- Ðạo Ðức Phật
Giáo
- Thích Chơn Thiện
- (Hội thảo "Ðạo Ðức Phật
Giáo", Viện Nghiên cứu Phật học VN, Sài Gòn, 1993)
1. CÁC NÉT
KHÁI QUÁT VỀ CƠ SỞ ÐẠO ÐỨC PHẬT GIÁO
1) Phật giáo đặt trọng tâm vào
con người:
Trên con đường giải thoát khổ
đau, Phật giáo dạy con người quay trở về nương tựa mình trong hiện tại
và tại đây. Ðức Phật dạy:
"Hãy trở về nương tựa mình và nương tựa
pháp"
"Hãy là nơi nương tựa cho chính mình, không
tìm kiếm một nơi nương tựa nào khác".
"Ngươi là hòn đảo là nơi nương tựa của
chính ngươi".
Giáo lý nhân quả nghiệp báo xác
định rõ con người là chủ nhân của nghiệp và là kẻ thừa tự của
nghiệp. Thế nên, địa bàn chính để đoạn trừ khổ đau là chính mỗi
người trong hiện tại và tại đây. Nếu khổ đau phát sinh từ đó, thì cũng
từ đó phát sinh sự dập tắt khổ đau, hay phát sinh hạnh phúc.
2) Tính thiết thực hiện tại của
sự đoạn khổ sinh lạc:
Ðức Phật đã nhiều lần xác định
Ngài ra đời chỉ vì lợi ích, an lạc cho Chư thiên và loài người chỉ vì
lòng thương tưởng cuộc đời. Giáo lý nền tảng của Phật giáo là Tứ
đế chỉ đưa ra vấn đề khổ đau và con đường giải quyết khổ đau. Câu
chuyện nắm lá Simsàpa và câu chuyện mũi tên độc là các ảnh dụ nhấn
mạnh vào tinh thần thực tế và thực tiễn khẩn thiết loại bỏ khổ
đau khỏi con người và cuộc đời.
3) Tinh thần Bi, Trí, Dũng:
Trên đường loại bỏ khổ đau, chánh
kiến (hay trí tuệ, bao gồm chánh tư duy) luôn luôn dẫn đầu các pháp
hành. Hành giả trước nhất cần nhận rõ thực trạng khổ đau và các
nguyên nhân gây khổ đau để nhận ra con đường loại bỏ chúng. Thiếu
nó thì hành giả sẽ đi chệch hướng giải thoát.
Sau khi có chánh kiến, trí tuệ,
hành giả tiếp vận dụng chánh tinh tấn, hay Từ chánh cần, để thực hiện
con đường. Trên đường đi hành giả thường xuyên phát khởi lòng từ để
dập tắt dục vọng và để cứu độ chúng sanh.
Ðấy là ba yếu tố quyết dịnh một
hành vi hướng về hạnh phúc và giải thoát của Phật giáo.
4) Mục tiêu là hạnh phúc, giải
thoát ngay tại đời này:
Ðức Phật chỉ dạy khổ và con
đường đoạn tận khổ có nghĩa là chỉ nói đến hạnh phúc và sống đời
sống tâm thức hạnh phúc ngay trong hiện tại, tại đây, ở trên đời này.
Mỗi bước đi của bố thí, trì giới,
thiền định và trí tuệ là mỗi bước đi ra khỏi các tác nhân gây rối
loạn tâm lý, và đi vào an lạc, hạnh phúc của tâm giải thoát và tuệ giải
thoát.
Bước đầu tiên đi vào thiền định
là bước đầu xúc tiếp với hạnh phúc có tần số rung động cao hơn tần
số rung động từ vật chất. Càng vào sâu định, càng cảm nhận hạnh
phúc cao đẹp hơn, tinh tế hơn và bền bỉ hơn. Cho đến lúc trí tuệ sinh
khởi có thể đốt cháy hết thảy tham, sân, si, cội nguồn của mọi khổ
đau, thì hành giả đối mặt với hạnh phúc chân thật của Niết bàn - giải
thoát thân (Vikmukti-kàya) - Tại đây chưa đề cập đến Niết bàn pháp
thân của bậc Chánh đẳng chánh giác.
