A. Chiến lược tâm công của đức
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
Vào thế kỷ thứ 13, đời nhà Trần nước Việt Nam chúng
ta đã phải đương đầu với ba lần xâm lăng của đạo quân hùng mạnh
và thiện chiến Mông Cổ nhưng quân dân nước ta đã đánh bại cả ba lần
xâm lăng vào những năm 1257, 1284, 1287 (theo tài liệu sử sách tham khảo số
5 và 6) trong khi đế quốc Mông Cổ (hoàn thành năm 1280) đã thôn tính 40 quốc
gia (kể cả Trung Hoa) từ Đông sang Tây tạo dựng một đế quốc trải dài
từ Á sang Âu châu. (6)
Khi học lại những trang sử oai hùng của công cuộc chiến
tranh kỳ vĩ do Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lãnh đạo để chống quân
Nguyên (Mông Cổ), người viết xin được ghi chép lại và đóng góp những
nhận định hết sức tổng quát và đơn giản về chiến lược Tâm Công
đời nhà Trần. Đây chính là quốc bảo để giữ nước và dựng nước mà
tất cả người Việt đều có quyền hãnh diện thừa hưởng, học hỏi và
áp dụng.
A.1 Tương quan lực lượng của quân
Việt Nam và quân Mông Cổ
Dân số nước ta vào thế kỷ 13 (1284) có thể ước lượng
là vài triệu người nhưng theo sử chép thì tổng số quân lực dưới quyền
lãnh đạo của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ có 20 vạn quân (5),
(6).
Với 200,000 quân số như vậy mà nước ta phải đương đầu
với 500,000 quân của đoàn quân xâm lược thiện chiến Mông Cổ thì quả
là một sự chênh lệch quá lớn trong tương quan lực lượng của quân ta
và quân Mông Cổ.
A.2 Chiến lược tâm công của Đức
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
Trần Hưng Đạo là một thiên tài quân sự đã nghiên cứu
chiến lược, chiến thuật và binh pháp của tất cả những nhà quân sự
thời bấy giờ (2 & 3) và Vương đã viết Hịch Tướng Sĩ (2), hai quyển
Vạn Kiếp Bí Truyền (5),(6) và Binh Thư Yếu Lược (3) để huấn luyện và
thao dượt quân sĩ. Sau này theo Phan Huy Chú trong sách Lịch Triều Hiến Chương
Văn Tịch Chí thì Vạn Kiếp Bí Truyền, Binh Thư Yếu Lược cùng bao nhiêu
sách vở của nước Nam từ nhà Trần về trước đều bị quan quân nhà
Minh thu lấy cả rồi đem về Kim Lăng trong thời kỳ nhà Minh đô hộ nước
ta (1414-1427). (5)
Dựa vào những dữ kiện lịch sử , chúng ta có thể đi đến
kết luận là những chiến lược sau đây đã do chính Trần Hưng Đạo dâng
lên để Vua Trần Nhân Tông và triều đình xử dụng:
Hội nghị Bình Than (tháng 10 năm Nhâm Ngọ 1282): ‘Trần
triều trước tình thế cấp bách và nghiêm trọng, triệu tập các vương hầu
và bá quan văn võ bên sông Bình Than. Nơi họp có tính cách bí mật vì cần
tránh tai mắt của bọn gián điệp đối phương. Hội nghị này là hội
nghị để thăm dò ý kiến của các vương hầu, tướng lĩnh. Các quan có
người bàn không nên nghịch ý Mông Cổ nghĩa là cho mượn đường và
giúp lương. Có người bàn nên đem quý vật sang cống để hoãn binh. Duy chỉ
có Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư chủ chiến và xin đem quân giữ các
nơi hiểm yếu.’ (6)
Hội nghị Diên Hồng (tháng chạp năm Giáp Thân 1284) hay chiến
lược Đồng Tâm Trước thế giặc Nguyên hết sức mạnh, Thượng Hoàng
(Vua Trần Thánh Tông) đã cho triệu tập các bô lão về họp ở điện Diên
Hồng để trưng cầu dân ý cùng tham khảo chiến lược trước cơn quốc nạn
(Tâm Trí). Các bô lão đều đồng thanh xin đánh. Qua hai hội nghị Bình
Than và Diên Hồng, quyết định chung của toàn dân và toàn quân là quyết
chiến và hy sinh để bảo vệ đất nước và nền độc lập, tự chủ. (Tâm
Trí và Tâm Dũng) Lời bài ca Hội Nghị Diên Hồng còn vang lên hùng khí của
tiền nhân : ‘Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến? Quyết chiến! Quyết
chiến! Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh? Hy sinh! Hy sinh!’
