-
- Kẻ Thù Ta
Tôi còn nhớ là trong thời gian vận động
hòa bình (khoảng 1963-1973), tôi cứ bị buộc tội là kêu gọi hòa bình
chung chung, không biết phân biệt bạn thù. Hồi đó tôi và các bạn tranh
đấu cho hòa bình trên căn bản nhận thức kẻ thù ta không phải là người
mà là cuồng tín, hận thù, tham vọng và bạo động (1). Lập trường hòa
bình ấy bị cả hai phía lâm chiến lên án. Cái tội lớn nhất của chúng
tôi là đã xem con người của cả hai bên là anh em, dù họ thuộc phía cộng
sản hay thuộc phía chống cộng. Tập thơ Chắp Tay Nguyện Cầu Cho Bồ Câu
Trắng Hiện in chui ở Saigon năm 1964 bị cả hai phía lâm chiến chống đối,
một bên tịch thu và một bên lên án trên đài phát thanh .
Mặt trời xanh
Lập trường ngày xưa, bây giờ tôi vẫn
còn giữ nhưng nay tôi lại đã đi xa hơn. Ngày xưa tôi nói Kẻ thù ta là
tham vọng, hận thù, kỳ thị và bạo độngnhưng trong mấy chục năm sau nầy,
tôi cũng không muốn gọi những tâm hành tiêu cực kia là kẻ thù cần phải
tiêu diệt nữa mà lại thấy rằng chúng có thể được chuyển hóa thành
những tâm hành tích cực như thương yêu và hiểu biết, cũng nhưngười làm
vườn có thể biến rác thành phân xanh, và dùng phân xanh nầy làm ra trở
lại hoa lá và rau trái. Gần ba mươi năm nay tôi thực tập và giảng dạy
đạo Bụt tại Tây Phương trên cơ sở nhận thức ấy, gọi là tuệ giác tương
tức , được diễn bày trong kinh Hoa Nghiêm . Danh từ tương
tức được dịch ra tiếng Anh là Interbeing, tiếng Pháp
là Interêtre , và tiếng Đức là Intersein. Các bạn Tây Phương
học hỏi và hành trì theo tuệ giác này đã được chuyển hóa rất nhiều
và đã đạt được rất nhiều hạnh phúc.
Muốn có được tuệ giác tương
tức chỉ cần nhìn vào rổ rau tươi xanh rờn mà ta vừa hái
vào. Nhìn cho sâu, ta sẽ thấy trong rau có mặt trời, có đám mây, có phân
rác, có người làm vườn và hàng vạn yếu tố khác. Rau không thể một
mình có mặt, rau phải cùng có mặt với mặt trời, đám mây, đại địa,
v ..v ... Lấy mặt trời ra khỏi rổ rau thì rổ rau biến mất. Lấy đám
mây ra thì cũng vậy. Ta lấy một ví dụ khác. Hãy thử nhìn vào tổ chức
Phật Giáo hợp pháp duy nhất tại quê hương mà người ta thường gọi bông
đùa là Giáo Hội Nhà Nước. Nhìn vào nó thì ta thấy những yếu tố đã
tạo ra nó, tích cực và tiêu cực. Trong số những yếu tố ấy, ta thấy sự
có mặt của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mà đại diện phía
chiều nổi là các vị như Huyền Quang, Quảng Độ, Đức Nhuận, Tuệ Sỹ,
Không Tánh, v.v... Vì các vị này đã tranh đấu ráo riết cho nên các thầy
khác trong Giáo Hội Nhà Nước như Thiện Siêu, Minh Châu, Trí Tịnh, Trí Quảng...
