọc trong sáu ngày, và đã thông hiểu một cách tường
tận.
Nhận thấy con mình có biệt tài về toán học, thân phụ
ông đành hy sinh cho ông vào học trường đại học nổi tiếng Gottingen khi
ông 19 tuổi, và chính nơi đây, Gauss đã trở thành vị giáo sư đầu tiên của
ông. Với đề tài thuyết trình về nền tảng môn hình học đang đè nặng trên
vai, Riemann còn phải làm phụ tá phòng thí nghiệm cho một giáo sư khác là
Weber (1804–1891) đang nghiên cứu về sự liên hệ giữa dòng điện và nam châm.
Riemann quan sát kỹ lưỡng sự liên hệ này, và cho rằng điện lực và lực nam
châm là biến hóa của cùng một loại lực. (Sau này Maxwell (1831–1879) đã
thành công kết hợp điện lực và từ lực với nhau thành môn điện từ học, và
loại lực phối hợp này được gọi là lực điện từ.)
Lý thuyết trọng lực của Newton (1642–1727) tuy rất
thành công trong việc giải thích chuyển động của vật thể, kể cả chuyển
động của các hành tinh trong thái dương hệ, nhưng chính Newton cũng không
thể trả lời câu hỏi tại sao có sức hút trọng lực giữa hai vật thể. Newton
giả thuyết rằng sức hút trọng lực là tức thì. Ví dụ nếu mặt trời tự nhiên
biến mất, tất cả những hành tinh trong thái dương hệ sẽ tức thì rời quỹ
đạo di chuyển vào không gian thăm thẳm. Ngày nay chúng ta biết rằng trọng
lực chỉ truyền với vận tốc ánh sáng. Do đó nếu mặt trời biến mất, phải 8
phút sau địa cầu mới bắt đầu rời khỏi quỹ đạo.
Riemann
cho rằng lực mang tính chất hình học. Ông hình dung con mọt sách di chuyển
trên một mảnh giấy nhàu nát. Con mọt sách sẽ không cảm thấy vũ trụ của
mình (tức mảnh giấy nhàu nát) quăn queo cho đến khi nó bò qua những góc
cạnh nhăn nheo của mảnh giấy. Nó sẽ có cảm giác như có một lực vô hình nào
đó đang xô đẩy mình. Riemann kết luận rằng lực là hậu quả của sự quăn queo
của không gian. Và ông cho rằng không gian ba thứ nguyên của chúng ta bị
quăn queo trong một chiều thứ tư vô hình. Bình thường chúng ta không cảm
giác thấy sự quăn queo của không gian. Tuy nhiên khi chúng ta cố đi theo
một đường thẳng, chúng ta sẽ cảm giác như có một lực vô hình đang xô đẩy
chúng ta đi như người say rượu. Riemann cho rằng không những trọng lực mà
cả lực điện từ cũng đều là hậu quả của vũ trụ ba thứ nguyên của chúng ta
quăn queo trong một chiều thứ tư vô hình của không gian.
Với những lập luận cơ bản trên, Riemann đã phát minh
môn hình học hoàn toàn mới lạ mà ngày nay chúng ta gọi là hình học
Riemann. Không gian Riemann có n thứ nguyên (n = 1, 2, 3, 4, …) và là một
không gian quăn queo. Không gian Euclid chỉ là một trường hợp đặc biệt khi
n = 3 và khi không gian là một không gian phẳng. Trong hình học Riemann,
từ một điểm có thể kẻ nhiều đường thẳng song song với một đường thẳng cho
sẵn, và tổng số 3 góc trong một tam giác không nhất thiết phải bằng 180 độ.
Tùy theo những độ cong khác nhau của không gian, tổng số 3 góc của một tam
giác có thể lớn hơn, bằng, hay bé hơn 180 độ.
Buổi thuyết trình về nền tảng môn hình học do Gauss
giao phó thành công mỹ mãn. Tiếng đồn vang dội khắp nơi. Không gian
Riemann nhanh chóng ảnh hưởng đến các lĩnh vực triết học hội họa thẩm mỹ,
v.v . Tất cả đều cố gắng hình dung mô tả khai thác những gì có thể xảy ra
từ cái thứ nguyên thứ tư vô hình của không gian. Picasso (1881–1973) cũng
không ngoại lệ. Ông đã vẽ một số bức tranh lập thể lạ thường, muốn ngưòi
xem tranh có thể hình dung cái thứ nguyên thứ tư vô hình này.
