- PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH
THIỂN THÍCH
- Hán dịch : Tam tạng
Pháp sư Cưu Ma La Thập
- Giảng giải : Tuyên Hóa Thượng
nhân
- Việt dịch : Thích Minh Cảnh
Phần III
Lại này Xá-lợi-phất ! Cõi nước
Cực Lạc có bảy lớp lan thuẫn, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng
cây đều bằng bốn thứ báu vây quanh giáp vòng, cho nên nước ấy tên là
Cực Lạc.
Sau khi đã nói tại sao cõi nước
kia tên là Cực Lạc rồi, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đợi chờ ngài Xá-lợi-phất
thưa hỏi vô lượng vô biên đạo lý trong đó, nhưng ngài Xá-lợi-phất
tuy rất thông minh lại vẫn không hiểu rõ. Bởi vì pháp môn Tịnh độ rất
vi diệu, là pháp môn không thể nghĩ bàn, cho nên ngài không biết thưa hỏi
ra sao. Lúc đó Đức Phật không còn chờ ngài nữa, lại nói tiếp :
"Này Xá-lợi-phất ! Ta lại nói cho ông biết một số việc : Cõi nước
Cực Lạc có bảy lớp lan thuẫn ...". Lan là những cây ngang, thuẫn là
những rào dọc; còn có bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, ba thứ
báu này đều là số bảy. Bảy lớp lan thuẫn đại biểu cho Giới, bảy lớp
lưới giăng đại biểu cho Định, bảy lớp hàng cây đại biểu cho Huệ.
Ba thứ này tức là Giới Định Huệ; ba thứ đều mang số bảy, cũng là
biểu thị cho bảy khoa. Bảy khoa là gì ? - Tức là 37 đạo phẩm : 4 niệm
xứ, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 Bồ-đề phần, 8 chánh đạo
phần, cộng thành 37 đạo phẩm. Vì sao đem "lan thuẫn" đại biểu
cho Giới ? - Giới là ngăn ác, ngừa quấy; tức là các điều ác không
làm, các điều lành vâng làm. Ngăn ngừa các điều ác, vâng làm các điều
lành, tức là Giới. Khi chưa thọ giới có thể khởi các thứ vọng tưởng,
nhưng thọ giới rồi thì không nên khởi bất cứ vọng tưởng nào, mà phải
nghĩ tưởng thanh tịnh. Vạn nhất có khởi ra vọng tưởng, phải tự rờ
đầu mình và nói : "Mình đã xuất gia, không phải là người tại gia
nữa, nhất định phải ba nghiệp thanh tịnh". Cũng giống như dùng lan
can để rào lại, cho nên dùng lan thuẫn đại biểu cho Giới. Nếu như nhảy
qua hàng rào tức là phạm pháp, vì thế gọi bảy lớp lan thuẫn là Giới.
Tại sao bảy lớp lưới giăng đại biểu cho Định ? - Định có nghĩa là
không ra không vào. Có câu nói như thế này : "Na-già thường ở định,
không lúc nào không định". Nếu thiệt có định lực thì không cần
phải ngồi nữa. Bất cứ cảnh giới nào có đến cũng không làm lay động
được. Vì bất cứ lúc nào tâm mình cũng không bị ngoại cảnh lay chuyển,
cho nên gọi là "thường ở trong định". Ví như có một món ăn
ngon, ăn rồi lại muốn ăn nữa, ấy là vì không có định lực, thậm chí,
đi lấy trộm để ăn, thì không những là không có định lực mà lại
còn phạm giới nữa. Anh ngàn muôn lần đừng cho đó là việc nhỏ, không
đáng gì. Người làm việc quấy tức là bắt đầu từ những việc nhỏ
đấy, cho nên việc quấy nhỏ đến đâu cũng không nên làm. Những bệnh lặt
vặt không dễ gì sửa đổi, nhưng sửa được những bệnh vặt tức là
có thể có định lực. Không có lúc nào mà không định, bất cứ cảnh giới
nào khi đã hiện tiền thì "Mắt thấy hình sắc trông không có, tai
nghe việc trần tâm chẳng hay".
Định tức là không bị cảnh giới
lay chuyển. Ví như một cô gái thấy trước mặt mình một chàng trai rất
anh tuấn mà không sanh tâm dâm dục, tức là có định lực. Một người
trai thấy một cô gái rất mỹ miều mà không sanh tâm dâm dục cũng là có
định lực. Thấy như không thấy, nghe như không nghe. "Mắt thấy hình
sắc trông không có, tai nghe việc trần tâm chẳng hay" tức là có Định
lực đấy, vì thế nói bảy lớp lưới giăng biểu thị cho Định. Bây giờ
chúng ta mới rõ biết ý nghĩa Kinh A Di Đà thêm nhiều rồi đấy !
Bảy lớp hàng cây. Cây đều rất
cao lớn, đại biểu cho trí huệ rất cao. Có trí huệ, tức là cao. Không
có trí huệ tức là thấp. Chẳng phải thân cao mà là trí huệ cao. Có trí
huệ tức là bảy lớp hàng cây, không có trí huệ chỉ như bảy lớp hàng
cỏ. Cỏ có thể làm ngăn bít tâm của anh, biến thành ngu si, giảng đi giảng
lại vẫn không hiểu được.
