Khi công tử A-Nậu-Lầu-Đà thưa
với thân mẫu là cậu muốn xuất gia thì bà mẹ không ngạc nhiên nhưng rất lo
lắng và buồn khổ. Không ngạc nhiên vì bà biết lâu nay hai người con trai
của bà rất siêng năng tìm đến nơi Đức Phật thuyết pháp khi Ngài cùng tăng
đoàn dừng chân tại thị trấn nơi họ cư ngụ. Chính bản thân bà, khi đến nghe
Phật thuyết, bà cũng cảm thấy rung động vì những lời dạy từ bi, và dáng vẻ
uy nghiêm, thanh thoát toát ra từ Đức Phật.
Phật cùng tăng đoàn đã rời
vương quốc này, đi về hướng Câu-Tát-La mấy ngày nay rồi mà bà con tưởng
nhớ tới những lời Phật dạy. Nhưng bà chỉ có hai người con trai mà bà yêu
quý nhất trên đời, nếu con bà xuất gia theo Phật, bà sẽ nương tựa vào đâu?
Công tử A-Nậu-Lầu-Đà đã trấn an hiền mẫu là, nếu được theo Phật tu học cậu
sẽ trở thành một người giác ngộ, một người giải thoát khỏi mọi phiễn não
thế gian. Đó có phải là điều mà người mẹ nào cũng mong muốn cho con mình
đạt được hay không?
Tận đáy thâm tâm, người mẹ
cũng biết như thế, nhưng chưa thoát ra khỏi tình yêu vị kỷ. Bà vớt vát
bằng một điều kiện, là bà bằng lòng cho cậu xuất gia nếu cậu rủ được Tổng
trấn Bạt-Đề cùng đi. Khi ra điều kiện đó, bà có nhiều hy vọng giữ được con
vì Tổng trấn Bạt-Đề - bạn thân thiết của con bà - là người giầu sang,
quyền thế tột bực, làm sao có thể rũ bỏ tất cả để cùng con bà xuất gia
theo Phật? Ấy thế mà ba ngày sau công tử A-Nậu-Lầu-Đà về nhà, hớn hở nói
với mẹ rằng Tổng trấn Bạt-Đề chỉ cần bẩy ngày để thu xếp công việc rồi sẽ
cùng cậu xuất gia!
Trên đường tìm đến nơi Phật
đang thuyết giảng, họ rủ thêm được mấy người bạn nữa, cũng thuộc giòng dõi
quý tộc và cùng trang lứa thanh xuân. Chiếc xe tứ mã đưa nhóm người trẻ đi
cầu đạo, rộn rã tiếng cười vui hòa cùng nhịp vó loóc coóc như nhạc đệm của
bản trường ca ngân vang bất tận…..Khi qua khỏi khu rừng thưa, đến đầu một
thôn xóm, công tử Bạt-Đề dừng cương, nhìn một lượt khắp các bạn rồi bỗng
phá lên cười sặc sụa. A-Nậu-Lầu-Đà hỏi bạn:
- Có điều chi mà huynh dừng xe,
cười dữ vậy?
- Không buồn cười sao được,
này, chúng ta hãy đều tự nhìn lại mình xem, có ai đi xuất gia tu học mà ăn
mặc sang trọng như vậy không? Mũ áo xênh sang chưa đủ, còn vòng vàng châu
ngọc đeo đầy người thế kia! Chúng ta không định làm trò cười đấy chứ?
Bấy giờ, ai nấy đều xuống xe,
xăm soi, ngắm nghía mình và rồi tất cả cùng rũ ra cười. Quả đúng như công
tử Bạt-Đề nói, họ còn trẻ trung, năng động nên quá vô tâm, đi xuất gia mà
vẫn trang phục như đi du xuân ngắm cảnh. Thế là họ cùng đồng ý buộc giây
cương chiếc xe tứ mã vào cây sồi ven đường, cởi bỏ áo quần sang trọng, chỉ
mặc bộ đơn giản nhất, bao nhiêu bạc vàng châu báu cũng trút hết, cho vào
một túi vải, và cùng tiến về thôn làng trước mặt với ý định sẽ trao tặng
cho những người nghèo khổ trong làng. Nhưng ngay trên con đường đất đỏ dẫn
vào làng, họ thấy một quán lá xiêu vẹo. Đó là quán hớt tóc của một thanh
niên trạc tuổi họ, gương mặt sáng sủa khôi ngô nhưng áo quần thì rách rưới,
nghèo nàn.Họ ghé vào quán, hỏi đường tới biên giới vương quốc Câu-Tát-La.