Nếu đạo đức dược hiểu đồng
nghĩa với hạnh phúc thì toàn bộ giáo lý Phật giáo là một nền giáo lý
về đạo đức, giới thiệu con đường sống ngay trong hiện tại phù hợp
với mọi căn cơ, mọi không gian, thời gian, và văn hóa, đi vào hạnh phúc
ngay tại trần gian giữa dòng sông vô thường. Nền đạo đức này có đầy
đủ tính chất nhân bản, khoa học, thực tiễn và rất là thực tại.
5) Nhận thức cơ bản của nền đạo
đức Phật giáo:
Giáo lý Duyên khởi và Ngũ uẩn xác
định con người là một tập hợp thể của 5 yếu tố: sắc uẩn (vật
lý), thọ, tưởng, hành, thức (tâm lý). Không có một ngã thể là tự
ngã, linh hồn hay tiểu ngã nào có mặt ở đó. Sắc uẩn thì bao gồm tự
thân vật lý, thân tha nhân và thế giới vật lý; thọ uẩn thì bao gồm
các cảm thọ thiền định và các cảm thọ từ các căn xúc tiếp với
các trần. Tưởng uẩn, thức uẩn và hành uẩn cùng tồn tại bất khả ly
với hai uẩn kia. Như thế, con người hiện hữu gắn liền với tha nhân
và thế giới. Con người chỉ ổn định khi nào thể hiện được sự hòa
điệu của 5 uẩn ở bên trong và thể hiện hòa điệu với gia đình, xã hội
và thiên nhiên ở bên ngoài.
Giáo lý Duyên khởi cũng xác định
con người tương quan mật thiết với thế giới, vừa xác định khổ đau
có mặt khi ái, thủ, vô minh có mặt. Khổ đau ấy nằm ngay trong thân ngũ
uẩn nên cũng do duyên mà diệt đi từ thân ngũ uẩn. Ðiều này có nghĩa là
khi ái diệt, thủ diệt, vô minh diệt thì khổ diệt. Khổ diệt là chân hạnh
phúc, chân an lạc, giải thoát xuất hiện. Con người có thể tự mình dần
dần hay tức thời dập tắt ái, thủ để cảm nhận hạnh phúc ngay trong
hiện tại.
Ðây là cơ sở nhận thức mở ra
con đường đạo đức của Phật giáo.
Giáo lý nền tảng Tứ đế giới
thiệu cùng nhận thức như thế và giới thiệu cụ thể lộ trình giải
thoát, hay lộ trình của các nếp sống đạo đức.
Giáo lý nhân quả nghiêp báo trình
bày rõ rệt các hành động bị điều động bởi tâm lý tham, sân, si là
các hành động dẫn đến khổ đau, vì thế chúng là bất thiện; các hành
động được điều động bởi vô tham, vô sân, vô si là các hành động dẫn
đến các kết quả an lạc, hạnh phúc, vì thế chúng là thiện. Thiện là
đạo đức và bất thiện là phi đạo đức của Phật giáo. Hệt như
Banzeladze đã tuyên bố: "Nơi nào không có những điều kiện cho hạnh
phúc, thì nơi ấy không có điều kiện cho đức hạnh". (Ðạo đức học,
Banzeladze, NXB. Hà Nội. 1985, tr, 260).
6) Phật giáo và vấn đề cội nguồn
của đạo đức và các chuẩn mức đạo đức:
Về cội nguồn đạo đức và các
chuẩn mức đạo đức thì mối hệ tư tưởng có một quan niệm khác nhau.
Do vì cái nhìn về con người, thé giới, giá trị và hạnh phúc khác nhau
mà có sự khác biệt về cội nguồn đạo đức và chuẩn mức đạo đức.