Đều là bốn thứ báu. Bốn
báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Cõi nước Cực Lạc chỉ có bốn thứ bảo
bối này sao ? - Bảo bối của cõi nước Cực Lạc thì vô lượng vô biên,
những thứ mà ở cõi nước chúng ta chưa được thấy, ở nước ấy cũng
có. Tại sao chỉ đơn cử bốn thứ bảo bối ấy ? Bốn thứ bảo bối này
ví dụ cho bốn thứ đức hạnh, tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
1. Thường : Sống lâu. A Di Đà
là Vô lượng thọ. Chúng ta sanh về thế giới Cực Lạc cũng sẽ được vô
lượng thọ. Ai muốn sống lâu thì nên cầu sanh về thế giới Cực Lạc.
Ở nơi đó mọi người đều được vô lượng thọ, nên gọi là Thường
đức.
2. Lạc : Chúng sanh ở thế giới
Cực Lạc không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui.
3. Ngã : Cõi nước kia có tám thứ
đại tự tại ngã, còn gọi là Ngã đức. Tại sao gọi là tám thứ øđại
tự tại ngã ? - Tức là tám thứ đại tự do, tám thứ tác dụng, tám thứ
lực lượng, tám thứ thần thông, tám thứ diệu dụng :
1/. Từ một thân hiện vô lượng
thân. Giả sử có trăm ngàn người thỉnh anh đến cúng dường, anh đều có
thể đồng thời phân thân đến mỗi nhà để ứng cúng. Một thân có thể
thọ vô lượng cúng.
2/. Từ một thân như vi trần hiện
khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Một vi trần hiện một cõi nước,
một cõi nước hiện một vi trần, có nghĩa là từ một cõi nước biến
thành ra một hạt vi trần nhỏ tí ti, một hạt vi trần nhỏ tí ti biến
thành một cõi nước thật to lớn.
3/. Thân lớn có thể nhẹ nhàng đi
thật xa. Nghĩa là thân to lớn bay đi đến chỗ thật xa.
4/. Có thể hiện ra vô lượng chủng
loại chúng sanh cùng ở một chỗ. Chúng ta thấy núi là núi, kỳ thật
trong núi có cung điện của chư Phật, Bồ-tát. Có một đồ đệ nói :
"Ở nơi chỗ kia có rất nhiều người đang tu hành". Vị đồ đệ
ấy có thể nhìn thấy mà quý vị lại không thấy. Kỳ thật, trong núi hay
trên biển đều có chư Phật, Bồ-tát đang thuyết pháp, nhưng quý vị
không biết đó thôi.
5/. Các căn dùng lẫn lộn : Con mắt
có thể nói chuyện, lỗ tai có thể nhìn thấy, lỗ mũi có thể ăn uống,
hoặc con mắt cũng có thể ăn uống được. Vì sao thế ? Vì sáu căn có thể
dùng lẫn lộn, mỗi căn đều đủ cả tác dụng của sáu thứ. Giống như
vị Thánh nhơn chứng quả, có thể dùng lỗ tai để nói chuyện với các Bồ-tát,
nhưng quý vị không thể thấy biết được. Nếu quý vị tin thì cũng có
thể có một ít lực dụng ấy; nhưng vì quý vị không tin nên không thể
có lực dụng ấy được. Quý vị đều không tin chuyện này thì làm sao
có thể có được công năng ấy ?
6/. Được tất cả pháp mà không
có tưởng là pháp. Không có tưởng đắc về pháp. Cũng như trong Tâm Kinh
nói : "Không trí cũng không đắc", có nghĩa là không có trí huệ cũng
không có sở đắc.
7/. Một bài kệ, thậm chí một chữ,
có thể nói đến vô lượng kiếp cũng chưa hết, vì được biện tài tự
tại vô ngại. Nói ngang cũng là pháp, nói dọc cũng là pháp, nói xuôi cũng
là pháp, nói ngược cũng là pháp; nói thế nào cũng là pháp cả. Vì được
tám thứ đại tự tại, muốn nói thế nào cũng đều được hoan nghinh. Giả
sử mắng người, người ta cũng thích nghe. Vì người ấy tự tại, người
khác nghe nói cũng được tự tại.
8/. Thân khắp cõi nước nhiều như
vi trần. Thân khắp cả cõi nước nhiều như vi trần, cũng như hư không.
Dù không có thân thể nhưng lại khắp cả các cõi nước, cũng là lý do nhơn
tự tại mà có. Phía sau kinh này cũng có nói : "Thường đến buổi sáng,
mỗi người lấy túi vải đựng các thứ hoa vi diệu cúng dường mười vạn
ức Đức Phật ở phương khác, rồi đến giờ ăn trở về nước của mình
...". Tại sao vào buổi sáng có thể đến cúng dường mười vạn
ức Đức Phật ở phương khác ? - Chính nhơn vì được tám thứ đại tự
tại, cho nên thế giới Cực Lạc trang nghiêm bằng bốn thứ báu, tức biểu
thị cho bốn đức Niết-bàn.