mới được phép nhà nước cho dịch sách, in kinh, tổ chức trường Cơ Bản
Phật Học v.v... Các thầy bên phía Giáo Hội Thống Nhất càng tranh đấu,
càng vào tù ra khám chừng nào thì các thầy bên phía Giáo Hội Nhà Nước
càng có thêm không gian để làm việc chừng ấy. Vậy là các thầy bên
Giáo Hội Thống Nhất là những vị đã và đang yểm trợ Giáo Hội Nhà Nước
một cách tích cực nhất. Nói họ chống Giáo Hội Nhà Nước là chưa thấy
được sự thực sâu sắc về bên trong và chưa có được tuệ giác tương
tức . Các thầy Huyền Quang, Quảng Độ, Đức Nhuận nhìn vào
các Học Viện Phật Giáo, Viện Nghiên Cứu Phật Học, công trình dịch thuật
Đại Tạng Kinh Việt Nam v.v... có thể mỉm cười và nói: Quý vị đừng
tưởng đó là công trình riêng của quý vị. Chúng tôi đã góp sức với
quý vị làm ra những thứ ấy. Chúng ta đã làm chung với nhau. Các thầy như
Thiện Siêu, Minh Châu nhìn vào các hoạt động tranh đấu của các thầy
Giáo Hội Thống Nhất cũng có thể mỉm cười biết ơn và nói: Nhờ quý vị
tranh đấu như thế cho nên Nhà Nước mới nới tay cho phép chúng tôi làm
được một ít Phật sự. Chúng tôi sẽ không còn ngây thơ mà nói: Quý vị
chống đối mà có làm được gì đâu trong mấy chục năm nay? Chính chúng
tôi, những người không chống đối mới làm được từng ấy việc đấy
chứ! Với tuệ giác tương tức , các thầy của hai Giáo Hội có thể
nhìn nhau bằng con mắt hiểu biết và thương yêu, không ai còn buộc tội
trách móc ai, vì ai cũng có thể thấy rằng người của cả hai phía đều
là những vị bồ tát thị hiện, ai cũng làm việc cho lý tưởng và dân tộc
cả, và cả hai bên đều có hạnh phúc, vì trong lòng của cả hai bên
không còn có sự hiềm khích và kỳ thị. Nếu còn trách nhau và giận nhau
thì mình còn là nạn nhân của những kẻ bên ngoài muốn chia để trị. Mình
có tuệ giác tương tức thì kẻ kia sẽ không chia rẽ được mình, tạo ra
tình trạng gà một nhà bôi mặt đá nhau, một bên bôi màu Thống Nhất, một
bên bôi màu Nhà Nước. Bôi mặt đá nhau là không thông minh, là không có
tuệ giác tương tức. Từ ba chục năm nay, tôi không bao giờ không nhìn tất
cả các thầy là anh em của tôi, dù họ ở trong Giáo Hội Nhà Nước hay
trong Giáo Hội Thống Nhất.
Giáo Hội chẳng qua chỉ là một hình
thái tổ chức. Chúng ta là tăng đoàn của Bụt, có từ gần 2600 năm nay,
chúng ta không nhất thiết cần phải có một hình thái tổ chức Giáo Hội,
hợp pháp hay không hợp pháp, mới có thể tồn tại. Tôi không muốn giam
tôi vào hình thức của một Giáo Hội, của bất cứ Giáo Hội nào. Tôi
có thể ôm được vừa thầy Quảng Độ vừa thầy Thiện Siêu mà không thấy
cấn cái chút nào. Và vì ôm được cả hai cho nên tôi có thể có cơ hội
chia sẻ tuệ giác và kinh nghiệm của tôi cho cả hai vị, để chúng tôi biết
nên làm gì và không nên làm gì để cho thế hệ con em chúng tôi có thêm
niềm tin và hạnh phúc.
Vua nước Sở mất cung
Ba chục năm nay, có một số người
trong nước cũng nhưngoài nước cứ trách cứ tôi là quá thân với người
Cơ Đốc và người Cộng Sản. Họ chỉ muốn tôi thân với người Phật Tử
và người Chống Cộng mà thôi. Tôi đã cố gắng nhắc cho họ nhớ là
tôi chỉ có thể hành động trên cơ bản nhận thứcKẻ thù ta không phải
là con người- tôi muốn tất cả đều có cơ hội được sống và có quyền
sống hạnh phúc - nhưng không phải ai cũng đã chấp nhận được dễ dàng
điều đó cho tôi.