Hội nghị Diên Hồng có thể được xem như là hội nghị
dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước ta để biết ý dân vì các bô
lão thực sự là những đại biểu của dân, đã sống cả cuộc đời gắn
bó với quê hương và dân tộc, đã hiểu được cái Đạo Sống của dân
tộc, luôn được dân chúng kính trọng và nghe lời dạy bảo. Thượng Hoàng
(Vua Trần Thánh Tông) đã không cho triệu tập các thành phần sĩ, nông,
công, thương trong xã hội nước ta vào thời đó vì lý do này. ( Tâm Trí )
Hội nghị Diên Hồng đã mở ra chiến lược Đồng Tâm,
áp dụng chiến lược ‘Tâm truyền Tâm’ để kết hợp toàn dân trong
tình thế hết sức nguy khó khi đất nước có thể rơi vào trong tình trạng
bị đô hộ bởi ngoại bang và có thể mất nền độc lập, tự chủ vừa
mới giành lại được từ thời Ngô Quyền năm 939.
Khi các bô lão trở về làng của mình đã truyền giảng
thông điệp quyết chiến và hy sinh của hội nghị Diên Hồng và đã hoàn
thành chiến lược Đồng Tâm để kết hợp và điều động toàn dân bảo
vệ bờ cõi chống xâm lăng. (Tâm Trí và Tâm Dũng)
Chiến lược này đã giúp cho nước ta đương đầu với cuộc
xâm lăng của quân Mông Cổ mặc dù trong những giai đoạn đầu quân ta
không thể chận được những cuộc tấn công của quân Mông Cổ và đã
thua ở nhiều mặt trận kể cả kinh thành Thăng Long cũng đã bị thất thủ
và Trần Hưng Đạo đã phải rước xa giá và bảo vệ nhà Vua dời đi nơi
khác. (5), (6)
Sau khi tham dự Hội nghị Diên Hồng, các bô lão đã giải
quyết được vấn nạn truyền thông đại chúng cho triều đình nhà Trần
để đưa thông điệp quyết chiến và hy sinh đến toàn dân và đã hoàn
thành chiến lược Đồng Tâm vì vào thế kỷ 13 đây là một vấn đề rất
khó giải quyết khi chưa có các phương tiện truyền thông đại chúng (như
báo chí, hệ thống truyền thanh, truyền hình,...) và tất cả nguồn nhân lực,
tài nguyên quốc gia đều phải đổ vào cuộc chiến tranh tự vệ.
Khi nghe tin Hưng Đạo Vương lui quân khỏi Lạng Sơn và chạy
về Vạn Kiếp, Vua Trần Nhân Tông liền xuống chiến thuyền nhỏ ra Hải
Đông (tức là Hải Dương), rồi cho vời Hưng Đạo Vương đến bàn quốc
sự. Vua Nhân Tông nói: ‘Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân
sự tàn hại, hay là Trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân.’ ( Tâm Từ
Bi )
Hưng Đạo Vương tâu rằng: ‘Bệ-hạ nói câu ấy thì thật
là lời nhân đức, nhưng mà Tôn-miếu Xã-tắc thì sao? Nếu Bệ-hạ muốn
hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng!’ (Tâm Dũng).