Có quan điểm cho rằng trí tuệ
phát triển trong quá trình lao động, và sự phát triển trí tuệ, tư duy,
ngôn ngữ, có ảnh hưởng đến tương quan của con người, vì thế có ảnh
hưởng đến quan niệm về đạo đức của con người. Ðạo đức ở đây
là sản phẩm của xã hội, nên khi xã hội biến đổi thì đạo đức
cũng biến đổi theo. Ví như xã hội thay đổi thể chế từ phong kiến qua
dân chủ thì quan niệm đạo đức cũng thay đổi theo.
Có quan niệm đạo đức xây dựng
dựa vào một đấng sáng tạo, sáng thế vĩnh cửu, nên nền đạo đức và
cái chuẩn mức đạo đức hầu như cốâ hữu, là hệ quả của những lời
phán xét của các trang thánh kinh.
Hẳn nhiên còn có nhiều quan niệm
đạo đức khác nhau nữa tùy theo mục tiêu của đời sống dừng lại ở
các chỗ khác biệt nhau. Phật giáo thì xây dựng con đường sống đạo đức
trừ trí tuệ thực nghiệm toàn giác của đức Phật nên có cái nhìn giá
trị ổn định.
Phật giáo không nêu lên vấn đề
cội nguồn của mọi hiện hữu, gồm cả cội nguồn của đạo đức, bởi
vì mọi hiện hữu đều duyên sinh, vô tự tính. Nhưng ở mặt tương đối,
Phật giáo ghi nhận có khổ đau do ái, thủ, vô minh gây ra. Vấn đề thiết
thực ở đây là dập tắt mọi nguyên nhân khổ đau ở từng cá thể. Do vậy,
chuẩn mức đạo đức chỉ có thể do các cá thể thể nghiệm và đặt
ra, dựa vào hiệu quả đoạn diệt tham, sân, si. Không thể thiết lập các
chuẩn mức đạo đức dựa vào sự tướng biểu hiện bên ngoài của các
hành động, bởi cùng một hành động có thể do nhiều động cơ thiện, bất
thiện tác động khác nhau nên có giá trị đạo đức khác nhau.
Con đường đạo đức Phật giáo
vì thế là con đường tự giác, tự chứng và tự nguyện. Dù vậy, trước
qui luật nhân quả quá mành rành, con người vẫn phải nghiêm chỉnh hướng
dẫn đời sống nội tâm của mình.
Do vì hạnh phúc của con người là
mục tiêu của cuộc sống nên hạnh phúc của con người là giá trị chuẩn.
Các giá trị khác là thứ yếu phải xếp xoay quanh cái trục giá trị đạo
đức này.
7) Kinh nghiệm hạnh phúc - Kinh nghiệm
đạo đức:
Ở điểm như thế nào mới là hạnh
phúc, thực sự hạnh phúc, và làm thế nào để hạnh phúc thì lại càng
có nhiều quan niệm khác biệt nhau hẳn.
Có người cho rằng hạnh phúc đến
từ vật chất, có người cho đến từ tình cảm, trí thức. Có người cho
hạnh phúc đến từ sự kết hợp giữa vật chất và tinh thần v.v... Vì
thế mà nhân loại đã dựng lên nhiều nếp sống, nếp nghĩ, đạo đức
khác nhau.
Banseladze thì cho rằng: "Hạnh
phúc là một hiện tượng vừa thuộc về vật chất vừa thuộc về tinh thần".
(Ibid, tr. 246).
- "Trong lãnh vực khoái cảm vật
chất, khoái cảm càng mạnh thì càng ngắn ngủi. Cường độ của khoái cảm
tỷ lệ nghịch với độ dài thời gian của nó". (Ibid, tr. 268).
- "Trong lãnh vực những khoái cảm
về tinh thần, nhân tố thời gian có một vai trò hoàn toàn khác: thời gian
tác động có lợi cho con người. Ở đây không có qui luật tỷ lệ nghịch,
ngược lại, cường độ khoái cảm càng cao trong lãnh vực này thì nó
càng kéo dài". (Ibid, tr. 269).