4. Tịnh : Đây là một đức sau
cùng trong bốn đức Niết-bàn. Bốn báu vây quanh giáp vòng là bốn đức
Niết-bàn đầy đủ, viên dung vô ngại, cho nên gọi là Cực Lạc.
Lại này Xá-lợi~phất ! Cõi nước
Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó. Đáy ao
toàn trải cát bằng vàng. Thềm đường bốn phía do các thứ vàng, bạc, lưu
ly, pha lê hợp thành. Bên trên có lầu gác cũng dùng các thứ vàng, bạc, lưu
ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang sức.
Phần kinh văn trước khen ngợi lục
địa của thế giới Cực Lạc rất vi diệu thù thắng, ở đoạn này thì
khen ngợi cảnh giới ao nước của thế giới Cực Lạc vi diệu không thể
nghĩ bàn.
Sau khi nói : "Bảy lớp lan thuẫn,
bảy lớp lưới giăng và bảy lớp hàng cây ..." các thứ trang nghiêm rồi,
Đức Phật cốt ý chờ ngài Xá-lợi-phất hỏi tiếp về cảnh giới của
cõi nước Cực Lạc, nhưng ngài Đại trí Xá-lợi-phất cũng lại không biết
hỏi như thế nào. Đợi đến mấy phút sau Đức Phật Thích Ca thấy vị
đệ tử thông minh nhất này vẫn chưa tìm được vấn đề để hỏi, nên
Đức Phật phải tự nói : "Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc
có ao bảy báu ...".
Thế giới Ta-bà cũng có ao, nhưng
đều là ao bùn đất hoặc bằng gỗ ghép thành, chớ không có ai dùng
vàng, bạc, lưu ly ... làm nên cả. Dù cho giàu có như Onassis có thể
mua được cả hòn đảo đi nữa vẫn chưa có thể dùng bảy báu để làm
ao, vì thế rất khác xa với thế giới Cực Lạc.
Trong bảy báu, thứ nhất là vàng,
tiếng Phạn là Tô-phạt-thích.
Bạc, tiếng Phạn là A-lộ-ba.
Lưu ly là tiếng Phạn, dịch là
Thanh sắc bảo (báu màu xanh), cũng có tên Bất viễn, tức là nghĩa rất
gần, vì chỗ sản sinh ra nó rất gần với nước Ma-kiệt-đà..
Pha lê cũng gọi là Thủy ngọc (ngọc
trong xanh như nước).
Mã não cũng là tiếng Phạn, dịch
là Đại kiến, vì trên báu vật ấy có những đường nét giống như những
vết xe.
Xích châu tiếng Phạn là Y-chi-ha-mục-đa.
Mã não tiếng Phạn là A-thấp-ma-kiệt-bà.
Phật thấy Xá-lợi-phất không biết
thỉnh Phật dạy tiếp, nên Ngài lại nói tiếp : "Trong cõi nước Cực
Lạc có ao bảy báu. Ao này là thiên nhiên chớ không phải nhân tạo, cho
nên gọi là ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó".
Nước này có tám thứ công đức :
1. Ấm mát : Tức là nghĩa ấm
áp và mát mẻ. Nếu người xuống ao nước này rồi, muốn nóng thì nóng,
muốn mát thì mát. Đây là công đức không thể nghĩ bàn.
2. Sạch sẽ : Nước ở nhân
gian càng rửa càng hôi, nhưng người ấy đến ao bảy báu tắm rửa, không
những không thể làm nước hôi dơ mà chỉ có càng tắm rửa càng sạch sẽ
mềm mại; nước đó giống như sữa bò vậy, vừa trơn láng vừa thoải
mái. Đây cũng là một thứ xúc trần mà là xúc trần rất vi diệu, lại cũng
có thứ cảm giác càng vi diệu không thể so sánh được.
3. Ngon ngọt : Nước này không cần
uống, chỉ cần dùng để rửa trên thân, thân tâm cũng cảm thấy ngọt lịm.
Khi tôi đến thăm động Quan Âm ở Hương Cảng, trong động cũng có một
thứ nước ngọt. Một hôm có một cô đệ tử đi theo tôi, sau khi ăn bánh
mì, uống một ít nước suối ấy, cô ta rất ngạc nhiên, hỏi tôi :
"Có phải người ta bỏ đầy đường vào nước suối không ?" Tôi
nói : "Không có đâu !" Cô ta lại hỏi : "Sao nước lại ngọt
quá vậy ?" Tôi nói : "Đó là Quan Thế Âm Bồ-tát cho cô uống nước
cam lồ đấy". Nghe nói như thế cô ta rất thích thú. Cô thấy y hậu
tôi đang mặc cũ rách quá bèn may cúng tôi một lúc hai bộ mới. Tôi nghĩ
có lẽ do cô uống được nước cam lồ đây.
4. Mềm nhẹ : Nước này không nặng
mà rất nhẹ, mềm mại phi thường.
