...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Trả lại sự trong sáng cho
Đạo Phật
- Nhân đọc Ký Sự Hành Hương
Đất Phật của Phan Thiết
- Lệ Thọ
Nhân loại đang bước ra khỏi bóng
tối của thời Trung Cổ, thù hằn đối nghịch mất mát đau thương do những
tôn giáo bất đồng quan điểm (Phật giáo chỉ là nạn nhân trong các cuộc
Thánh chiến đó) gây nên gần suốt một thiên niên kỷ qua. Giờ đây,
nhân loại đã đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của hoàbình, thịnh vượng
và hạnh phúc, dưới sự soi rọi của nền khoa học tiên tiến. Vì thế,
ngày nay các tôn giáo lớn trên thế giới đang nổ lực rút ngắn khoảng
cách giữa tôn giáo với tôn giáo như tình anh em, để tránh đi những bất
hòa về lý tưởng, về tư biện không cần thiết, nhằm hướng đến mục
đích duy nhất là con người.
Những tưởng, trên lập cước chỉ nam này sẽ diễn tiến
tốt đẹp như lời xin lỗi của người đại diện cho Giáo hoàng
Gioan-Phao-Lồ II, sau lần ngộ nhận Phật giáo với quyển "Bước Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng" (Crossing the Threshold of Hope) là sẽ
không bao giờ xãy ra những tình huống đáng tiếc đó nữa, những người
Phật tử chúng tôi tin và nghĩ như thế. Nhưng không biết có phải vì bệnh
sĩ diện của một ai đó, hay sự trùng hợp ngẩu nhiên mà lại xuất hiện
tiếp tục trên diễn đàn một quyển sách mang tên "Hành Hương Đất
Phật," do một tín hữu Ky-Tô giáo vừa cho xuất bản (1999). Nội
dung hoàn toàn trái ngược với tựa đề: Vo tròn, bóp méo, dựng chuyện,
xuyên tạc và chụp mũ. Nhận thấy, đây không phải là sự ngộ nhận như
lần trước của Giáo hoàng mà là sự trực tiếp chống phá Phật giáo một
cách thô bạo. Bất chấp sự thật, lịch sử mà Phật giáo đã và đang
mang lại hạnh phúc an lạc cho nhiều nước trên thế giới suốt 25 thế kỷ
qua. Nên chúng tôi muốn đem những việc làm sai trái của tác giả cho rộng
rãi dư luận đánh giá, nhằm trả lại sự trong sáng cho đạo Phật. Sau đây,
chúng tôi sẽ đưa ra một số đoạn tiêu biểu và những điểm trung tâm
"CÓ KHÔNG" của ông, chứ không nhặt hết ra cho đỡ ngán ngẩm với
những lời lẽ thiếu khiếm nhã và tục tĩu của tác giả!
I. VO TRÒN,
BÓP MÉO SỰ THẬT
Thật tình mà nói, trước
khi ngồi viết những dòng nhận định này, chúng tôi không ngờ một trí
thức của Ky-Tô giáo như tác giả Phan Thiết (Tên thật Nguyen Kim Khanh, sinh
năm 1943 tại Hưng Yên, Bắc Việt Nam, tốt nghiệp cử nhân Luật đại học
Sài Gòn. Trước 30-04-1975 là thẩm phán thuộc tối cao Pháp Viện, Việt Nam
Cộng Hòa, nhiệm sở sau cùng: Chánh án Toà sơ thẩm Bình Thuận tại Phan
Thiết. Định cư tại Úc từ 1985) mà nhất là một thành viên thi hành kỷ
cương của quốc gia một thời lại có những hành động trái ngược từ
suy nghĩ cho đến việc làm, quả là không thể tin được, nếu như không tận
mắt đọc vào tác phẩm của ông. Từ cách nhận định, đặt giả thuyết
cho đến những kết luận hoàn toàn thiếu cơ sở, không muốn nói là hơi
non, so với kiến thức và địa vị của ông: "Viết mà run vì chưa
ai làm trước mình và không biết mình có thành công không…"
(Trang 18). Ở đây, chúng tôi đặt ra những câu hỏi: phải chăng tác giả
chưa nắm rõ một vấn đề cho việc nghiên cứu của mình? hay trình độ của
tác giả không đủ sức để đảm trách một "đơn đạt hàng" của
ai đó đề ra? Hoặc giả, vì kế sinh nhai mà ông phải làm liều (như những
lời tự bạch ở trang 23):
" …Viết văn chỉ là nghiệp dư. Tôi tự xét cái học
của mình còn lam nham. Riêng môn triết mới học sơ sơ về tâm lý, luận
lý và đạo đức ở lớp đệ nhất. Viết về đạo Phật, vốn chữ Hán
của tôi ăn đong, viết không đầy lá mít, chữ Pali và Sanskrit thì mù tịt…"
để có một khoảng lớn chi thu cho cuộc sống mà chính
tác giả đang gặp phải khó khăn? Hoặc, vì quá nhiệt tình với tôn giáo
của mình, đành phải viết méo mó như tung một quả mù mà chưa biết hậu
quả nó sẽ như thế nào, nhưng vẫn phải làm, để củng cố niềm tin cho
các tín hữu đang lần lượt chia tay với Thiên Chúa mỗi ngày một nhiều
(The Register, Saturday, april 6/1991) và lung lạc những người chưa vào đạo
"Tác phẩm Hành Hương Đất Phật bỏ ra nhiều năm nghiên cứu Phật
pháp đặt ra nhiều nghi vấn cho đạo Phật chắc cũng sẽ làm nhiều người
lung lạc đức tin" (Tr 46) để bù lấp lại khoảng trống trong
Thánh đường, mà chưa chắc đã thu được kết quả, nên phải viết trong
tâm trạng hoang mang và thiếu tự tin đến như thế? Nếu những dữ kiện
đó là sự thật thì còn gì là lương tâm của một người cầm bút, nhân
cách, liêm sĩ của một Chánh án một thời! AṠthế mà ông lại ba hoa lường
gạt độc giả: "Nhân danh là người xuất thân từ trường luật,
áp dụng và thi hành luật pháp của Việt Nam Cộng Hoà, tôi bảo đảm với
đọc giả chuyện ông Nhất Hạnh viết trên không hề có" (sắc lệnh
năm 1963 của Tổng thống Diệm cấm làm lễ Phật Đản, một lễ nghỉ quốc
gia quan trọng của Phật tử là dùng gậy quất gẫy xương sống chúng tôi.