Dù cho các triết gia, các nhà đạo
đức có kinh nghiệm khác nhau về hạnh phúc và về thế nào để đượqc
hạnh phúc, thì tất cả các điểm khác biệt đó vẫn có một điểm chung
cùng rằng: hạnh phúc là một cảm thọ có điều kiện. Ðã là cảm thọ
có điều kiện thì dưới cái nhìn Phật giáo nó là vô thường. Và do vì
có mặt lòng tham trước mà vô thường đem lại khổ đau.
Cảm thọ hạnh phúc càng mạnh thì
thời gian cảm nhận càng nhanh sau đó là một khoảng trống tâm lý lớn
lao, hoặc là đối mặt với một cảm thọ tiếp theo hẳn là khổ đau - (cảm
thọ kém hơn là khổ đau).
Ngay cả khi con người đang ở trong
hạnh phúc, thì nỗi lo sợ vô thường xảy đến cũng đủ gây đau nhức
cho tâm thức con người.
Thế là con người hầu như thường
phải đối mặt với khổ đau. Phật giáo thấy rõ gốc của mọi khổ đau
ấy là dục vọng, tham ái, hay chấp ngã, mà không phải là vô thường hay
sinh diệt. Do đó mà con đường sống chế ngự dục vọng là con đường
tiến đến hạnh phúc, xúc tiếp với hạnh phúc. Tại đây hạnh phúc
không có nghĩa là thỏa mãn các dục vọng mà là biết sống chế ngự dục
vọng, và loại trừ dục vọng. Phật giáo đã giới thiệu một con đường
vào hạnh phúc mở rộng cho nhiều căn cơ, nhiều cấp độ tâm thức khác
nhau. Chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần trình bày kế tiếp.
II - CÁC NẾP SỐNG ÐẠO ÐỨC TRONG
PHẬT GIÁO:
Ðức Phật đã giảng dạy giáo lý
giải thoát khổ đau của Ngài một cách thiện xảo đáp ứng nhiều căn
cơ khác nhau trong các nguồn văn hóa khác nhau, khiến mọi người đều có
thể bằng nỗ lực của chính mình tìm thấy an lạc, hạnh phúc ngay trong
hiện tại, từ cấp độ tương đối đến tuyệt đối.
1) Nếp sống gia đình hạnh phúc:
Qua nhiều kinh được kiết tập
trong Nikàya và Agama, căn bản là kinh đảnh lễ sáu phương (hay kinh Thiện
sinh) và Kinh Sư Tử Hống thuộc Trường bộ kinh, đức Phật đã dạy cho
chàng thanh niên Singàla, người thường đảnh lễ sáu phương để cầu
mong được che chở, có vận may, 14 điều phải thực hiện để được sáu
phương che chở và có thể thành người che chở, sáu phương rằng:
a) - Không làm bốn việc: - Trộm cắp, sát sanh,
tà hạnh, nói dối.
b) - Không hành động vì bốn động cơ: - Tham, sân,
si, sợ hãi.
c) - Không phung phí tài sản theo sáu cách: - Rượu
chè, cờ bạc, đam mê nữ sắc, kết bạn với bạn xấu, la cà đình đám
hý viện, la cà đường phố phi thời.
Ðây là 14 điều xây dựng nên một
người xấu, không làm 14 điều ấy là xây dựng tự thân thành một người
tốt, đạo đức.
Ðức Phật còn dạy Singàla xây dựng
tốt sáu mối tương hệ của con người trong xã hội thì sẽ được may mắn,
hạnh phúc:
Tương hệ giữa cha mẹ và con cái:
Ðây là mối tương hệ thiêng
liêng đáng được đảnh lễ. Và ý nghĩa đảnh lễ đích thực là quay về
thực hiện các điểm:
- Cha mẹ nuôi con ăn học tốt.
- Khi con lớn, lập gia thất cho con nơi xứng đáng.
- Lúc cha mẹ lớn tuổi, trao tài sản cho con.
- Con cái biết kính trọng, vâng lời cha mẹ.
- Lo học hành chăm chỉ.
- Giúp đỡ cha mẹ khi cần.
- Phụng dưỡng cha mẹ khi già.
- Lo đám tang cho cha mẹ hẳn hoi theo phong tục, tập quán.
Tương hệ giữa chồng và vợ
* Chồng đối với vợ:
- Thương yêu vợ.