Vua nghe lời nói trung liệt như vậy, trong bụng mới yên. (5) (Tâm an Tâm)
Sau đó Hội Nghị Quân Sự ở Vạn Kiếp được nhóm họp
để chỉnh bị lại hàng ngũ, duyệt xét lại toàn bộ các mặt trận cùng
chiến lược, chiến thuật sẽ được xử dụng sau những kinh nghiệm về
các trận đánh cùng quân Nguyên ở mặt trận Lạng Sơn. (6) (Tâm Trí)
Hịch Tướng Sĩ hay là Chiến Lược
Toàn Quân
Sau hội nghị Bình Than (tháng 10 năm Nhâm Ngọ 1282), ‘Vua
Trần Nhân Tông thân chinh đốc xuất các vương hầu huy động toàn thể
quân đội thủy lục được tất cả 20 vạn mở cuộc tập trận. Trần Quốc
Tuấn được tấn phong làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh lực lượng quân
sự toàn quốc, sau đó Vương đã viết và cho truyền ra Hịch Tướng Sĩ, lời
hịch đầu tiên kêu gọi tinh thần ái quốc và kỷ luật của các tướng
sĩ và toàn quân vào tháng 8 năm Giáp Thân 1284 trước cơn quốc nạn. (6) (Tâm
Trí).
Mặc dù bản văn Hịch tướng Sĩ đã được viết hơn 7 thế
kỷ trước để hiệu triệu tướng sĩ và toàn quân thế mà đến ngày nay
người đọc vẫn cảm nhận được hùng khí của tiền nhân gói trọn
trong những nét hay và vẻ đẹp của văn chương.
Qua Hịch tướng Sĩ, Trần Hưng Đạo đã đưa ra một Chiến
Lược Toàn Quân vì Vương đã dùng hịch này để hiệu triệu toàn quân phải
hết lòng chiến đấu để dẹp tan quân giặc (Tâm truyền Tâm , Tâm Dũng).
Vương đã dạy cho quân sĩ chiến thuật và chiến lược chống xâm lăng
qua việc học hỏi và thao luyện những điều mà Vương đã tổng hợp các
sách quân sự đương thời trong quyển Binh Thư Yếu Lược (Tâm Trí):
‘Nay ta soạn hết các binh pháp của các nhà danh gia hợp lại
làm một quyển gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập
sách này, theo lời dạy bảo, thì mới phải đạo thần tử; nhược bằng
khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo, thì tức là kẻ nghịch thù.’ (2)
Trần Hưng Đạo cũng là một nhà chính trị lỗi lạc và
chính trị của Vương luôn đặt tinh thần yêu nước và sự an vui, hạnh
phúc của toàn dân làm đầu: ‘Hưng Đạo Vương là một người danh tướng
đệ nhất nước Nam, đánh giặc Nguyên có công to với nước, được phong
làm Thái Sư, Thượng Phụ, Thượng Qưốc Công, Bình Bắc Đại Nguyên Súy,
Hưng Đạo Đại Vương. ... Khi Vương sắp mất, Vua Anh Tông có ngự giá đến
thăm, nhận thấy Vương bệnh nặng, mới hỏi rằng:‘Thượng Phụ một
mai khuất núi, phỏng có quân Bắc lại sang thì làm thế nào?’ Hưng Đạo
Vương tâu rằng:
‘Nước ta thuở xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp, Hán Đế
đem binh đến đánh. Võ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để
lương thảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm,
châu Liêm, đánh quận Tràng Sa, dùng đoản binh mà đánh được, đó là một
thời. Đến đời Đinh, Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ
nước Nam đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn chấn; mà bên
Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thành Bình Lỗ (thuộc Thái Nguyên)
phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đời nhà Lý, quân Tống
sang xâm, Lý Đế sai Lý Thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai
Lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bản
triều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng
lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được
tướng kia, cũng là lòng trời giúp ta mới được thế. Đại để, kẻ kia
cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhau với
tràng, phép dùng binh thường vẫn phải thế. Còn như khi nào quân giặc
kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó
dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần
lấy mau việc, thế ấy mới khó trị ; thì ta nên dùng tướng giỏi, liệu
xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tùy cơ mà ứng biến, dùng binh phải
đồng lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được. (Tâm Trí)
‘Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu
rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả.’ (5) (Tâm Từ Bi)
Vua Anh Tông chịu lời ấy là rất phải. Được mấy hôm
thì Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất vào ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý
(1300). Từ nhà Vua cho đến dân chúng ai cũng thương tiếc. Nhân dân nhiều
nơi lập đền thờ phụng để ghi nhớ công đức của Ngài. (5)
Thực hiện chiến lược Tâm Công để kết hợp toàn dân
và toàn quân, Thượng Hoàng (Vua Trần Thánh Tông), Vua Trần Nhân Tông và
triều đình đời Trần đã giao trọng trách điều khiển lực lượng quân
sự toàn quốc cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Lịch sử đã ghi
chép vào thế kỷ 13, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới đã đánh
bại quân xâm lăng Mông Cổ ba lần để giữ vững nền tự chủ và bờ
cõi.
B. Chiến lược tâm công của đức Lê
Lợi và Nguyễn Trãi
Khi học lại những trang sử oai hùng của công cuộc kháng
chiến kỳ vĩ để lật đổ chế độ đô hộ của nhà Minh (1414 - 1427) do
Bình Định Vương Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo (1418 - 1427), người viết
xin được ghi chép lại và đóng góp những nhận định hết sức tổng quát
và đơn giản về chiến lược Tâm Công do Nguyễn Trãi dâng lên cho Lê Lợi,
người anh hùng áo vải ở đất Lam Sơn, để thực hiện công cuộc kháng
chiến 10 năm đầy gian khổ và chưa từng có trong lịch sử xưa nay. Đây
chính là quốc bảo để lấy lại nước, giữ nước và dựng nước mà tất
cả người Việt đều có quyền hãnh diện thừa hưởng, học hỏi và áp
dụng.
B.1 Bình Định Vương Lê Lợi: ‘người ở làng Lam Sơn,
huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Đã mấy đời làm nghề
canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi
người đều phục,... Ông Lê Lợi khảng khái, có chí lớn, quan nhà Minh
nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng:
‘Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng
thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người!’ (5) (Tâm
Trí)
B.2 ‘Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ
hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong. Đến mùa xuân năm mậu tuất
(1418), ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch và Lê Liễu khởi binh ở
núi Lam Sơn tự xưng là Bình Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể
tội nhà Minh để rõ cái mụch đích của mình khởi nghĩa đánh kẻ thù của
nước.’ (5) (Tâm truyền Tâm)
B.3 Bình Định Vương Lê Lợi là bậc anh hùng hội đủ tất
cả những đức tính cần thiết để thực hiện chiến lược Tâm Công giải
phóng đất nước ra khỏi ách đô hộ của nhà Minh do Nguyễn Trãi dâng
lên cho Vương trong ‘Bình Ngô Sách’.
B.4 Trước khi đi gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã hoàn tất
chiến lược cứu nước qua tác phẩm Bình Ngô Sách. (Tâm Trí)
Tiếc thay, bản chiến lược Bình Ngô Sách này đã thất lạc.