Nhất Hạnh, Hoa Sen Trong Biển Lữa). Biết rằng mọi người sẽ chẳng
tin mình, nên ông viết tiếp: "Cái bất lương của đại sư này là
ông ta vừa sân vừa cố tình si che dấu cái bụng tham của ông và phe
nhóm. Chuyện ấy đã ngã ngũ và đã có tác giả viết sách chỉ mặt
gian trá của đại sư " (trang 166), nhưng ông Phan Thiết không nói
tác giả nào, sách gì cho đọc giả biết. Cách viết bừa bải như thế của
Phan Thiết hầu như gần hết trong quyển sách của ông, thử hỏi làm sao
ông viết mà không "run"! Ngoài ra, khi đề cập đến một vấn đề
thì Phan Thiết luôn khởi đầu bằng những cụm từ: có thể, chắc hẳn,
nghi là, dường như, phải chăng , giả thuyết …để xác quyết một vấn
đề. Đồng thời, cố tình dùng những danh từ mang ý nghĩa đặt thù trong
Phật giáo: Thiền trượng, Thiền phòng, núi Tu-di, Đế-Thích, Cực-Lạc, Niết-Bàn
và Bồ tát Quán A⭦#133;để diễn đạt hoặc so sánh với những ngôn từ,
hình tượng kém văn hóa (Xin lỗi, phải trích những đoạn không đáng lập
lại, và phải xử dụng những ngôn từ chính xác để nói về một con người
như Phan Thiết):
"Tiếng cười như tiếng sấm tạo thành những âm thanh
Ohm! Aum! Um! Từ đấy "Um" trở thành ngôn ngữ thiêng liêng của thần
phật mà người theo Bà-la-môn hay theo Phật ưa tụng niệm đại loại
"U魠ma-ni bát mi hồng" (người Tầu)
hay "Um ma ni đeo neo" (người Tây Tạng)… Thiền trượng hay núi
Tu-Di là biểu tượng dương vật của thần Siva ở trạng thái phải cương
cứng, ngỏng cao vì tinh tử chưa xuất còn lưu chuyển thành tinh lực để
tạo thành Kama" hay"Dẹp hết yêu nữ, Thiền trượng của ta chỉ
để thiền hành trong thung lũng tình yêu của nữ thần kiều diễm Parvati…"
(tr 64).
Những đoạn văn với ngôn ngữ gần cống rảnh hơn là gần
sách vỡ như thế rất nhiều, do Phan Thiết dựng nên để bôi nhọ phật
giáo. Hoặc
"Siva lắc đầu trọc Kama xong tiếp tục nhập định.
Kama không lùi, liền hoá thân thành con ong dùng vòi hút mật làm kim bắn
vào trái tim Siva chất mật ngọt của tình yêu. Siva tức giận lấy lữa
tam muội đốt Kama ra tro…" (tr 66)
Tấn công như thế vẫn chưa thoả mãn dục tính và dã tâm
của ông, nên ông cao hứng viết tiếp:
"Ví dụ Phật Quán A⭠Thiên Thủ Thiên Nhãn chỉ là
hình tượng của ông thần dâm dục Indra. Ta có nên lậy các ông thần
"tầm bậy" như thần Đế Thích chim vợ người bị mắc lời nguyền
mọc nghìn tay nghìn mắt?"