- Trung thành với vợ.
- Săn sóc đời sống vật chất cho vợ.
- Kính trọng gia đình vợ...
* Vợ đối với chồng:
- Thương kính chồng.
- Trung thành với chồng.
- Quản lý gia đình tốt.
- Siêng năng làm việc.
- Ðối đãi với gia đình chồng và bạn bè của chồng.
Tương hệ giữa thầy và trò:
* Thầy đối với trò:
- Dạy tốt.
- Dạy nghề cho trò để khi vào đời có thể sinh sống.
- Chọn bạn tốt cho học trò (giới thiệu bạn tốt cho học trò).
* Trò đối với thầy:
- Học tốt, chăm chỉ.
- Vâng lời chỉ dạy của thầy.
- Giúp đỡ thầy khi cần.
Tương hệ anh em, bà con, láng giềng:
- Giữ tình cảm chung thủy, không bỏ nhau khi
khó khăn.
- Giúp đỡ nhau khi ốm đau, khó khăn.
Tương hệ giữa chủ và thợ (người
phụ việc):
* Chủ đối với thợ:
- Trả lương tương xứng với việc làm.
- Thỉnh thoảng cho thêm tiền thưởng.
- Săn sóc giúp đỡ thuốc men khi đau ốm.
* Thợ đối với chủ:
- Hết lòng lo việc.
- Trung thành với chủ.
- Thành thật phục vụ.
Tương hệ giữa tu sĩ và cư sĩ:
* Tu sĩ đối với cư sĩ:
- Thương tưởng dạy pháp cho cư sĩ.
- Trao truyền kiến thức cho cư sĩ.
* Cư sĩ đối với tu sĩ:
- Thương kính giúp đỡ các v?t dụng cần thiết.
- Tiếp thu chánh pháp.
Nhân tinh hay nhân bản tính, thường
xuất hiện trong tương giao của con người. Xây dựng tốt 6 mối tương
giao ấy là xây dựng tình người và hạnh phúc.
Về hạnh phúc gia đình, Phật dạy
thêm các điểm:
- Quân bình sức khỏe và tâm lý.
- Sống điều độ.
- Kết bạn tốt (có tín, thí, giới tuệ)
- Quân bình chi thu (thu lớn hơn chi)
Về chi tiêu, tiền lời thu được
nên phân phối như sau:
- 1/4 dùng thường chi cho gia đình.
- 1/4 dùng vào bất thường chi.
- 2/4 đầu tư thêm vào vốn.
Giản lược hơn, một cư sĩ muốn
được hạnh phúc trong đời này và đời sau thì thực hiện 4 điều: tín,
thí, giới, tuệ.
TÍN: tin vào sự chứng ngộ của Thế Tônn, tin
vào pháp mà Thế tôn thuyết giảng là có khả năng đoạn tận khổ.
THÍ: Sống khoan dung, thương người, hay giúp đỡ
người.
GIỚI: Giữ gìn năm giới tại gia.
TUỆ: Có chánh kiến.
2) Nếp sống đạo đức đối với
người ngoài đạo:
Những ai không phải là một Phật
tử vẫn có thể thực hiện lời dạy của Thế Tôn dành cho Singàla. Ðấy
là nếp sống đạo đức rất là người, rất là trần thế. Thuật ngữ
Phật giáo gọi nếo sống ầy là hàng "nhân thừa".
Những Phật tử tại gia và những
ai không phải là Phật tử có thể sống hộ trì ba nghiệp thân, lời và
ý theo 10 điều đức Phật qui định gọi là thập thiện nghiệp thì sẽ
an lạc trong hiện tại và được hưởng phước của các cõi trời dục giới
trong tương lai. Mười điều thiện là:
- Không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh.
- Không tham, sân, si (hay chế ngự tham, sân, si).
- Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời thô ác, không nói lời
mị người.
Thái độ hộ trì, chứng ngộ và
chứng đạt chân lý:
- Cho rằng những điều mình đang tin ưởng là
đúng và nắm giữ chúng, nhưng không phải chỏ có những điều mình tin tưởng
là đúng, còn những điều khác tin tưởng là sai. Như thế là hộ trì
chân lý.