Người đó biết ngay là họ muốn tìm tới nơi Đức Phật đang thuyết giảng vì
mấy ngày nay cũng có nhiều người đi tới đây, rồi không biết phải rẽ hướng
nào mới tới biên giới Câu-Tát-La. Sau khi được chỉ đường rất ân cần, cặn
kẽ, công tử A-Nậu-Lầu-Đà đại diện các bạn, tặng người hớt tóc nghèo khổ
gói châu báu và tất cả áo quần sang trọng cùng chiếc xe tứ mã, vì từ nay
họ không còn cần tới nữa.
Người hớt tóc đứng lặng, ôm
gói châu báu, nhìn theo những vị công tử khuất dần sau cánh rừng thưa. Mở
túi vải ra, người ấy rụng rời, sửng sốt. Chưa từng bao giờ trong đời,
người ấy được nhìn thấy những vòng xuyến lộng lẫy thế này, chứ đừng nói là
được chạm vào, được sờ vào !. Nay, không những được thấy, được cầm, mà tất
cả những trang sức đắt giá này đều thuộc về mình. Người đó cảm thấy sung
sướng đến muốn ngất đi. Thôi, từ nay hết nghèo, hết đói, hết bị xua đuổi
khinh khi. Người ấy ngồi bệt ngay trên nền đất, ôm chặt gói châu báu mà mơ
màng tận hưởng. Nhưng rồi người ấy chợt tỉnh, đứng bật dậy, hốt hoảng nhìn
quanh. May mà xung quanh vắng lặng, không một bóng người chứ nếu có ai
biết, ai thấy người ấy đang ôm gói châu báu trong tay thì chắc chắn mạng
này chẳng còn! Lại nữa, với bạc vàng của cải như vầy, làm sao người ấy có
thể an giấc trong đêm nơi chòi lá trống trải này? Biết cất giấu ở đâu? Nếu
muốn hưởng cũng làm sao để hưởng, khi từ xưa, người ấy đã thuộc ngoại cấp,
nghĩa là giai cấp nghèo hèn tận cùng trong xã hội? Quan quyền sẽ đến tra
vấn và dù có nói thật cũng không ai tin lời một người cùng đinh. Những dấu
hỏi kinh khủng này khiến người ấy run rẩy, mồ hôi toát ra như tắm vì sợ
hãi. Người ấy chợt nhận ra rằng, chỉ dăm phút trước đây thôi, tuy nghèo
khổ nhưng an vui thanh thản. Dăm phút sau, có cả một tài sản lớn lao trong
tay mà bất an, hốt hoảng, lo sợ tứ bề! Người ấy cũng lại nghĩ, những vị
công tử giòng dõi quyền quý kia, tài sản của họ hẳn có gấp trăm lần thế
này mà họ bỏ hết, đi tìm Phật, thì chắc là những gì Phật sẽ cho họ phải
lớn lao vô cùng so với tài sản kia. Còn ta, ta nghèo quá, chẳng có gì phải
bỏ, còn không theo bước họ, tính đợi đến bao giờ?
Nghĩ tới thế, tâm người ấy lập
tức trở lại trạng thái bình an, vui vẻ. Người ấy nhìn quanh rồi chọn một
nhánh liễu cao, buộc gói châu báu trên đó. Ai tìm thấy trước sẽ là sở hữu
chủ. Rồi chẳng buồn nhìn lại thôn xóm, người ấy ba chân bốn cẳng chạy về
hướng biên giới Câu-Tát-La, mong bắt kịp nhóm vương tử để được đi cùng.
Người ấy tên là Ưu-Ba-Ly, sau
này là một, trong những đệ tử xuất sắc được hầu cận bên Phật.
Nghe câu chuyện này, chúng ta
có dành ra đôi phút để tự hỏi: “Trói buộc từ đâu?” hay không?
(Như-Thị-Am, đêm trăng 16)
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/troibuoctudau.htm