Tuy không biết Bình Ngô Sách trình bày những nhận định gì về con đường
cứu nước và về tình hình ta và địch. Nhưng điều may mắn nhất của
chúng ta là vẫn còn biết được yếu chỉ hành động của Bình Ngô Sách
nhờ bài tựa của Ngô Thế Vinh (viết năm 1833) trong Ức Trai Di Tập (quyển
1): ‘Bình Ngô Sách hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh
thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người, cuối cùng nhân
dân và đất nước của 15 đạo nước ta đều đem về cho ta cả.’ (7)
(Chiến lược Tâm Công)
B.5 Sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đã dẹp xong giặc Minh
năm 1427, Người đã ra lệnh cho Nguyễn Trãi soạn thảo bài tuyên cáo cho
toàn dân biết và Nguyễn Trãi đã minh định chiến lược này qua bản
Bình Ngô Đại Cáo (1427):
- ...‘Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
- ‘Lấy chí nhân mà thay cường bạo. ...
- ‘Ta mưu phạt tâm công , không đánh mà người phải khuất. ...(Tâm
Công)
- ‘Tướng giặc bắt tù, xin thương hại vẫy đuôi cầu sống,
- ‘Uy thần chẳng giết, lấy khoan hồng thể bụng hiếu sinh. ... (Tâm Từ
Bi)
- ‘Chúng đã sợ chết xin hòa, thực thà cầu sống,
- ‘Ta muốn toàn quân làm cốt, ngơi nghỉ cùng dân.
- ‘Chẳng những mưu kế cực sâu xa,
- ‘Cũng là cổ kim chưa nghe thấy. ...’ (4) (Tâm Trí, Tâm Từ Bi )
B.6 Trong Bình Ngô Đại Cáo, Tâm Từ Bi đã thể hiện hết
sức mạnh mẽ trong Chiến lược Tâm Công qua sự bừng nở của Tâm Trí Tuệ
áp dụng trong chiến tranh chưa từng nghe thấy từ xưa đến nay để bảo
toàn lực lượng khởi nghĩa, giữ đúng lệnh khoan hồng cho các trấn
thành cùng quan quân đối phương đầu hàng, giảm thiểu những tổn thất
về sinh mạng cho cả hai bên đang trong cuộc chiến, chấm dứt chiến tranh,
đi đến chiến thắng sau cùng và mang lại hạnh phúc cho toàn dân.
B.7 ‘Tới giai đoạn này viện quân của Minh triều bị đại
bại, tinh thần của đối phương ở nhiều trấn thành sa xuống rất mạnh.
Nhiều tướng lĩnh Minh xin quy phục, chỉ còn 4 thành: Tây Đô, Cổ Lộng (nền
cũ của thành này còn ở làng Bình Cách, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), Đông
Quan và Chí Linh vẫn chưa xao xuyến lắm. Đáng lẽ quân ta tổng tấn công
các thành đó trong lúc quân dân của chúng ta đang thừa hăng hái, Bình Định
Vương sai viên thông sự Đặng Hiếu Lộc dẫn Thôi Tụ, Hoàng Phúc và một
số lớn tù binh cùng quả ấn song hổ và cờ kiếm, sổ sách đưa vào
thành Đông Quan....’ (6) ‘Mưu thuật này đạt được đúng kết quả mong
muốn là đánh một đòn nặng vào tâm lý địch giữa lúc họ đang khủng
hoảng tinh thần. Biết tình thế hoàn toàn đổ vỡ, Vương Thông, Sơn Thọ
cử phái viên là Thiên Hộ họ Hà đến đại bản doanh của Bình Định
Vương đề nghị thành thực cầu hòa và xin mở đường cho chúng lui binh về
nước.’ (6) (Tâm Trí)
B.8 ‘Tướng sĩ và nhân dân tỏ ý không tán thành cuộc
hòa giải vì lòng người còn căm giận sự tàn bạo trước đây của giặc
Minh. Dư luận còn đang phân vân, Nguyễn Trãi bàn: ‘- Giặc Minh tàn bạo
nhân dịp này giết hết chúng đi là phải, nhưng phải nghĩ nước mình nhỏ,
nước chúng lớn gấp mấy chục lần thì xung đột với chúng chỉ là sự
bất đắc dĩ. Nếu mối thù ngày một thêm sâu, giặc mất thể diện lại
kéo binh sang nữa thì cuộc chiến tranh biết bao giờ mới dứt được. (Tâm
Trí). Sao bằng chấp thuận cuộc hòa hiếu để tạo phúc cho sinh linh hai nước.