- Sống theo những điều mình tin tưởng cho đến
khi thấy rõ sự thật của những gì tin tưởng, gọi là chứng ngộ chơn lý.
- Thực hiện trọn vẹn sự thật đã tin tưởng
và chứng ngộ, gọi là chứng đạt chơn lý.
- Có thái độ thân hữu với các người ngoài
đạo, chỉ bàn thảo, trao đổi những điểm gặp gỡ, và gác lại những
điểm sai biệt mà không tranh cãi.
3) Nếp sống xã hội:
Thế Tôn dạy về 7 điều thường
làm của một xã hội hưng thịnh:
- Thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo.
- Thường hay tụ họp trong niệm đoàn kết, làm việc trong niệm đoàn kết
và giải tán trong niệm đoàn kết.
- Không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những
luật lệ đã được ban hành.
- Tôn kính đảnh lễ các bậc trưởng lão, biết nghe theo lời dạy của những
vị này.
- Không bắt cóc và cưỡng ép các phụ nữ và thiếu nữ.
- Tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu, không bỏ phế các cúng
lễ từ trước đúng với qui pháp.
- Bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A la hán... (Tăng chi II).
Khi xứ sở suy yếu, loạn lạc thì
cần chấn chỉnh kinh tế:
- Cho nông dân giống và dụng cụ canh tác cùng kỹ
thuật canh tác.
- Cấp vốn cho thương nhân đầu tư.
- Trả lương đúng mức, bảo đảm đời sống cho các công nhân.
- Ð?i chẩn thí cho dân nghèo thay thế các tế đàn tốn kém.
Cấp lãnh đạo cần thực hiện 10
điểm gọi là thập vương tử pháp, đại để:
- Sống liêm khiết
- Lời nói nhu hòa
- Hy sinh vì quyền lợi của nhân dân
- Lắng nghe tiếng nói của nhân đân
- Nhẫn nhục, không được trả thù
- Phục vụ hòa bình, không chủ chiến
- Làm theo ý dân.
-... (Theo sớ giải pháp cú kinh)
4) Nếp sống phạm hạnh:
Nếp sống đạo đức được thể
hiện thuận lợi nhất là nếp sống phạm hạnh của những tu sĩ xuất ly
gia đình.
Một tu sĩ Phật giáo là một người
có quyết định đi thẳng vào mục tiêu phạm hạnh, hay gọi là thể hiện
ngay tại đời này, trong chính tự thân niềm hạnh phúc chân thật, và
giúp đời cùng thể hiện.
Một tu sĩ Phật giáo có hai bổn phận
chính:
- Học hỏi giáo lý và thực hành thiền định.
- Thuyết pháp cho đời về con đường thoát khổ.
a) Về tự thân: thì thực
hành giới, định, tuệ.
Về giới: hộ trì giới bổn
Ba la Ðề Mộc Xoa để nhiếp tịnh 6 căn (hay ba nghiệp), nhờ đó dẹp
tiêu đi nhiều rối loạn tâm lý. Mỗi niệm động tiêu thì mỗi nniệm tịnh
sinh. Niệm tịnh ấy là niệm an lạc, hạnh phúc. Giới còn có tác dụng hộ
trì an lạc cho các bạn đồng phạm hạnh và giữ không gây thương tổn đến
hạnh phúc, an lạc của các loài chúng sinh chung quanh mình.
Về định: thực hành từ niệm
xứ (hay 37 phẩm trợ đạo)
Công phu thiền định là công phu
đi thẳng vào nguồn an lạc, hạnh phúc ngay trong hiện tại và tại đây, sống
với từng hơi thở hạnh phúc. TừØ cận định, hành giả đã cảm nhận
an lạc. Từ sơ thiền đến tứ thiền, hay đến vô sở hữu xứ, hành giả
sẽ có nhiều dịp, nhiều thời gian tiếp cận với nguồn hạnh phúc vô
biên, với thậït tướng, với tâm giải thoát và tuệ giải thoát.