Rất tiếc, Riemann chỉ hưởng thọ 39 tuổi. Sự nghèo khó
túng thiếu, bệnh hoạn cọng thêm lao tâm không ngừng đã cắt ngắn tuổi thọ
của ông. Ông không có đủ thì giờ để hoàn tất những dự án đã định sẵn trong
đầu: Viết phương trình cho điện từ lực và cho trọng lực. Do đó những dự án
này phải hoãn lại cho đến thời Maxwell và Einstein.
Thời gian trôi qua thật nhanh. Mới đó mà thằng Lâm đã
tốt nghiệp đại học, rồi trở thành ông Lâm dạy học. Và bây giờ ông đang làm
nghiên cứu một luận án tiến sĩ. Đề tài nghiên cứu của ông liên quan mật
thiết đến hình học Riemann: Không thời gian Einstein 4 thứ nguyên, 3 chiều
không gian và 1 chiều thời gian. Nhiệm vụ của ông là dùng phương trình
Einstein để tìm một lời giải mô tả vùng không thời gian khi hai hố đen
cùng rơi dọc theo một trục không gian. Và ông đã hoàn tất dự án sau gần 4
năm nghiên cứu. Lời giải tuy chỉ là một phương trình toán học ngắn gọn,
nhưng ông có thể hình dung một không thời gian uốn lượn mỹ miều. Ông mường
tượng tâm hồn mình như đang lạc vào vùng không thời gian đó, quên đường về.
Ông tâm tình với mẹ:
Con
họa bức tranh chân trời tím
Rồi bước vào ngắt những vì sao
Vẩn vơ với ánh nắng lụa đào
Đã quên mất đường vào quê mẹ:
Cơn gió chiều hương thơm nhè nhẹ
Linh Mụ trầm ngân vọng tiếng chuông
Có ai về qua xứ Kim Luông
Đừng quên nhé đây cầu Bạch Hổ
Con nhớ mẹ quê cha đất tổ
Có sông Hương núi Ngự bình yên
Đàn Nam Giao sương khói thiêng liêng
Có Vân Lâu câu hò muôn thuở
Thiên An bao nỗi niềm nhung nhớ
Từ Đàm chan chứa mộng yêu thương
Tràng Tiền mười hai nhịp vấn vương
Dấu chân đi như còn in đó
Trăng Vỹ Dạ hàng cây lấp ló
Bến Ngự chiều mây cuốn vẩn vơ
Ngẩn ngơ hồn về chốn quê xa
Bao kỷ niệm ngày xưa với Huế.
Con vào cõi mênh mông trần thế
Quên đóa hồng trao mẹ thân yêu
Bức tranh đây tuy chẳng diễm kiều
Con chỉ có xin dâng lên mẹ.
Tự nhiên cả một quãng đời tuổi thơ khi ông còn là
thằng Nghé bé tí ở quê ngoại hiện rõ trong tâm trí ông. Tình thương của mẹ
và ngoại dành cho thằng Nghé thật bao la. Hằng ngày mẹ phải đi vắng. Sợ
thằng Nghé ở nhà buồn, mẹ đã xin ngoại cho nó nuôi một con gà cồ. Ngoại đã
đồng ý không lời do dự. Và ông Lâm nhớ lại giấc mơ kỳ quái của thằng Nghé
năm nào …
Hằng ngày ngoại loay hoay việc nhà, không có nhiều thì
giờ chơi với nó. Vì vậy con gà cồ là bạn thân thiết của nó. Ngoại nuôi cả
mấy chục con gà. Nó thích nhất đám gà con vừa nở. Tiếng kêu chiêm chiếp
quấn quít bên mẹ thật dễ thương. Nhưng nó không dám đến gần, càng không
dám đụng mấy con gà con. Con gà mẹ dữ lắm. Nó xòe cánh gầm gừ muốn mổ chân
thằng Nghé mỗi khi nó đến gần. May nó đã có con gà cồ để nô đùa.