5. Nhuận trạch : Nhuận là nhuần
thấm, trạch là sáng ướt. Người dơ có thể rửa thành sạch sẽ, giả sử
anh là người đen cũng có thể rửa thành người trắng. Cho nên tắm rửa
sạch sẽ rồi trên thân phát sáng.
6. An hòa : Sau khi tắm nước này,
thân tâm đều an ổn hòa dịu, không có một chút nóng nảy, không có lửa
vô minh, cũng không phiền não. Do nhờ an hòa nên giả sử có ai mắng anh,
anh cũng không giận họ; có ai đánh anh, anh cũng cảm thấy bị người đánh
một cái có nhằm nhò gì đâu ! Đối xử với mọi người đều hòa thuận,
thật là tốt đẹp biết bao !
7. Trừ đói khát : Nếu người
tắm rửa ở nước tám công đức của ao bảy báu, không uống nước cũng
không thấy đói, lại không cần phải uống sữa hay ăn bánh mì, cho nên thế
giới Cực Lạc có cái kỳ diệu như thế !
8. Nuôi lớn các căn : Sau khi dùng
thứ nước tám công đức này rồi, các căn của người sẽ được thanh tịnh
: Người mù thấy được ánh sáng, kẻ điếc khôi phục lại tánh nghe; nếu
mũi không thông, không ngửi được hương vị, dùng nước này rửa vào
thì sẽ thông hơi biết mùi, bất cứ bệnh mũi nặng như thế nào cũng có
thể chữa lành. Cũng có thể làm cho ăn ngon miệng, tay chân có thể làm
được mọi việc mà không cảm thấy mệt mỏi. Chẳng những thế mà còn
có thể làm tăng trưởng thiện căn, tiêu trừ được ác nghiệp. Anh xem,
công đức ấy thật là rất lớn ! Chúng ta phải nên gấp rút tu hành mong
sớm được về tắm trong ao bảy báu của thế giới Cực Lạc để trưởng
dưỡng thiện căn.
Trên đây là đại ý của nước tám
công đức, nếu nói kỹ hơn thì mỗi thứ công đức nói đến mấy đại
kiếp cũng vẫn chưa hết.
Đầy tràn trong đó, nước tám
công đức có tám thứ công đức tự tại, tám thứ công đức khoái lạc
và tám thøứ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn. Thứ nước này tràn
đầy trong ao.
Đáy ao trải toàn cát bằng vàng, đáy
ao bảy báu thuần túy dùng cát bằng vàng trải lên. Tóm lại, phàm người
đến được ao bảy báu rồi thì bất cứ nghiệp chướng gì cũng có thể
tiêu trừ, cho nên phải mau tu về thế giới Cực Lạc để trừ nghiệp
chướng. Nghiệp chướng là gì ? Đó là những gì không vừa ý trong tâm
ta, hoặc tâm sanh phiền não, đều là nghiệp chướng cả. Không nghiệp chướng
thì không phiền não, vì nghiệp chướng làm tăng trưởng phiền não của
người.
Ở nhơn gian lấy dầu nhựa trải
đường, cho là rất tốt, nhưng trong thế giới Cực Lạc ở phương Tây lại
lấy vàng miếng lót đường, cho đến các thứ bạc, lưu ly, pha lê ... hỗn
hợp mà thành năm loại ánh sáng mười sắc, nên cả con đường đều phóng
ánh sáng. Lầu vàng điện ngọc trên bờ ao cũng trang sức bằng các thứ
vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Tại sao lại dùng các
thứ bảo bối này để trang sức ? Lại tại sao có được nhiều thứ bảo
bối như thế để trang nghiêm đạo tràng ? Đây là do vạn đức của Phật
A Di Đà thành tựu nên, tức là công đức của Ngài được đầy đủ nên
dùng bảy báu để trang nghiêm.
Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, màu
xanh có ánh sáng xanh, màu vàng có ánh sáng vàng, màu đỏ có ánh sáng đỏ,
màu trắng có ánh sáng trắng, rất thơm tho vi diệu.
Ao này lớn bằng cả trăm biển lớn,
trong đó hoa sen lớn như bánh xe, nhưng không phải là bánh xe của nhơn gian
mà là lớn như bánh xe của Chuyển Luân Thánh Vương. Bánh xe này lớn bằng
một do-tuần (do-tuần nhỏ là 40 dặm, do-tuần vừa là 60 dặm,
do-tuần lớn là 80 dặm). Hoa sen trong ao này phải lớn 80 dặm. Nếu hoa
sen không lớn thì làm sao hợp được với ao như biển lớn thế kia được
? Bây giờ tôi xin đọc một bài kệ khen Phật :
Đại thánh chúa Di Dà
Đoan nghiêm vi diệu khó ai qua
Ao báu nở sen hoa
Bốn màu ánh biếc sóng vàng xa.