(Tâm Từ Bi).
B.9 ‘Tha Vương Thông và đồng bọn về, hẳn chúng không
còn lòng nào trở sang nữa. Xem như bài biểu dấu trong thỏi sáp của y gửi
về Minh triều có câu: ‘ Xin thôi đừng vì miếng đất ‘hẻo lánh một
phương mà làm nhọc nhằn quân lính đi xa muôn dặm. Bấy giờ muốn đánh
lại phải huy động đại quân như buổi ra đi, đại tướng phải sáu bẩy
người vào hạng Trương Phụ. Nhưng dù lấy lại được thì sự giữ sau
này cũng vẫn khó lòng...’ (6) Bình Định Vương Lê Lợi gật đầu khen phải,
nói: ‘Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng bản
tâm người nhân không muốn có việc giết người bao giờ, huống hồ người
ta đã hàng mà giết thì không hay. Thỏa cái giận một lúc mà đeo cái tiếng
muôn đời giết kẻ đầu hàng, sao bằng cho muôn vạn người cùng sống để
tránh cuộc chiến tranh cho đời sau, lại còn được tiếng thơm lưu truyền
sử xanh mãi mãi.’ (6) (Tâm Từ Bi và Trí Tuệ)
C. Chiến Lược Tâm Công trong thế kỷ
20
C.1 Mahatma Gandhi đấu tranh bất bạo
động ở Ấn Độ
Mahatma Gandhi tên thật là Mohandas Karamchand Gandhi, sinh ngày 2
tháng 10, 1869 ở Porbandar, Ấn Độ, nhưng nhà thơ Tagore (giải thưởng Nobel
Văn Chương về Thi Ca năm 1913) đã dùng hai chữ Maha (nghĩa là lớn) và Atma
(tâm hồn) và nối nhau thành Mahatma (Great Saint, bậc Thánh) như một danh hiệu
để vinh danh Người. (8)
Tháng Giêng năm 1915, sau khi cuộc đấu tranh thành công về
quyền làm người cho những người dân da đen và các chủng tộc khác kể
cả người di dân Ấn Độ ở vùng Transvaal, Nam Phi Châu bị người da trắng
kỳ thị và đàn áp, Mahatma Gandhi đã được đảng Quốc Đại Ấn Độ
(Indian National Congress) mời trở về Ấn Độ để tham gia vào công cuộc đấu
tranh giành độc lập. (8)
Trong cùng thời điểm với cuộc khởi nghĩa ngày 10 tháng
2,1930 của Việt Nam Quốc Dân Đảng mà sau đó thất bại và bị bắt, đảng
trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí đã hiên ngang hô to câu "Việt
Nam vạn tuế" khi lên đoạn đầu đài ở Yên Báy vào ngày 17 tháng
6,1930 và hàng ngàn đảng viên bị đày đi Côn Đảo,Sơn La và Lao Bảo. (6)
Tháng 3 năm 1930,Mahatma Gandhi đã khởi sự cuộc đấu tranh
áp dụng tinh thần BẤT BẠO ĐÔNG (AHIMSA, non-violence) và Người cũng đã xử
dụng CHIẾN LƯợC TÂM CÔNG:
- ngày 12 tháng 3, 1930 Mahatma Gandhi cùng 78 nam thành viên
trong ngôi làng (ashram), mà tên tuổi được công bố trên báo Young India, bắt
đầu cuộc đi bộ 241 dặm (miles = 386 cây số) trong 24 ngày để đi xuống
bờ Ấn Độ Dương và đến bờ biển ở vùng Dandi ngày 5 tháng 4 để làm
muối cùng với các nhà lãnh đạo của đảng Quốc Đại Ấn và mấy ngàn
người dân Ấn Độ từ hơn ba trăm ngôi làng mà phái đoàn Người đã đi
qua, năm đó Người 61 tuổi;
những hạt muối Ấn Độ Dương đã là điểm tựa cho đòn
bẩy là dân tộc Ấn Độ trang bị bằng CHIẾN LƯợC TÂM CÔNG và tinh thần
BẤT BẠO ĐÔNG để đánh bật tảng đá là chế độ đô hộ và thuộc địa
của Anh Quốc; Cuộc đấu tranh đã xử dụng ưu điểm của dân tộc Ấn
Độ là SỨC MẠNH TÂM LINH (mà tiếng Ấn Độ là SATYAGRAHA, SATYA (gốc là
chữ SAT) có nghĩa là sự thật, lẽ phải, GRAHA có nghĩa là quyết tâm;
chuyển sang tiếng Anh là SOUL FORCE, SỨC MẠNH TÂM LINH).