Phép thực tập của tôi là ôm lấy
được cả những người Cộng Sản và những người Công Giáo, vì tôi
không thể chỉ ôm người Phật tử và người Chống Cộng. Không phải chỉ
trong giới Công giáo và giới Cộng Sản mới có những người có thái độ
hẹp hòi, cuồng tín và cố chấp. Trong giới Phật tử, tôi cũng thấy nhiều
người hẹp hòi, cuồng tín và cố chấp, gây khổ đau cho bản thân, cho
gia đình và cho kẻ khác không ít. Có những người xưng là Phật tử, kể
cả giới xuất gia, mà tham nhũng, tàn ác và cố chấp đến mức con cái hoặc
đệ tử họ cũng không chịu đựng được họ nữa là kẻ khác. Họ phá
giới, phạm trai, vọng ngữ, tà dâm, sát sinh v .. v ...gây tổn thương cho bản
thân và cho xã hội không ít. Có những người Tin Lành, có những người Công
giáo, có những người Cộng Sản tốt hơn họ nhiều, lành hơn họ nhiều
và gần với đạo Bụt hơn họ nhiều. Vậy cho nên thực tập theo tinh thần
đạo Bụt, tôi muốn ôm lấy và thương yêu tất cả mọi người, không chừa
ai, kể cả những người đã làm cho tôi đau khổ và dân tộc tôi đau khổ.
Ôm lấy người ta không có nghĩa là chấp nhận luôn cả cái thái độ hẹp
hòi, cố chấp và cuồng tín của người ta. Thiếu bao dung, thiếu từ bi,
thiếu sự quán chiếu, con người dễ trở thành hẹp hòi, cố chấp và cuồng
tín. Bổn phận của người hành đạo là giúp con người tháo bỏ thái độ
hẹp hòi, cố chấp và cuồng tín đó, giúp họ trở thành hiểu biết, bao
dung và từ bi, chứ không phải là lấy súng bắn vào họ, tiêu diệt họ.
Trong đạo Bụt tôi được dạy phải thương theo nguyên tắc Từ, Bi, Hỷ
và Xả. Xả có nghĩa là không kỳ thị (non-discrimination). Tình thương
chân thật là tình thương bao dung, ôm lấy được tất cả mọi người và
mọi loài đang đau khổ. Hễ thấy người ta khổ thì mình thương, mình
không kỳ thị rằng đó không phải là người Phật tử, đó là người chống
Phật giáo, đó là người Cộng Sản, đó là người Công giáo. Thực tập
theo tinh thần đó, tôi đã từng viết những lời đối thoại với người
Công Giáo và người Cộng Sản bằng ngôn từ của Hỷ, Xả và Từ Bi. Tôi
không bao giờ sử dụng ngôn ngữ trách phạt, lên án và chửi mắng. Những
cuốn sách có mục đích đối thoại với những người Cơ Đốc Giáo như Living
Buddha, Living Christ hay Going Home, Buddha and Jesus as brothers , mà
tôi viết, đã sử dụng ngôn ngữ ấy mà đạo Bụt gọi là ái ngữ và đã
giúp cho hằng trăm ngàn người Cơ Đốc hiểu được Đạo Bụt, thấy được
chân tinh thần của Giáo lý Ky Tô và buông bỏ được thái độ hẹp hòi
và cố chấp. Người Công Giáo, trong đó kể cả các linh mục và nữ tu
Công giáo, viết thư và cám ơn tôi nhiều lắm. Với giới Công Giáo Việt
Nam tôi cũng đã dùng ngôn ngữ ấy. Trong sách Hoa Sen Trong Biển Lửa (1966)
tôi nói rất rõ ràng là nếu các bạn Công Giáo Việt Nam đi theo đường
hướng Công Giáo dân tộc và nguyện sống hài hòa với các thành phần
khác của dân tộc thì không có lý do gì mà đất nước lại không dang rộng
hai tay ra để đón quý vị vào lòng dân tộc. Với những người Cộng Sản
Việt Nam tôi cũng đã dùng ngôn ngữ ấy, nhất là trong sách Đối Thoại Cánh
Cửa Hòa Bình (1967). Hồi đó ít người Cộng Sản chịu lắng nghe tôi, nhưng
bây giờ tôi nghĩ là đã có rất nhiều người Cộng Sản đọc sách tôi
và lắng nghe tôi. Tôi biết có rất nhiều vị cán bộ và công an đã có cơ
duyên đọc sách và nghe băng giảng của tôi và đã chuyển hóa được nhiều
nỗi khổ niềm đau trong lòng. Có khi tôi thấy được tâm tư của người
cán bộ và công an, nhất là những công an văn hóa và công an tôn giáo.