Thằng Nghé bắt đầu kỳ thị bầy gà của ngoại. Mỗi lần cho
gà ăn nó cố tình xua đuổi bầy gà của ngoại để con gà cồ của nó được ăn
nhiều hơn. Nhưng ngoại phản đối. Nó đành cho cả bầy gà ăn chung vậy. Nhưng
trong lòng vẫn muốn con gà cồ của nó được dành phần lớn nhất. Nghiệt nỗi
có mấy con gà cồ khác to con hơn, và nhất là mấy con gà mẹ ỷ thế có đàn
con nhỏ. Chúng dành phần ăn con gà cồ tội nghiệp của nó. Nó bắt đầu thương
con gà cồ của nó nhiều hơn.
Chỉ mấy tháng sau, con gà cồ của thằng Nghé đã đủ lông
đủ cánh, đã trở thành một chàng trai trẻ dậy thì. Nó bắt đầu gáy cốc cồ cô
mỗi buổi sáng. Nó trở thành chiếc đồng hồ rất đúng giờ giấc, mặc dù thời
gian đối với thằng Nghé không những không cần thiết mà dường như đang
ngừng trôi. Dường như tuổi thơ là vĩnh cửu. Một ngày đều vui tươi rộn rã
như mọi ngày. Có lo âu chăng là những lần trong nhà có kỵ giỗ. Ngoại
thường cho làm gà để cúng tổ tiên. Nó sợ mẹ và mấy dì sẽ chọn đúng con gà
cồ của nó. Nhưng đừng hòng. Ngoại sẽ là quan tòa tối cao. Và ngoại bao giờ
cũng về phe nó. Nghĩ vậy, và nó chắc chắn như vậy, nên nó rất yên tâm.
Nhưng dường như con gà cồ của nó chẳng quan tâm nó bao
nhiêu. Con gà của nó thích nô đùa với bầy gà của ngoại. Nó đem lòng ganh
tị. Nó lang lang trên con đường xóm vắng, làm quen với khóm tre ngay trước
ngõ nhà. Mấy sợi dây bìm bịp chạy vòng quanh khóm tre, vươn mình như muốn
thu hút nhiều ánh nắng mặt trời hơn. Khóm tre trở thành một bó hoa khổng
lồ, in hình trên đường xóm, bao trùm lấy nó, như muốn che chở nó trong cơn
nắng hạ gay gắt. Bỗng con gà cồ của nó chạy về hướng khóm tre nơi nó đang
thơ thẩn. Có lẽ mấy con gà bự con giành mồi với con gà cồ của nó. Tuy có
thể chỉ là một ngẫu nhiên, nhưng nó vẫn tin con gà cố tình tìm nó để được
bảo vệ. Nó càng thương con gà cồ nhiều hơn. Chúng nó, con gà cồ và nó,
cùng nhau trở vào nhà đúng lúc ngoại gọi về ăn cơm.
Bên cạnh ngoại, thằng Nghé có con gà cồ, có khóm tre,
có con đường xóm vắng. Phía trước là rột trồng rau. Dọc con đường xóm là
lũy tre xanh. Cuối xóm là dòng sông uốn mình theo con đê làng. Đối diện
nhà ngoại là khu vườn rộng của ông đội Sâm, vắng vẻ một cách ma quái. Đó
là tất cả của nó. Nhiều hơn đầy đủ. Là tổ ấm. Là thiên đường. Nó không cần
gì khác. Đây là hạnh phúc. Đây là kỷ niệm. Kỷ niệm đẹp nhất của tuổi thơ,
không bao giờ quên.
Con gà cồ và thằng Nghé ngày ngày quấn quít bên nhau.
Nói đúng hơn, nó quấn quít bên con gà cồ trong lúc con gà cồ quấn quít bầy
gà của ngoại. Nó cóc cần con gà đối xử với nói như thế nào. Nó vẫn thích
nô đùa với con gà cồ của nó. Nhiều khi nó muốn bồng con gà trong tay nhưng
không cách gì bắt được. Nó nghĩ ra một cách: Rải vài hạt thóc, dụ con gà
đến ăn. Ban đầu, hễ xích đến gần là con gà bỏ chạy, cho dù mấy hạt lúa rất
hấp dẫn nó. Nhưng dần dần quen đi, con gà không còn sợ hãi, và nó có thể
sờ vào con gà. Cuối cùng sau một thời gian, con gà cồ trở nên thân thiện
với nó hơn, và bây giờ nó có thể bồng con gà trong tay hầu như bất cứ lúc
nào.