Cuộc tranh đấu đã áp dụng chiến lược Dân Chúng không
khuất phục, Dân Chúng Bất Cộng Tác (civil disobedience, civil non-cooperation)
bằng những cuộc đình công, bãi thị toàn diện (general strike) để làm
tê liệt guồng máy cai trị của chế độ đô hộ của người Anh. Chiến
lược Dân Chúng Bất Cộng Tác áp dụng song song với sức mạnh của Bất
Bạo Động, lẽ phải và sự thật khiến cho dân tộc Ấn Độ không còn
mang mặc cảm bị đô hộ, bị đàn áp và đã hiên ngang đứng lên đòi độc
lập và tự do;
Gandhi đã muốn có một nước Ấn Độ mới ngay vào thời
điểm lúc đó, chứ không phải chỉ một nước Ấn Độ tự do trong
tương lai. Người tin rằng tự do thật sự cho Ấn Độ phải chính là những
người dân Ấn Độ với tinh thần hoàn toàn mới và tự do.
Người đồng ý với nhà thơ Tagore là gông cùm đeo nặng lên
dân tộc Ấn Độ là do chính tự mình làm ra. Tagore viết: ‘Người tù hỡi,
ai là người đã đem đến xích xiềng không thể phá vỡ này? Chính tôi,
người tù nói, đã trui rèn (tôi luyện) xiềng xích này rất kỹ lưỡng.’
(Prisoner, tell me who was it that brought this unbreakable chain? It was I, said the
prisoner, who forged this chain very carefully.) (8)
Ngày 15 tháng 8,1947, dân tộc Ấn Độ đã thành công trong
việc giải phóng đất nước ra khỏi ách đô hộ của người Anh và đạt
được nền độc lập, tự chủ mặc dù Ấn Độ bị chia cắt ra thành hai
quốc gia: Ấn Độ và Pakistan.
Gandhi chủ trương hoà giải với Pakistan theo Hồi Giáo và
Người đã bị bắn chết ngày 30 tháng 1, 1948 bởi những thành phần quá
khích.
C. 2 Bà Aung San Suu Kyi đấu tranh
cho tự do và dân chủ ở Miến Điện
Năm 1989, chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện, Hội
Đồng Phục hồi Luật Pháp và và Trật Tự Quốc Gia (State Law and Order
Restoration Council, SLORC), củng cố quyền lực bằng việc bắt giam Bà Aung
San Suu Kyi, ái nữ của Aung San vị anh hùng quốc gia của Miến Điện, và
lúc đó Bà là Tổng Thư Ký của Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ (National League
for Democracy, NLD). Bà đã bị quản thúc tại gia từ tháng 7,1989 và không
được vận động tranh cử trong cuộc bầu cử năm 1990. (11)
Mặc dù bị ngăn cản không được vận động tranh cử
nhưng Bà Aung San Suu Kyi đã áp dụng CHIẾN LƯợC TÂM CÔNG và được sự hậu
thuẫn mạnh mẽ của dân chúng Miến Điện và nhiều chính phủ trên thế
giới. NLD đã toàn thắng trong cuộc bầu cử ngày 27 tháng 5,1990. Sau đó chế
độ độc tài quân phiệt (SLORC) hứa hẹn mơ hồ là sẽ trao quyền sau khi
hiến pháp mới được soạn thảo. (11)
Sau cuộc bầu cử , SLORC bắt giam phần lớn các lãnh tụ
đối lập và Bà Aung San Suu Kyi tiếp tục bị quản thúc tại nhà.