Chính sách từ trên đưa xuống là không cho phổ biến sách và băng giảng
của thầy Nhất Hạnh, và vì vậy cho nên hễ sách và băng giảng của tôi
về đến Sài Gòn hay Hà Nội là bị tịch thu. Gửi về qua ngã bưu điện
cũng bị tịch thu . Tôi bảo các bạn bên này: Đừng buồn, vì người tịch
thu sách và băng giảng cũng sẽ có cơ hội đọc sách và nghe băng. Đó là
suy nghĩ theo tinh thần vua nước Sở mất cung thì người nước Sở được
cung, không mất đi đâu hết. Lâu lâu, công an đi ruồng và tịch thu sách
và băng giảng của tôi, được in chui và sang chui ở khắp nơi trong nước.
Sự thực là đã có những vị công an sau khi tịch thu băng sách hay kiểm
duyệt băng sách (mà không trả lại cho người đáng lý là có quyền nhận)
đã ngồi đọc và nghe suốt đêm, thấy những bài giảng này rất có lợi
lạc, có thể chuyển hóa rất nhiều những nỗi khổ niềm đau trong họ.
Tuy nhiên, sau khi kiểm duyệt sách và băng giảng, các vị vẫn không đem trả
lại cho người có quyền nhận. Có khi họ cũng đem trả băng, nhưng trước
khi trả, họ đã xóa hết hình ảnh và âm thanh trong băng. Họ đã có sang
lại những băng nầy rồi, một bản gởi cho bộ Nội Vụ, một bản giữ
lại để thỉnh thoảng được nghe. Tôi hiểu và thương họ. Vì họ sợ cấp
trên khiển trách, và sợ mất việc. Có những vị công an sau khi đọc sách
và nghe băng, được hỏi: Tại sao những sách và băng này không được
lưu hành? Quý vị thấy trong sách và trong băng có tư tưởng nào hại nước
hại dân hay chống chính quyền không?Họ đã trả lời:Tất cả những gì
thầy Nhất Hạnh giảng trong sách trong băng đều rất hay, mầu nhiệm, hợp
với đạo lý, rất có lợi cho thế đạo và nhân tâm. Sở dĩ chúng tôi
không cho sách và băng này lưu hành là tại chúng tôi không biết đằng sau
sự giảng dạy và hành đạo này của Thầy có còn được che dấu một
âm mưu chánh trị gì khác hay không mà thôi. Quý vị ấy đã nói lên được
sự thật trong tâm: sự có mặt của sợ hãi và nghi kỵ . Sự sợ
hãi và nghi kỵ này không phải chỉ là của họ, mà là của cấp trên họ.
Những vị cán bộ và công an này, tuy nhiên thỉnh thoảng cũng biểu lộ
được tuệ giác và từ bi của mình: họ làm lơ cho sự phát hành chui của
một số sách và một số băng giảng. Họ làm như thế vì họ biết những
sách và băng đó có tác dụng tốt cho người dân vào thời điểm này của
sự sống đất nước và dân tộc. Họ dư biết rằng tệ nạn xã hội hiện
thời đang đầy dẫy: tham nhũng, ma túy, đĩ điếm, hận thù, con từ cha, lứa
đôi tan vỡ, ly dị, gia đình nứt rạn, phim ảnh và sách báo khiêu dâm
tràn ngập. Trong lúc các nhà chánh trị và giáo dục gần như bó tay không
làm được gì để quét dọn những núi rác khổng lồ đó, thì những băng
giảng, những cuốn sách của thầy Nhất Hạnh khuyên người tu tỉnh, hòa
giải, trở về nếp sống thuần lương lại bị cấm cản và tịch thu.