Nhưng mục tiêu giải thoát chân thật
không dừng lại ở đây. Hành giả thực hiện thiền định cho đến lcú
thể nhập như thật trí, thành tựu mục đích giải thoát sau cùng: trí tuệ
giải thoát hết thảy nhân khổ đau (tiêu trừ hết thảy lậu hoặc).
Về tuệ: nhận biết chánh
tri kiến của phàm phu, chánh tri kiến của hữu học và vô học.
Có được chánh kiến và chánh tư
duy là hành giả đã loại ra khỏi tâm thức vô số phiền não dù chưa thành
tựu giới bổn và chưa có công phu thiền định ; đã tránh được nhiều
hành vi gây tổn hại tự thân và tập thể. Mỗi cái thấy biết và suy nghĩ
đúng chánh pháp, nghĩa là phù hợp với nếp sống đạo đức Phật giáo,
đều có đi kèm theo nó niềm hạnh phúc, niềm tin tưởng, dù chỉ là nhất
thời.
Nếu chánh kiến và chánh tư duy
được nuôi dưỡng qua công phu hộ trì giới bổn và thực hành Tứ niệm
xứ, thì hành giả sống trọn vẹn, hay hầu như trọn vẹn với nếp sống
đạo đức của Phật giáo, và có nghĩa là hành giả sống với từng bước
đi hạnh phúc ngay giữa trần gian này.
Sự thật hạnh phúc đó không có
khoác một vẻ gì thần bí, kỳ bí hay siêu thực nào cả. Nó ở ngay trước
mắt ta, trong chính ta, trong chính hơi thở và cái nhìn của ta, nếu ta quyết
ý thực hiện.
Con đường thực hiện đó chỉ
chuyển đổi tư duy, chuyển đổi cái nhìn và chuyển đổi ham muốn hướng
về nguồn hạnh phúc của vô ngã mà không phải là hữu ngã, vị tha mà
không phải là vị kỷ, vô dục mà không phải là dục, vô chấp mà không
phải cố chấp.
b) Về tương giao trong tập thể phạm
hạnh:
Vị tu sĩ thực hiện thêm nguyên tắc
sống lục hòa song song với giới bổn Ba la đề mộc xoa (hay giới, định,
tuệ) đó là:
- Thân hòa, khẩu hòa, ý hòa, lợi hòa, kiến
hòa và giới hòa.
Ðây là sự thể hiện hòa điệu cả
thân và tâm với đời sống tập thể bên cạnh sự thể hiện hòa điệu
của tự thân và của tự thân với pháp giới qua công phu điều hòa hơi
thở, điều hòa thân và điều hòa tâm của thiền định.
c) Về công tác hóa độ (độ
sinh):
Một vị tu sĩ thồngthương làm
tròn bổn phận của mình đã là đóng góp vào việc độ sinh rồi, nhưng
chỉ ở hình thức tiêu cực. Tích cực hơn là thuyết pháp và hướng dẫn
người đời tu học và thực hành giải thoát. Tích cực hơn nữa là hoàn
bị tự thân đê xứng đáng là bậc mà phạm giải thoát cho cuộc đời. Bấy
giờ thì vị tu sĩ cần hoàn bị 7 điểm:
- Hiểu rõ từ.
- Hiểu rõ nghĩa
- Hiểu rõ pháp
- Hiểu rõ thời
- Hiểu rõ hội chúng
- Hiểu rõ tự ngã
- Hiểu rõ căn cơ người đời. (Tăng chi II và A Hàm tương đương).
Một vị tu sĩ thành tựu 7 điểm này
là vị tự mình thành tựu giải thoát và tự mình là ruộng phước cho đời.
5) Tất cả nội dung tu tập của
một tu sĩ, người cư sĩ nếu muốn vẫn có thể thực hiện và đi đến cùng
một kết quả giải thoát. Mọi người đời vẫn thế. Ðó là sự thật
chung của cuộc đời.