Thiết nghĩ, từ ngàn xưa cho đến ngày nay chưa có người
nào cầm bút dám viết những lời lẽ thô tục và bỉ ổi như Phan Thiết,
để khiêu khích một đối thủ bình thường chứ đừng nói đến một tôn
giáo lớn như Phật giáo. Cho dù, có những bất đồng về quan điểm, những
nghi vấn về tư duy triết học trong nền tảng triết lý của Phật giáo,
thì cũng không đến nỗi phải sử dụng những ngôn từ lố lăng đường
phố như thế. Nếu cần, những người Phật tử chúng tôi sẵn sàng trao
đổi nghiêm chỉnh, và sẽ lắng nghe những sai trật nếu có trong hệ thống
giáo lý Phật giáo có ảnh hưởng xấu và mang đến cho con người điều bất
lợi trong cuộc sống. Phải chăng, đây là môn thần học mới của Ky-Tô
giáo đang áp dụng cho Phật giáo ở thế kỷ thứ 21 này!
II. XUYÊN TẠC,
CHỤP MŨ
Ở đây, xin miễn nhặt ra
vô số lỗi sai về những danh từ trích dẫn của Phan Thiết, vì ông không
biết chữ Hán, Paali và Sanskrit , nên chỉ nói về những điểm xuyên tạc
và chụp mũ cho Phật giáo bằng nhiều hình thức trong suốt những trang
còn lại:
"Đức Thích Tôn âu yếm nhìn mụ Ki-ma-ti như người
cha hiền nhìn con dại, Ngài cầm tay mụ kéo mụ đứng dậy mà nói…"
Mới đọc vào ta thấy một hình ảnh bình thường, như một người cha
thương mến đứa con thơ. Nhưng đó là một thủ đoạn chơi chữ, để khởi
đầu cho ông có cớ chụp mũ Đức Phật như một con người thường tình
chẳng có gì siêu xuất, nên giáo pháp của Ngài cũng chỉ là loại góp nhặt,
hệ thống lại những gì đã có từ trước trong bốn bộ Veda và hệ thống
giáo lý Đại Thừa đã sao chép của Bà-La-Môn. Từ một mắc xích tưởng
tượng đó, bắt đầu Phan Thiết thao túng dựng chuyện.
"Hai mươi lăm thế kỷ qua chánh pháp biến thiên
từ vô thần sang hữu thần. Phật và các Bồ tát trở thành những vị thần
độ sinh lên cõi niết bàn và các cõi tịnh độ đồng dạng với các loại
thiên đường trong các tôn giáo. Người ta cầu cúng đức Phật và các vị
Bồ tát như cầu cúng các vị thần. Không những cầu giải thoát mà còn cầu
phúc, cầu tài, cầu lộc vốn là sợi xích cột chặt pháp ‘ta’ vào
vòng luân hồi…" (tr 10).
Đây là thái độ xuyên tạc và chụp mũ của ông quá rõ
ràng, vì trong Phật giáo làm gì có hữu thần hay vô thần, mà chỉ có đạo
lý Giác ngộ hay đạo lý Thực nghiệm và "dùng sự để hiển bày cái
lý" mà thôi. Ở điểm thâm áo này, với mớ kiến thức lem nhem như
Phan Thiết thì làm sao ông hiểu nỗi! Nên từ sự sai lầm này dẫn ông đi
đến những sai lầm khác.
"Trọng tâm của đạo lý và triết lý của Phật Tổ
là diệt ngã. Các phương pháp tu hành trong hầu hết các tông phái đạo Phật
cũng thuyết lý diệt ngã tức là trở về với cái không. Câu tôi hỏi là
câu nghi vấn xin vị tăng sĩ chỉ đường, chỉ phương pháp giải thoát tức
là phương pháp diệt ngã. Câu trả lời của vị thiền sư là câu xác định,
quả quyết bằng lối nói tán thán ‘Chao ơi, làm sao diệt được ngã’…"
(tr 14).
Đây cũng là cái trò gian lận chơi chữ để gán ghép và lường
gạt đọc giả của Phan Thiết. Vì, không tìm ở đâu ra trong giáo lý Phật
giáo về phương pháp làm sao diệt ngã như ông đã dựng lên để chụp mũ
nền tảng giáo lý Phật giáo, và đâu có Thiền sư ngớ ngẩn đến độ
đã trả lời những câu hỏi dốt đặc cán mai đó với ông? Xin nói ngay rằng,
sỡ dĩ con người có lắm điều đau khổ bất an là do "Tham, Sân và
Si" gây nên. Do đó, thiếu sự hiểu biết để nhìn nhận một vấn đề
"như thật" là mọi sự vật hiện tượng trên thế giới này đều
biến đổi theo từng phút từng giây, mà sở dĩ mọi sự vật đều như thế,
là vì chúng "Vô ngã". Nên cần phải dùng đến "Bát Chánh Đạo"
để huấn luyện thân và tâm đạt đến Vô ngã. Tức là thân và tâm
không còn bị lệ thuộc vào Tham, Sân và Si, mà Phật giáo tạm gọi đó
là Niết Bàn. Với một định kiến về Phật giáo, và chỉ mới đọc vài
cuốn sách, cộng với mớ kiến thức non nớt thì làm sao Phan Thiết hiểu
nỗi chỗ mấu chốt này! AṠthế mà ông lại ba hoa tự cho mình là Tam Tạng
và Đồ Chiểu thời đại, rồi lên giọng muốn làm thầy thiên hạ."…dùng
văn tải đạo may ra có kẻ bây giờ và mai sau hiểu được ta, đem lý
tưởng của ta tác động vào xã hội…" (tr 18) Do kiêu căng tự phụ
như vậy, nên Phan Thiết phạm tiếp những sai lầm:
"Lòng nghi ngờ của tôi đẻ ra muôn vàn cái có không
nhưng tôi sẽ không tụng bài Bát nhã Tâm kinh vì càng tụng càng không có
lối thoát. Nó là thiên la địa võng đấy!" "Đối với hàng thức
giả đạo Phật gọi là thiện tri thức có không chỉ còn là trò chơi chữ
ngụy biện. Đối với quảng đại quần chúng mịt mờ và chỉ xem đức
Phật như là một vị thần để cầu phước cầu tài. Cái đạo diệt ngã
của Thích-Ca chẳng ai theo được. Đạo Phật đã biến thể hoàn
toàn" (tr 20).