Tháng 7,1991, chính phủ Úc, Gia Nã Đại và Cộng Đồng Âu
Châu đã ủng hộ lời kêu gọi của Hoa Kỳ đến sáu quốc gia thành viên
của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á Châu (ASEAN), khối giao thương chính
của Miến Điện, phải làm áp lực với SLORC để chấm dứt nạn cai trị
độc tài. Trong cùng tháng 7,1991 SLORC ban hành đạo luật tước bỏ chức vụ
dân biểu trong quốc hội của các thành viên đối lập và không cho họ
được ứng cử.
Tháng 10,1991 Bà Aung San Suu Kyi, lúc đó đã bị quản thúc tại
nhà hơn hai năm, được trao giải Nobel Hòa Bình. SLORC từ chối không cho
Bà đi Na Uy để nhận giải, và đã bắt giam nhiều người ủng hộ Bà ở
Rangoon khi con trai Bà là Alexander Aris đã đại diện Bà để nhận giải
Nobel Hòa Bình. (12)
Khác với Thánh Gandhi và Đức Dalai Lama đã và đang phải
đấu tranh với hai chế độ ngoại xâm, khác chủng tộc và khác văn hóa
là chế độ thuộc địa của Anh Quốc và Trung Quốc, Bà Aung San Suu Kyi đã
và đang phải đấu tranh với chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện cùng
chủng tộc, ngôn ngữ, và văn hóa.
C.3 Đức Dalai Lama đấu tranh ở hải
ngoại để giải phóng dân tộc Tây Tạng ra khỏi ách thống trị của
Trung Quốc
Đức Dalai Lama, His Holiness Tenzin Gyatso, sinh năm 1935, và lúc
hai tuổi đã được xác nhận là Đức Dalai Lama tái sinh, Người đã phải
thương thảo với Mao Trạch Đông năm Người mới 19 tuổi đời về tương
lai của đất nước Tây Tạng, sau khi Trung Quốc đã xâm lăng và chiếm đóng
Tây Tạng từ năm 1950 cho đến ngày nay. (9)
Năm 1959, sau khi những cuộc đàm phán thất bại, Trung Quốc
đàn áp đẫm máu những cuộc nổi dậy của dân tộc Tây Tạng mà hàng chục
ngàn người đã hy sinh, Đức Dalai Lama đã phải rời bỏ Tây Tạng và sang
sống lưu vong ở Dharamsala, Ấn Độ vì Người sợ rằng dân Tây Tạng sẽ
phải bạo động trong tuyệt vọng nếu Trung Quốc bắt và giam giữ Người.
(9)
Đức Dalai Lama, vị lãnh đạo tinh thần của hơn 6 triệu
người Tây Tạng, nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1989 cho những nỗ lực
tranh đấu không ngừng cho quyền làm người trên toàn thế giới, và nhất
là cho nền tự chủ của dân tộc Tây Tạng thoát ra khỏi ách thống trị
của Trung Quốc.
Đức Dalai Lama luôn luôn chủ trương áp dụng tinh thần Bất
Bạo Động (non-violence) trong công cuộc đấu tranh cho nền tự chủ
(self-rule) để quốc gia Tây Tạng và nền văn hóa truyền thống Phật Giáo
khỏi bị diệt vong. (9) Người cho rằng sức mạnh của dân tộc Tây Tạng
là Lẽ Phải, là Sự Thật (truth) trong tinh thần Bất Bạo Động. (10)