Trên đời không có ai tướng mạo
đẹp đẽ đoan nghiêm vi diệu hơn Phật A Di Đà. Ao thất trân tức là ao bảy
báu, hoa trong ao có bốn màu, sóng rập rờn trong ao như màu của vàng. Chữ
"Vi" là nói nước ao mềm mại thơm sạch phi thường, thấy hình như
có nước mà lấy tay sờ vào thì hình như không có nước, rất vi tế,
nhưng tay lại dính nước, vì thế nên nói là "Vi". "Diệu"
là mầu nhiệm không thể nói được. Nước ấy không những vi diệu mà
còn có mùi thơm lan tỏa có thể khiến người ngửi thấy phát tâm Bồ-đề,
quyết chí tu hành. Còn chúng ta nghe đến hương vị thế gian liền đắm
trước ngay, bị nó lôi cuốn. Như người thích xức nước hoa, vì phần lớn
người ta đều đắm trước hương trần, đây tức là nhiễm ô. Đó là cảnh
giới ngũ trần : Sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nhưng nếu người đến thế
giới Cực Lạc thì chỉ có phát tâm Bồ-đề mà chẳng thể có tâm nhiễm
ô, vì thế tâm người tu hành cần phải phá cảnh ngũ trần. Thứ nhất là
chớ chấp trước nơi sắc tướng, vì người đẹp đẽ đến đâu đi nữa,
chẳng qua chỉ là một lớp da phủ bên ngoài. Bên trong nếu không là mủ
thì cũng là máu, cho nên không nên mê sắc tướng mỹ miều bên ngoài. Như
trong Kinh Lăng Nghiêm, Ma-đăng-già nữ rất yêu A Nan, không muốn rời xa
chút nào. Phật hỏi cô ta :
- Nàng yêu cái gì ở A Nan ?
Ma-đăng-già thưa :
- Tôi yêu đôi mắt của ông ấy.
Phật nói : Thế thì ta móc mắt
ông ấy cho nàng nhé !
- A, không được đâu ! Ma-đăng-già
nữ nói. Móc mắt ra thì còn dùng gì được ?
- Đã không dùng gì được thì
nàng còn yêu ông ấy làm chi ?
Phật nói cho nàng ta nghe xong, nàng
liền phá ngay được sắc chấp mà chứng được Tứ quả. Cho nên người
ta chớ chấp trước vào sắc tướng, nhưng mặt khác cũng không rời sắc
tướng mà tu hành. Đó là mượn giả để tu chơn.
Chúng ta cũng không nên để thanh trần
làm mê hoặc, không nên chấp trước âm thanh êm dịu mà đam mê. Vừa rồi
xướng bài kệ tụng tán Phật cho quý vị nghe, đó là chẳng phải xướng
ca mà là đang thuyết pháp.
Người ta cũng không nên chấp trước
vào hương trần. Khi tôi ở Hương Cảng, có rất nhiều người đến bên
tôi, nói thân tôi có mùi hương, tôi cảm thấy thật là chán. Sau đó tôi
thoa một ít mùi hôi lên người, ai cũng không còn đến nữa. Bọn họ đều
đắm trước hương trần ! Kỳ thật, tất cả đều duy tâm tạo cả ! Người
có định lực, thơm chẳng biết thơm, hôi chẳng biết hôi, đẹp chẳng biết
đẹp, xấu chẳng biết xấu, tiếng hay chẳng biết tiếng hay, cũng
không khởi tâm chấp trước phân biệt. Đây tức là công phu tu hành. Người
biết dùng công phu thì người ta có đối xử tốt cùng không, anh đều
coi như nhau, chẳng thể bị cảnh giới lục trần lay chuyển. Người có định
lực thì không theo ý nghĩa của đầu lưỡi, lại bỏ sự ngon dở của mùi
vị. Nói như vậy không phải bảo anh như khúc gỗ chẳng biết mùi vị
ngon dở là gì đâu, mà là bảo anh khi ăn vào món chi, không nên khởi tâm
phân biệt, ngon hay dở đều ăn như nhau. Như thế, cho đến xúc giác cũng
phải buông bỏ hết.
Ở thế giới Cực Lạc có bốn thứ
hoa sen : Sen xanh, sen trắng, sen hồng và sen vàng. Bốn thứ sen này có bốn
thứ ánh sáng. Bốn thứ ánh sáng này tiêu biểu cho các pháp môn Tứ
niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc ... Vì thế bây giờ chúng
ta nghe Kinh Di Đà, tụng Kinh Di Dà xong lại cần phải tu định lực nữa. Nếu
anh có định thì ngay đó là thế giới Cực Lạc. Nếu không định lực thì
dù cho thân ở thế giới Cực Lạc cũng chạy về thế giới Cực Khổ thôi.
Người có định lực, dù thân ở thế giới Cực Khổ cũng có thể chuyển
thành thế giới Cực Lạc được. Nếu người trừ được phiền não thì
tất cả đều không có vấn đề chi (Everything’s OK, No Problem). Đó
chẳng phải thế giới Cực Lạc là gì ?
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực
Lạc, thành tựu công đức, trang nghiêm như thế. Lại này Xá-lợi-phất,
cõi nước Phật kia, thường trỗi nhạc trời, vàng ròng làm đất, ngày đêm
sáu thời, mưa hoa Mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh ở cõi ấy, cứ mỗi
sáng sớm, thường dùng đãi y, đựng các hoa đẹp, đem cúng dường mười
vạn ức Phật ở phương khác, vừa đến giờ ăn, trở về nước mình,
ăn cơm kinh hành.