Thỉnh thoảng nó bồng con gà cồ đi chơi. Lần này có gặp
mấy đứa khoảng cùng lứa. Nhờ có con gà cồ trong tay, chúng nó thân thiện
muốn làm bạn với nó. Nó vui mừng lắm. Thông thường ít có người qua lại
trên con đường xóm, người lớn cũng như con nít. Chỉ có nó là bạn khắng
khít nhất. Con gà cồ, con đường xóm và nó như một bộ ba tương thân tương
ái. Bây giờ có thêm mấy đứa bạn, vui nhộn hơn. Nhưng dường như mấy đứa đó
chỉ muốn làm bạn với con gà cồ. Nó không muốn. Nó muốn nó là người bạn duy
nhất của con gà cồ. Nó ôm con gà về nhà. Có con gà cồ, có ngoại. Vậy là đủ.
Rất đủ.
Nhiều đêm thằng Nghé nằm mộng thấy con gà cồ nô đùa với
nó rất thân thiện. Nhưng có một đêm nó mộng thấy con gà tự nhiên biến mất.
Bị bắt cóc? Ai bắt cóc con gà? Nó chạy tìm khắp vườn. Không thấy. Nó chạy
ra con đường xóm. Không thấy. Nó hối hả chạy về phía rột. Hấp tấp bị vấp
ngã làm nó tỉnh giấc. Giấc mơ rõ ràng như thật. Nó hối hả chạy ra chuồng
gà. Trời còn sẫm tối chẳng thấy gì hết. Mấy con gà nghe tiếng động quát
quát ầm ỹ. Mẹ bị đánh thức. Nghe tiếng nó ở chuồng gà, mẹ thắp cây đèn dầu
tìm nó. Nó kể lại giấc mơ. Mẹ buộc miệng: “Tầm bậy, làm gì có ma quỷ. Đừng
sợ.” Nó định phản đối vừa lúc ánh đèn rọi ngay vào con gà cồ của nó. Nó lí
nhí mấy câu, lời chẳng ra lời, miệng cười toe toét một cách sung sướng.
Dường như mẹ kinh ngạc thái độ hơi thất thường của nó. Nhưng nó không cần
phải giải thích. Nó trở về giường, ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng.
Giấc mơ cứ ám ảnh thằng Nghé. Tuy mơ nhưng rõ ràng tự
nhiên con gà biến mất. Một trăm phần trăm là thật. Con gà cồ của nó đang
bị đe dọa. Không chừng đêm mai hay đêm mốt con gà lại bị bắt cóc lần nữa.
Và không chừng lần này nó sẽ không bao giờ gặp lại con gà. Nó lo lắng. Nó
phải tìm cách bảo đảm an toàn cho con gà cồ thân thương của nó. Trước khi
trời tối, nó lấy cái giỏ lớn ngoại thường dùng đựng rơm để nhốt con gà của
nó an toàn. Giỏ đang chứa đầy rơm, nó không biết đổ vào đâu. Nó len lén đổ
rơm ở vườn sau, bên cạnh mấy luống rau khoai. Bị dì bắt gặp, chất vấn. Nó
lung túng không biết cách trả lời. Dì lớn tiếng hơn. Nó oà khóc. Ngoại
nghe thấy, hỏi chuyện gì om sòm. Nó mếu máo kể lại giấc mơ hôm trước.
Ngoại bèn quở dì: “Bộ mi muốn hắn mất ngủ răng? Hắn sợ mất con gà. Kệ hắn.
Để hắn mần.” Đó, thấy chưa? Nó biết mà! Ngoại vừa là quan tòa vừa là luật
sư tài ba nhất của nó, kiện đâu thắng đó.
Trước khi trời tối nó dùng cái giỏ nhốt con gà của nó
riêng ra. Để chắc ăn, nó lấy viên đá lớn đè lên giỏ. Nó yên tâm đi ngủ. Và
giấc mơ từ từ đến. Con gà ngoan ngoản nằm trong chiếc giỏ. Dường như con
gà cũng đang ru giấc ngủ của mình. Không biết con gà có mơ thấy nó không.
Nhìn con gà an toàn trong chiếc giỏ, lòng nó hết sức thanh thản. Nó thả
hồn vào con đường xóm vắng, hình dung con gà trên tay, chúng nó thong thả
tản bộ, ngắm lũy tre xanh, ngắm mấy sợi dây bìm bịp vấn quanh khóm tre
cạnh nhà. Chúng nó nô đùa như đôi bạn thân thiết nhất. Đùng một cái, con
gà biến mất!