Về phương diện này, ông Phan Thiết cho bài Bát Nhã Tâm
kinh như thiên la địa võng là phải. Vì đây là bài kinh trọng tâm trong Phật
giáo Đại Thừa, nó được cô đọng từ bộ Đại phẩm Bát Nhã (Bách
Thiên Tụng Bát Nhã – 100.000 bài tụng, tổng cộng gồm 600 quyển), còn lại
vỏn vẹn 262 chữ, do Ngài Huyền Trang dịch vào năm 649. Chưa chắc là ông
đã thấy nữa huống hồ là đọc, nên mới nhằm lẫn tên gọi giữa bài
kinh Bát nhã với bộ Đại phẩm Bát Nhã như thế. Trong giới Thiền môn
xem nó là một tài liệu tâm lý học về kinh nghiệm Bát Nhã; đồng thời,
nó cũng là một biểu đồ cho các hành giả đang tu tập quán chiếu về
"Năm Tổ Hợp" (Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn và Thức
Uẩn), chứ không phải một bản văn bình thường đọc cho vui để lấy kiến
thức. Một học giả người Anh, giáo sư tiến sĩ Edward Conze, đã phát biểu
rằng: "Càng đi sâu vào giáo lý Phật giáo, tôi càng thấy thích thú,
vì tôi đã tìm thấy nhiều hoa thơm cỏ lạ qua kinh Bát Nhã. Sau 40 năm nghiên
cứu, đã mỡ ra trong tôi một cái nhìn trực quan sinh động, mà không thể
tìm thấy ở bất cứ nơi nào!" Thiết nghĩ, giáo lý Phật giáo như mặt
trăng vẫn chiếu sáng trên mặt hồ, nhưng ta không nhìn thấy trăng phản
chiếu dưới đáy hồ, vì mặt hồ dỡn sóng. Khi nào mặt hồ phẳng lặng,
thì sẽ nhìn trăng dưới hồ! Có lẽ Phan Thiết lười làm bài tập, (nghĩa
là không chịu tìm hiểu một vấn đề cho cận kẽ, vì vậy, mới nhận định
quá đơn giản về giáo lý Phật giáo) và mang sẵn trong đầu một định
kiến thù nghịch, chống đối, nên nhìn mọi sự vật hiện tượng đều bị
khúc xạ.
"Bỏ ra ngoài thần thoại, xét cho cùng sự cứu độ của
Thích-ca thiếu tính tất yếu vì Thích-ca cứu độ như chỉ đường. Còn
Jesus là chuộc tội chỉ mình Jesus làm được là xóa bỏ cái vô minh (tội
tổ tông) của toàn thể giống người. Một điểm khác biệt nữa cũng nên
ghi nhận ra là sự cứu độ trong đạo Phật không phải độc quyền của
Thích-ca. Bên cạnh Thích-ca còn có các đức Phật khác (nhiều như vi trần!)
cũng làm cái công việc cứu độ cửu Phật Tổ. Đó là các đức Phật
"lý tưởng" của Đại Thừa (các đức Phật từ chối vào niết
bàn để làm Bồ- tát độ sinh như Địa Tạng, Quán A⭬ A-di-đà…). Kẻ
lâm chung dầu là đồ tể phạm tội sát sinh lút đầu chỉ cần niệm Phật
A-di-đàtất được vãng sinh về cõi cực lạc. Cõi cực lạc là cõi tịnh
độ (tu thêm) hay cõi niết bàn còn nghi vấn. Hơn nữa Thích-ca là ngón tay
chỉ mặt trăng. Thấy trăng rồi thì ngón tay vô dụng, còn Jesus vừa là
ngón tay vừa là mặt trăng."