Đức Phật Thích Ca nói : Này Xá-lợi-phất,
cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế. Ở trong nước
của Ngài thường có chư Thiên trỗi nhạc trời, vàng ròng dùng làm đất,
ngày đêm sáu thời (đầu ngày, giữa trưa, cuối ngày, đầu hôm, giữa
đêm, cuối đêm. Ba thời của ngày, ba thời của đêm cộng là sáu thời) đều
có hoa Mạn-đà-la từ trời mưa xuống.
Mạn-đà-la hoa, là tiếng Phạn, dịch
là "Tư ý hoa", anh muốn thế nào nó ra thế ấy, rất là vừa ý.
Hoa này còn gọi là Đại bạch hoa. Chúng sanh ở cõi ấy, cứ mỗi sáng sớm
(sáng sớm mặt trời mới vừa mọc), thường dùng đãi y (túi vải),
đựng các hoa đẹp, đem cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác.
Thời gian cho việc cúng hoa rất ngắn, khoảng chừng một bữa ăn. Tại sao
những chúng sanh ấy chỉ có một thời gian rất ngắn đi khắp được mười
vạn ức cõi nước của chư Phật ? Nhơn vì các vị ấy chứng được tám
đại tự tại ngã, tùy tâm như ý, được như ý thông, tự do đi đến chỗ
mình muốn đến. Cho nên khi chúng ta lễ Phật nên quán thân thể chúng ta
cùng khắp cả vô lượng cõi nước chư Phật ở mười phương và đang đảnh
lễ trước chư Phật. Anh có thể quán tưởng pháp giới, vì thân thể
chính là pháp giới. Cho nên có bài kệ :
Nếu ai muốn hiểu biết
Tất cả Phật ba đời
Phải quán pháp giới tánh
Tất cả duy tâm tạo.
Trở về nước mình, nước mình tức
là thế giới Cực Lạc; ăn cơm kinh hành, ăn cơm xong liền đi kinh hành;
kinh hành tức là đi tản bộ sau khi ăn cơm.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực
Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế ! Lại này nữa Xá-lợi-phất,
cõi nước kia thường có các thứ chim màu sắc kỳ diệu, như Bạch Hạc,
Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng Mạng. Những thứ
chim này, ngày đêm sáu thời, hót lên tiếng hòa nhã, tiếng ấy diễn xướng
5 căn, 5 lực, 7 Bồ-đề phần, 8 Thánh đạo phần.
Đức Phật vốn đợi ngài Xá-lợi-phất
thưa hỏi, nhưng ngài Xá-lợi-phất chưa có thể hỏi được nên Phật lại
nói tiếp theo cho đại chúng nghe : Này Xá-lợi-phất ! Cõi nước Cực Lạc
thường có những thứ chim nhiều màu kỳ lạ, lại có chim Bạch Hạc, Khổng
Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng Mạng ...
Những thứ chim này màu sắc đặc
biệt đẹp đẽ, trắng trắng xanh xanh, hoặc nhiều màu xen lộn, như giống
Phụng Hoàng trên thế gian này. Anh Võ biết nói tiếng người, nếu người
ta dạy nó nói tiếng Trung Quốc nó sẽ nói tiếng Trung Quốc, dạy nó nói
tiếng Anh nó cũng biết nói tiếng Anh. Thấy có người tới, nó biết nói
: "Có khách, có khách", hoặc nói : "Hello, how are you !" Cho
nên nếu có người dạy nó niệm danh hiệu Phật, chúng nó cũng có thể nhờ
vào công đức niệm Phật mà vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương
Tây.
Xá-lợi tức là Thu Lộ, mắt nó rất
đẹp. Ca-lăng-tần-già là tiếng Phạn, dịch là Hảo Thanh điểu, hoặc Hảo
Âm điểu. Vì khi mới khải mỏ, còn ở trong trứng mà tiếng kêu của nó
hay hơn các con chim con khác, cho nên gọi là Hảo Âm điểu.
Chim Cộng Mạng là thứ chim một
thân mà có hai đầu, anh có thấy chưa ? Chúng mắc phải quả báo này là
do kiếp trước lúc làm người, tâm dâm quá nặng. Hai vợ chồng ái ân
quá nặng, suốt ngày chỉ ân ái nhau thôi, dâm tâm không dứt nên phải đọa
lạc làm loài chim hai đầu. Thức tâm có hai mà quả báo phải thọ lại đồng
nhau. Ấy gọi là "chim Cộng Mạng, thức khác mà báo đồng". Vì thế
người ta không nên có tâm dâm dục thái quá, nếu không sẽ có thể đọa
làm loài chim Cộng Mạng đấy !
Có người nói : "Tôi
thích làm thứ chim đó !" Anh đừng nên cho là làm chim là việc rất tốt.