Nó hoảng hốt kinh ngạc. Không thể nào. Cái giỏ vẫn y
nguyên không bị xê dịch. Viên đá lớn vẫn đè trên giỏ. Ngoại mới mua chiếc
giỏ tuần trước, vẫn còn mới toanh. Không có lỗ thủng, con gà biến mất bằng
cách nào? Tim nó đập mạnh. Nó thở hỗn hễn. Trong cơn hoảng hốt con gà bỗng
xuất hiện lại trong giỏ! Thằng Nghé vừa mừng vừa sợ. Con gà cồ của nó biết
trò quỷ quái hay có ma? Nó rùng mình ớn lạnh, nhìn con gà chòng chọc, một
mặt như để trấn tỉnh, một mặt xem xét con gà có bình thường như trước
không. Tự nhiên có một chiếc bóng che khuất con gà. Nó cố gắng bình tĩnh
quan sát. Chiếc bóng không phải màu đen như bóng cây trên mặt đường, trái
lại có đầy đủ màu sắc như một loài động vật kỳ quái nào đó. Rồi chiếc bóng
di động, luôn luôn thay hình đổi dạng. Rõ ràng là một con quái vật! Trong
cơn sợ hãi tột cùng, nó hét lên và tỉnh dậy. Ngoại hối hả chạy đến. Cả nhà
đều thức dậy. Nó kể lại giấc mơ hãi hùng. Sự sợ hãi hiện rõ trên nét mặt
nó. Cả nhà không ai trách mắng nó đã làm mất giấc ngủ của họ. Dường như
mấy dì và chị nó cũng tỏ vẻ sợ hãi. Ngoại đốt cây đèn dầu và cả nhà ra xem
con gà. Con gà vẫn ở trong chiếc giỏ!
Phật dạy chúng ta đừng mê tín dị đoan. Vạn vật biến
đổi vô thường. Mọi hiện tượng đều nương tựa lẫn nhau để biến hóa, bởi vì
tất cả đều thuộc vào một thể thống nhất. Không thể có một sự vật hay hiện
tượng nào có thể tồn tại độc lập riêng rẻ. Tất cả đều vô ngã, không thể có
cái gọi là linh hồn tồn tại bất diệt. Do đó ma quỷ chỉ là huyễn hoặc, có
chăng chỉ là tâm sanh, do mê muội và sợ hãi. Ban đêm đi trong rừng, đạp
phải một cành cây mà cứ ngỡ mình đang đạp một con rắn! Vì vậy, con quái
vật trong giấc mơ của thằng Nghé, nếu có thật, chỉ có thể là một sự sống
đến từ chiều không gian thứ tư huyền bí.
Hãy hình dung những gì có thể xảy ra nếu thực sự không
gian của chúng ta có chiều thứ tư. Tri thức chúng ta chỉ hình dung được
những vật thể qua 3 chiều không gian. Do đó nếu có một vật thể đến từ 4
chiều không gian, chúng ta không thể thấy nguyên dạng vật thể đó. Chúng ta
chỉ có thể thấy hình chiếu của vật thể đó trong 3 chiều không gian của
chúng ta mà thôi. Nói chung, chúng ta khó có thể mô tả chính xác những vật
thể hay các loài động vật sống trong không gian nhiều hơn ba chiều.
Để có thể hình dung những phép lạ đến từ không gian 4
thứ nguyên, Helmholtz (1821–1894,) người đã đón nhận môn hình học Riemann
nồng nhiệt nhất, tưởng tượng một thế giới những người lép sống trong một
vũ trụ lép (2 chiều không gian.) Những người lép này chỉ có thể nhận thức
được chiều ngang và chiều dọc. Chiều cao đối với họ là cái gì vô cùng
huyền bí, không thể hình dung được.