Sau khi chứng được đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, với Tuệ Nhãn ấy, Ngài nhận thấy tất cả chúng sinh đều có khả
năng thành Phật như Ngài, nhưng Ngài không thể tu tập giùm cho bất cứ một
ai, mà mỗi người phải tự nổ lực theo những kinh nghiệm mà Ngài đã trải
qua. Ngài chỉ là người Thầy chỉ đường, không độc đoán, không ép buộc
bất cứ một người nào, và càng không muốn dù chỉ một người bị lệ
thuộc vào Ngài, vì Ngài tôn trọng trí tuệ của tất cả mọi người. Xử
sự như thế quá ư là sáng suốt và nhân bản chứ! Cho nên, chư Phật
trong thế giới Ta-Bà nhiều như vi trần là chuyện ắt có và đủ. Về
phương diện này, theo tôi nghĩ, cái đầu của ông Phan Thiết không được
bình thường, vì một sự việc quá đơn giản như vậy mà ông cũng không
hiểu. Chẳng lẽ con người chỉ có khả năng trở thành một
"Con-Chiên" thôi sao? Hay, vấn đề đó ông cũng đã nghĩ tới,
nhưng lại cố tình xuyên tạc. Và ông tìm ở đâu ra lời dạy "Kẻ
lâm chung dầu là đồ tể phạm tội sát sinh lút đầu chỉ cần niệm
Phật A-di-đà tất được vãng sinh…" Ông phát biểu như thế mà
không thấy mình tự mâu thuẩn? Nếu đó là sự thật, thì trước nhất
Tăng, Ni và Phật tử chẳng cần tu tập giải trừ Tham, Sân và Si làm chi
cho nhọc, vì chỉ cần niệm có một tiếng Phật lúc sắp trút hơi tàn là
đủ! Thật ra, trong kinh dạy rằng: "Tất cả mọi người muốn được
vãng sinh cảnh giới Cực lạc, thì phải chuyên tâm niệm danh hiệu Phật
cho đến 'Nhất tâm bất loạn’… " Ngoài ra, còn nhiều yếu tố
khác: Tín, Hạnh và nguyện… làm trợ duyên cho pháp môn niệm Phật. Chỉ
chừng ấy, mà ông còn hiểu lệch lạc, thì làm sao có thể trở thành Tam
Tạng và Đồ Chiểu thời đại được. Quả là thùng rỗng thường kêu
to! Và ông có thể cho chúng tôi biết, quyển sách nào đã viết: "Hơn
nữa Thích-ca là ngón tay chỉ mặt trăng. Thấy trăng rồi thì ngón tay vô dụng…"
Chứ chúng tôi chỉ biết lời đức Phật dạy thế này: "Giáo Pháp của
tôi giảng dạy cho các vị tu tập, như là ngón tay chỉ mặt trăng, không
nên coi đó là chân lý. Mặt Trăng mới là chân lý, là đích để đến, là
chổ cứu cánh giải thoát…" Chúng tôi biết chắc chắn rằng, trong Phật
giáo không có một quyển sách nào viết như thế, mà chỉ có sách lược của
Giáo Hoàng Gioan-Phao-Lồ II, vừa xuyên tạc, bóp méo sự thật, vừa gắn
thêm một vầng hào quang mới cho Chúa Jesus mà thôi!
III. CÓ KHÔNG
Trước khi đi vào nội
dung chính của Phan Thiết, để nhận xét và đánh giá cho đúng mức hư thực
thế nào, chúng tôi muốn cùng quí đọc giả kiểm chứng lại những gì
ông đã thấy và đã đi vào thực tế. Chứ riêng chúng tôi nhận thấy
hình ảnh của ông trên trang sách, mang kính đen và cầm cây gậy, nên tôi
nghi rằng ông bị khuyết tật. Nếu điều đó là sự thật, thì những gì
ông đã thấy đã đi cần phải xét lại. Vì, "Cuộc chiêm bái Phật
tích của tôi thoảng như cưởi ngựa xem hoa, không đủ thì giờ để đọc
các thông tin lịch sử còn sót lại. Việt làm này có tính cách tài tử
và nghiệp dư…" (tr 93 quyển II). Qua lời tự bạch trên
của ông làm cho tôi nổi lên một số nghi vấn về tính thẩm quyền của
bộ sách gồm 2 tập của ông. Trong khi đó, ở chương tổng luận ông có
đề cập. "Để ghi nhớ số năm hành giả có mặt trên cuộc đời
và khoảng 8 năm làm việc cho tác phẩm…" Chao ơi, một công trình
vĩ đại, thời gian bỏ ra nhiều hơn cho một luận án Tiến sĩ., mà chỉ
viết có 369 trang. Có không với khoảng chừng ấy thời gian, tại sao ông
làm việc mất cân đối như vậy? Chỉ có quyển thứ I, với 206 trang mà
ông phải đầu tư đến 7 năm, còn quyển thứ II, nói về xứ Phật và những
vấn đề có liên quan mà chỉ có 6 tháng (? /11/1997- 29/05/1998) kể cả thời
gian về Việt Nam, để nghiên cứu lịch sử du nhập của Phật giáo Việt
Nam!