Phải biết rằng những loại phi cầm ấy, sau khi sống hết kiếp chim rồi
có thể sẽ đọa vào địa ngục thọ khổ. Đừng cho rằng chúng nó
rất tự do, muốn bay thì bay, muốn đáp thì đáp, tương lai quả báo đáng
sợ không thể tưởng tượng nổi đấy. Người có trí không làm việc ngu
si thì không bị đọa lạc, người không trí huệ mới tạo nghiệp mà đọa
lạc.
Các thứ chim ấy ngày đêm sáu thời
hót lên tiếng hòa nhã. Sáu thứ chim này ngày đêm sáu thời đều hót
lên tiếng hòa nhã, xướng họa lẫn nhau, phát ra âm nhạc rất êm dịu. Thực
ra những loại chim này là do công đức của Phật A Di Đà hóa hiện ra,
giúp Phật nói pháp khiến cho pháp âm lan khắp. Vì ở thế giới Cực Lạc
phương Tây không có các khổ, không có quả báo ba ác đạo địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh.
Tiếng ấy diễn sướng, diễn là
biểu diễn, sướng là vui vẻ thông suốt. Tức là bất cứ người nào
nghe đến đều rất vui thích, từ trong lòng phát ra sự vui thích. Pháp âm
mà bọn chim diễn sướng đại biểu cho 5 căn, 5 lực, 7 Bồ-đề phần, 8
Thánh đạo phần.
Năm căn là : Tín căn, Tấn căn, Niệm
căn, Định căn và Huệ căn. Năm căn biểu thị cho mầm mống Bồ-đề, có
thể khiến cho tâm Bồ-đề tăng trưởng, khi tăng trưởng thì có một thứ
lực lượng nên gọi là 5 lực. Năm lực là : Tín lực, Tấn lực, Niệm lực,
Định lực và Huệ lực. Bảy Bồ~đề phần :
1 Trạch pháp Bồ~đề phần, còn gọi
là Trạch pháp giác phần.
2. Tinh tấn Bồ-đề phần, còn gọi
là Tinh tấn giác phần.
3. Hỷ Bồ-đề phần, còn gọi là
Hỷ giác phần.
4. Trừ Bồ-đề phần, trừ hoặc
thô.
5. Xả Bồ-đề phần, xả bỏ hoặc
tế.
6. Định Bồ-đề phần.
7. Niệm Bồ-đề phần.
Bảy Bồ-đề phần còn gọi là bảy
Giác chi. Trong 87 đạo phẩm chỉ 7 chi này được tên là Giác. Nhân vì trước
tu 4 niệm xứ, 5 căn, 5 lực vẫn chưa giác ngộ, sau tu 8 chánh đạo đã
giác ngộ, chỉ có khoảng giữa tu 7 pháp Giác phần này từ mê mà ngộ, do
chưa giác ngộ mà giác ngộ cho nên được tên là Giác. Bảy Bồ-đề phần
này rất quan trọng, các đệ tử Phật nên nhớ kỹ.
Tám Thánh đạo phần, tức 8 Chánh
đạo : Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
1. Chánh kiến : Đây không phải là
cái thấy của nhìn thấy, mà là cái thấy của kiến giải trong tâm. Thế
nào là kiến giải chính xác ? Tức là dùng hành vi vô lậu để quan sát kiến
giải của chính mình có chính xác hay không, tức là vật phi lễ chớ
nhìn, cái gì không chánh đáng thì không nên xem, vì bất chánh chính là tà
kiến. Ví dụ thầy Tỳ-kheo thấy người không chánh đáng thì không nên
nhìn. Cho nên các Tỳ-kheo đều không đi xem phim, không ca múa hát xướng,
cũng không cố đi xem nghe. Nếu thích đi xem thì không phải là có chánh kiến,
thậm chí trong lòng có nghĩ tưởng đến cũng là không chánh kiến. Nhưng nếu
có việc không chánh đáng ở trước mắt cũng không nghĩ đó là bất
chánh mà cho nó là chánh đáng, đó cũng là chánh kiến.
2. Chánh tư duy : Tư duy là ở bên
trong, người ta không thể thấy được, anh chính mình phải dùng trí huệ
vô lậu. Tôi nhiều lần giảng cho quý vị nghe về vô lậu, nhưng càng giảng
quý vị càng lậu thêm. Giả sử có được một chút trí huệ nào cũng bị
chảy sạch hết. Nước trí huệ rịn chảy hết thì có lửa vô minh sanh
ra. Pháp mà tôi giảng cho quý vị nghe là pháp hay nhất mà cả trong thiên hạ
này không pháp nào hay hơn. Nếu không chịu chú ý, chẳng nghe cho kỹ thì
dù cho Đức Phật Thích Ca tái thế cũng cứu không được quý vị. Vô lậu
tức là không có tà tư tà kiến. Không có tâm dâm dục tức là vô lậu.
Có tâm dâm dục tức là hữu lậu. Chánh tư duy tức là vô lậu, tà tư duy
tức là hữu lậu. Tư duy thuộc về tâm, cũng là ý. Trong ý niệm không khởi
một niệm không chính xác nào tức là Chánh tư duy.