Quý vị bắt buộc phải cấm cản và tịch thu, nhưng trong thâm tâm quý vị
có sự dằng co. Quý vị không thấy an ổn chút nào với chánh sách đó, cũng
vì vậy cho nên có khi quý vị đã làm lơ cho việc in chui và sang chui những
sản phẩm văn hóa và đạo đức nọ. Các thầy, các sư cô và các Phật tử
mỗi khi đi cứu trợ nạn nhân bão lụt hay nghèo đói thường xếp vào
các gói quà một bài tụng hay một cuốn kinh mỏng, nghĩ rằng quà tặng
có thể làm vơi bớt sự nghèo khó một vài tuần, nhưng bài kinh có thể
làm cho nhẹ bớt sự buồn đau lâu dài hơn. Có những vị công an hẹp
hòi, kỳ thị, nhất định không cho phép, nói đó là truyền đơn. Nhưng có
những vị công an thì lại hoan hỷ, làm ngơ và cũng có người còn thích
thú. Thiện căn ở tại lòng ta, nếu ta được chấp nhận và đối xử một
cách thân thiện thì hạt giống từ bi và bao dung trong ta được tưới tẩm.
Còn nếu ta cứ bị khinh ghét và chống báng thì ta không có được cơ hội
ấy. Cho nên dù các vị công an văn hóa và tôn giáo có khắt khe khó chịu
đến mức nào thì các thầy, các sư cô và các đạo hữu biết đạo cũng
vẫn ngọt ngào và kiên nhẫn với họ. Một ngày kia , với cách đối xử
ấy, họ cũng sẽ có cơ hội chuyển hóa. Có một vị công an ở Huế nói:
Thầy Nhất Hạnh ở xa, tôi không làm gì được ông ấy. Nhưng anh ở đây,
nghĩa là ở trong tay tôi. Tôi có thể bóp nát anh bất cứ lúc nào. Tôi
nghe như vậy mà thương người công an quá. Người ta chỉ muốn đi làm
công việc xã hội để giúp đồng bào người ta thôi, tại sao mình phải
bóp nát người ta?
Đổi mới thật sự
Con em của ta, dù là con cháu của người
Phật tử, con cháu của người Ky Tô, con cháu của người Cộng Sản hay
con cháu của người chống Cộng cũng thế, đều là những người con của
đất nước, đều là con em của ta cả. Hễ người nào đau khổ và cần tới
sự giúp đỡ là ta phải giúp. Có như vậy ta mới thực sự biết thương
theo tinh thần Bụt dạy.
Trong chúng ta ai cũng từng có khi lầm
lỡ - người Phật tử, người Công giáo, người Cộng Sản, Đảng và Nhà
Nước cũng thế. Vì quá tin ở nhận thức mình, vì cuồng tín và cố chấp,
ta đã có thể gây ra những vết thương đau nhức trên thân hình dân tộc,
nhưng nếu ta biết thức tỉnh, biết thật sự đổi mới (2) thì ta có thể
học được bài học thương đau của quá khứ. Có những người công an
và cán bộ đã từng làm ta điêu đứng, nhưng với tình thương của Bụt,
ta vẫn muốn cho họ có một cơ hội để đổi mới, để chuyển rác
thành hoa, để chế tác hiểu biết và thương yêu cho đời họ bớt khổ và
cho ta có nhiều không gian hơn mà sống. Quá tin vào chủ nghĩa và nhân danh,
ta có thể đã gây ra thảm trạng cho dân tộc và đất nước: đã có hàng
triệu người chết oan. Ngày xưa (1964, khi xuất bản tập thơ Chắp Tay Nguyện
Cầu Cho Bồ Câu Trắng Hiện) tôi đã từng nói: Chủ nghĩa và nhân danh, những
sợi dây nghiệp báo ai đem về ràng buộc lấy thân hình dân tộc (3) Trần
Mạnh Hảo nói hay hơn tôi: Những con đường như những lằn roi lịch sử
quất lên mình đất nước( 4). Giác ngộ, thấy được những lầm lỡ, quyết
tâm đi theo con đường Từ Bi bao giờ cũng là điều đáng mừng.