Vậy là, trong vấn đề công bố thời gian này có gì uẩn
khúc? Phải chăng, những nghi vấn chúng tôi đặt ra là đúng. Phan Thiết viết
theo đơn đặt hàng của một ai đó, nhưng cảm nhận được vấn đề phức
tạp sao khi công bố, nên ông mới thố lộ "viết mà run" Đến
đây, chúng tôi có thể suy luận. Sau chuyện rùm beng trên diễn văn học và
trong cộng đồng Phật giáo ở trong và ngoài nước, về chuyện quyển sách
"Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng" (Crossing The Threshold of Hope) được
xuất bản vào năm 1994 của Giáo Hoàng Gioan-Phao-Lồ II. Viết chống phá Phật
giáo, nhưng sau đó đại diện của Giáo Hoàng đã xin lỗi. Phải chăng, vì
chuyện đó ông đã rút kinh nghiệm, nên giờ đây đem Phan Thiết ra làm
bình phong. Nếu phải xin lỗi lần nữa thì có đáng gì một vô danh tiểu
tốt, mà lại đạt được mục đích chống phá đạo khác để mở mang đất
Chúa! Nên Phan Thiết mới công bố thời gian chênh lệch, để nhằm lừa dối
đọc giả? Bản chất của những Con Chiên cuồng tín là thế, nên Giáo Sư
sử học Nguyễn Mạnh Quang đã nhận định: "Thực chất của giáo hội
la mã, tổng hợp của ngu, dốt, huênh hoang và hung hăng" (Văn Sử Địa).
Nhưng thôi, chuyện ấy hạ hồi phân giải. Giờ đây chúng ta hãy quay trở
lại chủ đề "Hành Hương Đất Phật" của Phan Thiết thử
xem chuyện "CÓ KHÔNG" và huênh hoang, hành hung Phật giáo đến mức
độ nào? Như ông đã khẳn định:
"Xưa đức Thích Tôn vì cõi người ta đánh đổ thần
quyền, nay tôi noi gương Ngài rồi học hỏi thêm nhóm Diderot, mài bút
thành gươm"
"đức Phật bị phiền não ghê lắm vì chứng kiết lỵ
đã biến thành tháo dạ khiến cơ thể kiệt nước. Ngài khát nước và
tháo dạ liên hồi. Tôi hình dung ra một cụ già bị bệnh này hành cho đến
chết và những gì xãy ra ở lâm sàng của người bệnh: người bệnh nằm
nghiêng, hạ thể thấp và trần truồng"
Đấy là sản phẩm tưởng
tượng bệnh hoạn của ông, nghĩ ra lúc đức Phật sắp vào Niết-Bàn .
Chúng tôi nghi là ông đang mắc bệnh hội chứng trì trệ tâm thần, nên viết
mâu thuẩn như sau:
"Đức Thế Tôn
vô cùng tỉnh táo, mặt Ngài rạng rỡ như trăng rằm trong khi các đệ tử
xúm quanh u sầu khóc lóc. A-Nan-Đà cung kính quỳ dưới chân Ngài xin Ngài
di ngôn lần cuối. Phật hé mắt âu yếm nhìn ông rồi đọc kệ:
"Đừng tin những gì do kinh sách
Đừng tin
điều gì do tập quán lưu truyền
Đừng tin
điều gì vì được người ta nhắc đi nhắc lại
Đừng tin
điều gì do bút tích của thánh nhơn......" (tr 31-32)
Rất chính xác ở câu đầu, nhưng ông đã sai ở phần
bài kệ. Vì đây, không phải là lời di ngôn
cuối cùng của Đức Phật mà chính là Kinh Phật thuyết cho dân Kalama. Ở
đây chúng tôi thắc mắc, nếu như ông không bị chứng bệnh như tôi nghĩ,
thì đức Phật nào sẽ được ông chấp nhận? Trên đất nước AᮠĐộ
chỉ có một đức Phật Thích-Ca. Trong khi đó, ông viết rằng:
"Tôi truy tầm đến tận ngọn nguồn các vấn đề liên
quan đến đạo Phật theo khả năng của tôi. Khi làm việc ấy tôi vẫn xử
dụng ‘võ khí’ mà Phật Tổ đã chỉ là trí tuệ. Có điều trí tuệ của
tôi đã được mài dũa trong khoa luận lý học với những phương pháp luận,
phương pháp đối chiếu, biện chứng pháp, các phạm trù…để truy tầm
những điều tôi nghi vấn" (tr 21)
Giữa hai sự việc cùng một vấn đề như ông đã viết
ở trên, chúng tôi không biết ông đã xử dụng phương pháp nào mà ông đã
học được ở "khoa luận lý"鿠Điểm
này, xin nhường lại sự nhận xét của quí đọc giả về kiến thức uyên
bác của ông như Tam Tạng và Đồ Chiểu hiện đại!