6) Các cư sĩ tại gia nếu có
thể, vẫn làm công tác giáo hóa độ sinh như một tu sĩ: có thể hướng dẫn
các hội chúng cư sĩ tu tập, có thể thuyết pháp. Với các cư sĩ ở cấp
độ tu tập này, đức Phật chỉ dạy thêm Tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ,
lợi hành và đồng sự) để nhiếp chúng có kết quả tốt và đem lại
nhiều lợi lạc trong sự nghiệp hộ đời.
III. CÁC ÐÓNG GÓP
KHÁC CỦA PHẬT GIÁO VÀO SỰ AN LẠC HẠNH PHÚC CHUNG CHO TRÁI ÐẤT:
1) Con đường đạo đức của Phật
giáo là xây dựng tâm ổn định, bất hại, an lạc và từ bi cho từng tâm
thức. Ðây là sự đóng góp cụ thể và cơ bản nhất. Nếu hòa bình xứ
sở và thế giới cần xây dựng từ mỗi cá nhân thì con đường giáo dục
đạo đức của Phật giáo là đứng đắn và tích cực, hữu hiệu nhất.
2) Giáo lý Phật giáo cũng giúp các
cấp lãnh đạo, là Phật tử hay muốn thực hành theo lời Phật, phục vụ
hòa bình, không phục vụ chiến tranh. Ðây là sự đóng góp vào hòa bình của
các xứ sở và hòa bình thế giới khá tích cực của Phật giáo.
3) Tự thân giáo lý Phật giáo, nổi
bật sắc thái từ bi, bất hại, bất sát, bất đạo, đó là sắc thái của
giáo lý hòa bình, an lạc.
4) Bản chất của giáo lý Phật
giáo là đoạn tận tham, sân, si là các nhân tố cơ bản phát sinh các cuộc
chiến tranh lớn nhỏ, nóng, lạnh ; đó là nền giáo lý đoạn tận gốc rễ
chiến tranh.
5) Cho đến khi nhân loại kinh nghiệm
sâu sắc nỗi đau khổ và tàn hại của chiến tranh đến độ nhàm chán,
kinh sợ, cho đến khi ấy nền giáo lý của hòa bình và trí tuệ của Phật
giáo sẽ thực sự trở thành bài học đáng giá của an lạc và hạnh
phúc, của con đường đạo đức rất nhân bản và thiết thực.
6) Mãi mãi Phật giáo vẫn chờ đợi
cống hiến cho nhân loại một nếp sống tìm thấy an lạc, hạnh phúc ngay
trong hiện tại, tại đây cho đủ mọi tầng lớp, căn cơ của quần chúng
trong các nền văn hóa trên trái đất.
Nếp sống ấy có thể được tóm
tắt trong ba điểm giản dị nhất mà chúng ta có thể thực hiện bất cứ
khi nào, nếu muốn:
- Từ bỏ mọi điều ác.
- Làm mọi điều lành.
- Giữ tâm ý thanh tịnh (rời xa mọi ác nhiễm, mọi phiền não).
IV. KẾT LUẬN:
Với Phật giáo, cái nhìn về con người,
về xã hội, về thế giới, và về khổ đau hay hạnh phúc đều có tính
nhất quán. Nói cách khác, tất cả hiện hữu được nhìn dưới cái nhìn
như thật vê sự thật duyên sinh. Cái nhìn như thật ấy sẽ giúp con người
thấy như thật khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, do đó mà thấy rõ con
đường đi ra khỏi khổ đau, đi vào hạnh phúc chân thật. Ở cuối đường
vào hạnh phúc miên viễn, cái nhìn và hạnh phúc là một, con đường là
đích đến.
Ðây là điểm khác biệt, rất đặc
biệt, giữa Phật giáo và các tôn giáo triết thuyết khác, và chính là điểm
đặt biệt của nếp sống đạo đức Phật giáo tự giác, tự nguyện, vắng
bóng tất cả mọi mệnh lệnh, mọi tín điều, mọi giáo điều, mọi sức
ép.
Con người tìm thấy mình và hạnh
phúc trọn vẹn ở đó.
- Chân thành cám ơn cư sĩ Bình Anson
đã gửi tặng các phiên bản điện tử