Trong thời gian xa nước, tôi có cái hạnh
phúc là vẫn được tiếp tục viết sách cho đồng bào tôi đọc. Từ
1966, sách tôi tuy còn được xuất bản tại Miền Nam , nhưng sách phải
được ký bằng bút hiệu khác vì tôi có tội đã dám lên tiếng kêu gọi
hòa bình. Từ 1975 trở đi, sách tôi chỉ được chép tay , và sau đó in ấn
và phát hành chui. Chính tôi cũng không biết là ai đã tổ chức in và phát
hành như thế. Vì nhu yếu cần học, cần tu của đồng bào, nên có những
người, hoặc những nhóm người, liều lĩnh cho in và cho phát hành những
sách kia . Thêm vào đó lại có băng giảng audio (băng nghe) và sau đó lại
có băng giảng video (băng hình). Chính cựu Thủ Tướng Phạm Văn Đồng
cũng đã đọc mấy cuốn Phật Giáo Sử Luận của tôi và đã tỏ ý hâm mộ.
Trong Bộ Nội Vụ và Bộ Ngoại Giao cũng có nhiều người đọc sách của
tôi, nhất là trong bộ Nội Vụ. Các Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Tây Phương
cũng có đọc sách tôi. Tôi biết chắc có rất nhiều người Cộng Sản đọc
sách của tôi và rất thích. Có những ông tướng và những đảng viên lớn
tuổi đọc những sách như Đường Xưa Mây Trắng, Về Việt Nam , Từng Bước
Chân Thảnh Thơi... thấy ưa thích quá chừng, giống như tìm lại được lý
tưởng trong sáng thời còn trai trẻ. Tôi có cảm tưởng là hầu hết những
người ngày xưa say mê chủ nghĩa Mác Xít mà bây giờ không còn niềm tin nơi
chủ nghĩa ấy nữa là những người có hạnh phúc nhiều nhất trong khi đọc
sách tôi. Biết bao nhiêu người đã theo Đạo hay theo Đảng với một trái
tim trinh nguyên và tất cả bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ mình. Nhưng
sau mấy mươi năm trời theo Đạo hoặc theo Đảng, họ đã thấy mình mất
mát quá nhiều, bởi vì họ đã quá đau khổ vì Đạo hay vì Đảng. Những
người ấy là những người dễ đến với pháp môn Từ , Bi, Hỷ và Xả của
đạo Bụt nhiều nhất. Họ cũng là những người tìm được hạnh phúc
nhiều nhất khi đọc sách và nghe băng. Họ rất im lặng, họ rất sung sướng
mỗi khi gặp được những vị chân tu, nhưng họ cũng rất buồn khi thấy
những người xuất gia hư hỏng, đang đi trên con đường danh lợi và hưởng
thụ, không biết là mình đang phản bội lại lý tưởng xuất gia của mình.
Trong số những người trẻ con cháu của giới chánh quyền và cán bộ, sống
trong nước, hay đã ra nước ngoài, có rất nhiều người cũng ham đọc sách
tôi. Cũng như ở tòa thánh Vatican , có nhiều vị Giám Mục đã đọc sách
tôi. Đồng ý hay không đồng ý với những điều tôi viết, điều đó
tôi không quan tâm mấy; tôi chỉ quan tâm đến chỗ các vị ấy có chịu
đọc hay không mà thôi . Có những vị bắt đầu đọc để khám xét và kiểm
duyệt, nhưng sau đó lại thích, vì trong khi đọc thấy có lợi lạc, thấy
khoẻ và nhẹ trong người ra.