Vẫn với những luận điệu quái gở như trên ông chụp mũ
tiếp:
"Đạo lý nhà Phật mang tính cách phe đảng, phảng
phất lòng tham. Trong rất nhiều kinh ‘Phật’, hành giả nào cúng dường
chư Phật nhiều, liền được Phật Tổ ký quả Phật! Rõ ràng đây là
tâm lý phàm phu chứ không phải tâm lý của bậc Đại Giác"
Ông chỉ phát biểu bừa bải như vậy, mà không hề đưa
ra một bằng chứng cụ thể nào là kinh Phật đã nói thế. Phải chăng
ông lấy từ trong kinh của Vatican và những "bề trên" của ông đã
dạy từ thuở ông còn nằm trong noi, nên ông chỉ thấy có một chiều, một
chiều bậy bạ!
"Trên hết phải kể công lao của các tác giả phương
Tây có công Thiên Chúa giáo hoá đạo Phật qua ngôn ngữ. Ví dụ cuốn
"An Introduction to Buddhism" của tác giả Peter Harvey do Cambridge
University Press 1990-phát hành. Trong đó tác giả dùng các danh từ Thiên chúa
để viết về đạo Phật, hoá ra người phương Tây hiểu đạo Phật qua
đạo Thiên Chúa. Ví dụ chữ Holy được dùng rất nhiều: Holy Eightfold Path
(p 23): Bát Chánh Đạo; The Four Holy Truths (p 47), Tứ Diệu Đế; Holy Sangha (p
71): Tăng già; Holy Bodhisattvas (p 178) Bồ-tát…Chữ Lord (p 23): Chúa, Blessed
One (p 23) vị thánh. Mượn chư không nên lòi cái dốt của tác giả:
Thích-ca vừa là Chúa vừa là một ông thánh! Cái tai hại là làm cho người
khác hiểu lầm các mối đạo, nhưng cũng có cái lợi là lập lờ đánh lận
dân ngu. Các tác giả Phật học Việt Nam ngày nay rất thích chữ Thánh của
Thiên Chúa giáo: một thứ râu ông nọ cắm cằm bà kia."
Ở đoạn này, chúng tôi nghĩ ông Phan Thiết trở nên một
người già khó tính quá đáng. Tại sao người ta không được phép xử dụng
những danh từ tương đương, trong một ngôn ngữ nào đó không có từ
chính xác để thay thế, khi người ta không muốn tạo ra từ mới sẽ làm
khó dễ cho người đọc khó nắm bắt được vấn đề? Thiết nghĩ đây
là chuyện bình thường của những nhà dịch giả, không có gì phải bận
tâm. Vã lại tiếng Anh đâu phải là độc quyền của Thiên Chúa giáo, và
kinh Thánh được viết bằng tiếng La Tinh kia mà! Hơn thế nữa, Vatican
cũng chưa ra sắc lệnh cấm những ai "phạm húy" rằng: danh từ ‘Lord’
chỉ được dùng cho Chúa, không có quyền hiểu nó là Ngài, là người tôn
quí. Thì lấy cớ gì ông buộc tội các tác giả Phật học Việt Nam "lập
lờ đánh lận dân ngu" và"một thứ râu ông nọ cắm cằm
bà kia"như thế có quá đáng lắm không! Quả nhiên, những phương
pháp ‘luận lý học’ của Phan Thiết có cái gì đó bất bình thường?
Cũng với lối suy diễn khó hiểu như trên ở một đoạn khác:
"Trong óc tôi trước khi tới AᮠĐộ cũng hiện lên một
thành Ca-tì-la-vệ sầm uất, nhà cửa san sát, có bốn cửa thành mà Thái tử
đã chứng kiến bốn cảnh sinh, lão, bịnh, tử릣133;"(tr 49) và "Chẳng lẽ đô thị sầm uất
ngày xưa nay thành đồng lúa? Sự suy luận càng làm tăng lòng ngờ vực của
tôi với kinh luận đạo Phật" (tr 50)
Từ hai dữ kiện trên Phan Thiết đi đến kết luận:
"Địa hình Ca-ti-la-vệ xưa và nay chắc vẫn thế tùy
quang cảnh và cư dân thay đổi nhưng cổng thành phía tây là đồng lúa,
phía nam là con sông, đức Bồ tát đã thấy cái gì? Cuộc du ngoạn 4 cổng
thành của Thái tử Tất-đạt-đa mở đầu cho một hành trình thành Phật
của Ngài có tính cách ước lệ, làm cho ra vẻ’ thông lệ của chư Phật’
chẳng phải là chi tiết lịch sử"(tr 51)
Lẽ nào Phan Thiết lại mang đến 2 chứng bệnh ‘nan y’-
kiếm thị và bại xụi! Nên mọi chuyện đi đứng và quan sát mới sinh ra
tác tệ và nông nỗi như vậy? Chứ những người bình thường và sở học
ít hơn Phan Thiết rất nhiều cũng vẫn không đến đổi nhầm lẫn như thế
mà còn nhận xét rất chính xác: "卦#7845;y
nghìn năm trôi qua, đã khiến cho những nơi này trở nên hoang tàn đổ nát
theo khói mầu thời gian. Đúng như lời đức Phật dạy trong kinh Kim Cang
‘Phàm sở hữu tướng giai do hư vọng’…" Vả lại, Phật giáo AᮠĐộ
chẳng may bị những biến cố cực đoan về tôn giáo vào thế kỷ thứ 13,
nên đã thiếu vắng đi những bàn tay chăm sóc cho những nơi cần được sự
bảo vệ, như các Thánh địa và những nơi có liên quan đến đời sống của
đức Phật. Nhưng không vì những lý do đó mà ông Phan Thiết vội chụp mũ
nó với phương pháp luận lý học đặc biệt của ông là nó không có mặt
cách nay hơn 2600 năm. Vì ngoài kiến thức bác học củaông, trên thế giới
này còn có vô số những khối óc thượng thặng, đã giúp ông xác định
những vị trí của các Thánh tích và những gì có liên quan đến đời sống
của đức Phật qua nhiều cách: Khảo cổ học, ngôn ngữ học, giả sử, dị
sử và chính sử…muôn trùng trong các thư viện của trường Đại học
Delhi. Nhưng khi sang AᮠĐộ Phan Thiết đâu có cần những thứ ấy, ông chỉ
cần đi để hợp thức hoá việc bôi nhọa, chống phá, chụp mũ…và lường
gạt đọc giả là đạt mục đích.