Bởi vì vũ trụ của thế giới người lép giống như một mảnh
giấy, nhà cửa chỉ là những đường cong kín. Một tù nhân người lép bị giam
trong ngục tối chẳng khác nào một điểm ở bên trong một đường cong kín. Nếu
bạn đang ở trong chiều thứ ba (tức chiều cao huyền bí của thế giới người
lép,) bạn có thể giúp tù nhân vượt ngục một cách dễ dàng, bằng cách bốc tù
nhân dọc theo chiều thứ ba, xong cho tù nhân trở lại vũ trụ lép, đặt ở
phía ngoài đường cong kín. Đối với người cai ngục chứng kiến việc bạn làm,
ông ta sẽ kinh hãi xem như một phép lạ đang xảy ra ở nhà tù. Ban đầu ông
ta thấy có một vật không biết từ đâu bỗng xuất hiện trong phòng giam. Rồi
vật đó và phạm nhân tự nhiên biến mất, tìm đâu cũng không thấy (bởi vì
phạm nhân đã rời khỏi vũ trụ của mình.) Sau đó một thời gian cảnh sát bắt
gặp phạm nhân đang thong dong ngoài vòng pháp luật. Tất nhiên tù nhân sẽ
bị nhốt trở lại. Nếu muốn cứu lần thứ hai, đối với bạn dễ như trở bàn tay.
Tương tự đối với nhà tù trong không gian ba thứ nguyên của chúng ta, một
sinh vật đến từ chiều thứ tư có thể giúp phạm nhân vượt ngục một cách dễ
dàng.
Bây giờ giả sử giống người lép này có trái tim ở phía
trái. Bạn (đang ở chiều không gian thứ ba) có thể dời tim họ sang phía
phải một cách dễ dàng. Bạn chỉ cần đem họ ra khỏi vũ trụ của họ. Xong lật
ngược trước khi bỏ họ trở lại vũ trụ.
Khi bạn từ từ nâng tù nhân lép rời khỏi vũ trụ lép, tù
nhân sẽ thấy những gì? Vâng, ban đầu tù nhân cảm thấy như có một gọng kìm
nâng mình rời khỏi vũ trụ. Tù nhân đang bay lơ lửng dọc theo chiều cao
huyền bí. Vì là người lép, tù nhân chỉ có thể thấy những tiết diện
(cross-section) của những vật thể trong không gian ba thứ nguyên. Như vậy
khi tù nhân nhìn bạn, tù nhân không thể thấy toàn thân của bạn trong cùng
một lúc. Ông ta sẽ thấy bạn luôn luôn thay hình đổi dạng. Ban đầu ông ta
thấy hai đường cong kín làm bằng da (đôi giày của bạn.) Khi được nâng cao
hơn một tí, ông ta thấy bạn như hai vòng tròn bằng vải (hai ống quần,)
tiếp theo hai vòng tròn nhập lại làm một (thắt lưng,) tiếp theo là ba vòng
tròn bằng vải (thân hình và hai cánh tay,) tiếp theo ba vòng tròn nhập lại
thành một vòng tròn nhỏ hơn, bằng da (cổ của bạn,) tiếp theo vòng tròn trở
nên lớn hơn một tí (đầu bạn,) tiếp theo là những vòng tóc, và cuối cùng
không thấy bạn nữa khi ông ta được nâng cao khỏi đầu bạn. Hẳn ông ta rất
hãi hùng thấy bạn thay hình đổi dạng biến biến hiện hiện như một con quái
vật.
Đối với chúng ta sống trong không gian ba thứ nguyên,
nếu có một loài sinh vật xuất hiện từ chiều thứ tư và nâng chúng ta lên
theo chiều thứ tư này, chúng ta cũng sẽ thấy con vật đó biến biến hiện
thay hình đổi dạng giống như con quái vật thằng Nghé thấy trong giấc mơ.
Nhưng không gian của
chúng ta có thể có nhiều hơn ba thứ nguyên không? Không ai biết. Tuy nhiên
trên con đường đi tìm nguồn gốc vũ trụ, hiện tại lý thuyết M (the
M-theory) đang phát triển mạnh và đầy hứa hẹn. Theo lý thuyết này vũ trụ
chúng ta không những có ba hay bốn mà đến mười chiều không gian. Nếu thực
sự đúng như vậy, và nếu thực sự có sự sống trong những chiều không gian mà
chúng ta không thấy được thì có thể sẽ có một ngày chúng ta có dịp ngắm
dung nhan của sự sống đó.
Sydney cuối xuân 2006
Sách tham khảo
-
Greene, B., The Elegant Universe, Vintage,
London, 2000
-
Kaku, M., Hyperspace, Oxford, New York, 1994
-
Silver, B. L., The Ascent of Science, Oxford
University Press, New York, 1998
-
White, M. & Gribbin, J., Einstein, A Life in
Science, Simon & Schuster, London, 1997
http://www.buddhismtoday.com/viet/cuocsong/nhungthunguyen_huyenbi.htm