Con đường thương yêu
Học và thực tập theo giáo nghĩa
tương tức , tôi không còn thấy ai là kẻ thù của tôi nữa, và tâm
tôi nhẹ thênh thang. Kể cả những người đã làm cho tôi điêu đứng, và
làm cho dân tộc tôi điêu đứng, tôi cũng không còn thấy thù ghét họ bởi
vì tôi đã biết nhìn họ bằng con mắt hiểu và thương. Bạn sẽ hỏi:
Như vậy là thầy sẽ để cho bọn cuồng bạo, cuồng tín, cướp bóc và
sát nhân ấy tự do tiếp tục gây đổ vỡ và tang thương mà không làm gì
để ngăn cản họ hay sao ? Không ! Chúng ta phải làm đủ mọi cách để
ngăn chận họ chứ, không thể để cho họ tiếp tục tàn sát, bóc lột,
đè nén và phá hoại, nhưng hành động của ta sẽ không bao giờ được thúc
đẩy bằng hận thù. Ta phải chận đứng họ lại, không thể để cho họ
làm mưa làm gió. Nếu cần ta có thể trói họ lại, nhốt họ vào tù , nhưng
hành động ấy phải được hướng dẫn bằng trái tim bồ tát và trong khi
hành động như thế ta vẫn duy
trì được niềm thương, mong muốn cho
họ có được cơ hội tự tỉnh và cải hóa. Hành động trên căn bản Từ,
Bi, Hỷ và Xả, ta tự nhiên chọn con đường bất bạo động, cố gắng bảo
vệ sinh mạng của mọi loài tới mức tối đa. Cố nhiên là không thể có
hành động bất bạo động tuyệt đối. Cũng như đĩa rau luộc của tôi
không thể là 100% chay tịnh, vì trong khi luộc rau, có rất nhiều vi khuẩn
đã chết trong rau. Nhưng hành động theo hướng bất bạo động, ta vẫn có
thể tiết kiệm xương máu, bảo vệ sinh mạng mọi loài tới mức tối
đa. Trong một cuộc tranh đấu chống ngoại xâm, các hoạt động trong những
lãnh vực thông tin, văn hóa, giáo dục để cố kết niềm tin, đoàn kết
toàn dân, thực thi chính sách bất hợp tác với kẻ xâm lược, v.v... tất
cả những hoạt động ấy có thể được hoàn toàn lãnh đạo trên tinh thần
cởi mở, khoan dung và bất bạo động. Nếu thành công ở các lãnh vực
ấy thì yếu tố quân sự chỉ cần đóng một vai trò nhỏ thôi. Dù phải
dùng tới quân lực, ta vẫn có thể đi theo tinh thần bất bạo động, tiết
kiệm xương máu tới mức tối đa, xương máu của ta cũng như xương máu của
những người đi xâm lược. Nhà quân sự cũng có thể tu tập theo hướng
từ bi như nhà đạo đức, nhà chính trị và nhà nhân bản. Chiến thắng lớn
lao của nhà Trần đối với cuộc xâm lược nhà Nguyên một phần lớn là
do công trình của đạo đức, chính trị và văn hóa đời Trần. Yếu tố
quân sự không phải là yếu tố duy nhất đưa tới sự thành công. Cuộc vận
động của Phật tử cho nhân quyền dưới thời Ông Ngô Đình Diệm cũng
thế, quân đội chỉ đóng vai trò kết thúc, một vai trò tuy cần thiết nhưng
rất nhỏ. Đất nước và dân tộc ta có vượt thoát được giai đoạn khó
khăn nầy để đi lên hay không, điều này là do chúng ta có biết tu tập
để phá bỏ kỳ thị và hận thù hay không. Kêu gọi đoàn kết mà vẫn tiếp
tục kỳ thị nhau, hận thù nhau và loại trừ nhau thì bao giờ có được
đoàn kết thực sự ? Nhìn cho kỹ để thấy được kẻ kia cũng là người
anh em của mình, đừng tìm cách loại bỏ người ấy ra khỏi sự sống hằng
ngày, đó là sự thực tập tu học của tất cả chúng ta, Phật tử hay
không phải Phật tử. Có những người dễ thương, có những người khó
thương và có những người rất rất khó thương. Nhưng đã là Phật tử,
chúng ta phải cố gắng để có thể thương được tất cả mọi người
theo nguyên tắc kẻ thù ta không phải là người. Kẻ thù ta không phải là
kẻ thù của ta (5). Ta không có kẻ thù. Nếu thấy được như thế, làm
được như thế thì khi nằm xuống, nhắm mắt, ta sẽ có thể mỉm cười
được.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/kethuta.htm