Chỉ cần nhặt ra chừng ấy, trong vô số những điểm kỳ
dị của ông còn lại, đủ thấy tác phẩm không mang một giá trị nào cho
nền văn học, và không cung cấp được một thông tin nào về các ‘Thánh
tích’ cũng như về giáo lý Phật giáo. Những điểm "CÓ KHÔNG" của
ông đặt ra chỉ là trò bịp bợm với những tiểu xảo ngôn ngư 孠một nửa gần sự thật, một nửa hoàn toàn bịa đặt
theo đầu óc bệnh hoạn của ông. Nên chúng tôi đi đến kết luận rằng,
những điểm ‘có không’ của ông dựng lên là ‘không có’ trong Phật
giáo. Vì vậy, chúng tôi xin gởi lại cho ông những cái mũ mà ông cố
tình chụp cho Phật giáo.
IV. LỜI KẾT
Khi đưa tay khép lại trang
cuối của quyển "Hành Hương Đất Phật" (đúng ra là ‘Hành Hung
Đạo Phật’) của ông Phan Thiết, lòng chúng tôi chợt dâng lên một niềm
thương mến ông vô cùng: vì thiếu sự hiểu biết và nghiên cứu chưa đến
nơi đến chốn, nên ông mới làm chuyện giả tràng xe cát trong suốt 8 năm
qua. Bởi, khả năng chống phá Phật giáo của ông còn quá non nớt so với
những cái đầu thượng thặng của Vatican như John Paul II, mà còn chẳng
làm gì được Phật giáo. Vì, Phật giáo là đạo Giác Ngộ, đạo thực
nghiệm cho con người.
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin trích lại lời
phát biểu của Đại đế Asoka:
"Ta không nên chỉ tôn vinh tôn giáo riêng của mình vì
chỉ trích các tôn giáo khác, mà ta nên kính trọng các tôn giáo khác vì
lý do này hay lý do nọ. Làm vậy, ta đã giúp cho chính tôn giáo mình phát
triển và cũng đồng thời hổ trợ những tôn giáo khác. Hành động ngược
lại chính là ta đã tự đào huyệt chôn tôn giáo mình và cũng gây hại
cho những tôn giáo khác. Bất cứai vinh danh tôn giáo mình và chỉ trích
tôn giáo khác, tưởng như vậy là sùng bái tôn giáo mình, nghĩ là đã
"Tuyên dương tôn giáo mình". Nhưng, ngược lại làm như vậy là đã
gây tổn thương nặng nề cho tôn giáo mình. Nên hòa thuận thì tốt: Hãy lắng
nghe tất cả và sẳn sàng nghe các học thuyết của các tôn giáo khác với
thiện chí" (Buddhism in the Eyes of Intellectuals by Dr. K.Sri
Dhamanada)
Qua những dòng nhắn nhũ của bậc tiền nhân, chúng tôi hy
vọng rằng trong thế kỷ thứ 21 này, tất cả các đạo giáo đều ứng xử
với nhau như thế, để giúp cho con người có được một cuộc sống đầy
an lành, như Tom Paine cũng đã nhận định: "Tôi tin vào sự bình đẳng
của con người và tôi tin rằng nhiệm vụ của tôn giáo là đem lại công
bằng, bác ái, và cố gắng làm cho chúng ta hạnh phúc…"(Tom Paine, Page
285). Đừng vì, thấy sự khác nhau qua màu da, chủng tộc hay lý tưởng
mà sinh ra những thù hằn chống đối không cần thiết. Đạo Phật bao giờ
cũng là đạo Phật, nên có một ai đó cảm nhận:
- Đạo Phật như một đoá sen tươi thắm
- Vươn cao từ nước đọng, bùn nhơ
- Người không thích gọi nhiều tên xa lạ
- Như vô tình, vẫn toả ngát hương thơm!
- Lệ Thọ
- Delhi, 17/05/2000
http://www.buddhismtoday.com/viet/diemsach/004-letho-hhpp.htm
|
|