3. Chánh ngữ : Là trong lời nói của
chính mình không có một chút ý nào dâm loạn. Những lời nói ra đều thật
đúng đắn. Nếu có ai nói với anh những lời không đúng đắn, anh cũng
phải nói với họ những lời đúng đắn, không được dùng lời không đúng
đắn nói lại. Đó tức là chánh, là khẩu nghiệp thanh tịnh. Trên đời này
bất cứ người nào cũng gặp phải điều ấy. Nếu ai nói những lời
không đúng đắn, chẳng cần phê bình họ nói không đúng, mà không nên tiếp
cận với họ là được. Nhưng mặt khác, anh không cần cho họ là nói lời
không chánh đáng, thế thì không chánh đáng cũng biến thành chánh đáng.
Chánh tư duy tức là ý thanh tịnh, mà chánh ngữ là khẩu nghiệp thanh tịnh.
4. Chánh nghiệp, là thân nghiệp
thanh tịnh. Dùng trí vô lậu để trừ bỏ tà nghiệp của bản thân. Tà
nghiệp là gì ? Cũng tức là ý niệm dâm dục. Một số người mượn câu
"Không tức là sắc, sắc tức là không" mà hành động sai quấy,
đây tức là tà nghiệp. Trí vô lậu tức là trí huệ không có những thứ
không chánh đáng. Có người chỉ có tà huệ, bảo họ làm việc đúng đắn
thì họ không biết làm gì cả, nhưng nếu bảo họ làm việc bậy bạ (như
hành dâm...) thì họ thông minh hơn những người khác, đó là tà nghiệp.
Chánh nghiệp thuộc về thân nghiệp.
5. Chánh mạng. Chánh mạng đối lại
với tà mạng. Sao gọi là tà mạng ?
a/. Bày vẻ những điều khác người
để hiện bày việc kỳ lạ. Những người này biểu hiện ta đây không giống
với người khác : "Để thấy dáng điệu của ta không giống với mọi
người !" Như ở Hương Cảng có một vị Pháp sư người Trung Quốc cố
ý đắp y Tiểu thừa. Ở Đài Loan cũng có những người này, mục đích của
họ chỉ là lôi kéo sự chú ý của người khác để được cúng dường.
Một số người mù và những người đi theo, người ta thấy họ mặc y phục
rất là cổ quái, cho là bảo bối rồi đến cúng dường.
b/. Tự nói mình có công đức. Những
người này tự khoe khoang công đức của chính mình, lại nói Viện Dưỡng
Lão là của tôi lập nên, hoặc nói tôi xuất ra bao nhiêu tiền để làm trường
học, độ được một số đệ tử, lập nên một số cảnh chùa, cúng dường
mấy trăm vị Hòa thượng. Tóm lại, đó là khoe khoang công đức của mình.
Kỳ thực, chỉ có những người ngu si mới tin được lời họ; còn những
người trí huệ, giả sử nhắm mắt lại, chỉ nghe họ nói cũng có thể
biết được đó là lời nói khoác.
c/. Bói chiếm tốt xấu. Gieo quẻ
cho người, tính toán số mạng tốt xấu của người. Những hạnh
nghiệp này chẳng phải chỉ người tại gia, mà người xuất gia cũng có
làm. Bọn họ có thể đối với kẻ không biết gì, nói : "Anh nên
đưa tôi một triệu bạc để làm việc tốt, nếu không thì ngày mai có thể
phải chết đấy ?" Đối phương nghe nói một triệu có thể mua được
tánh mạng đâu phải là nhiều, liền đồng ý đưa ngay. Nhưng họ đâu biết
rằng giả sử không đưa tiền cũng không nhất định ngày mai phải chết.
Hoặc nói : "Ngày mai anh có thể gặp được một việc tốt đẹp. Chỉ
cần hôm nay anh đưa trước 50 lượng vàng làm việc công đức, thế nào
ngày mai anh cũng được 500 lượng vàng". Đối phương nghĩ thầm :
"Một lượng lãi tới mười lượng, có gì mà tiếc !" Thế rồi bị
gạt. Kết quả ngày thứ hai chẳng những không có vàng, cả đến người
bói quẻ cũng không thấy đâu nữa, bèn cho là gặp phải thần tiên.
d/. Lớn tiếng ra oai. Có những vị
Pháp sư thích vô duyên cớ lớn tiếng hò hét, khiến cho người kính và sợ.
Những người ấy còn cho rằng vị Pháp sư này thanh âm rổn rảng mà cung
kính vị ấy. Đây tức là tà mạng. Nếu khi giảng pháp, không gian lớn
mà người đông, có thể giảng kinh lớn tiếng. Nhưng nếu có micro thì
không cần phải sử dụng thanh lượng quá lớn như thế. Cứ nói chuyện
bình thường, chẳng cần phải hò hét lớn tiếng. Người lớn tiếng hiện
oai lại chẳng biết đó là một trong năm thứ tà mạng.
e/. Tự nói sự cúng dường để kích
động người khác. Ví dụ nói : "Anh biết không ! Tôi đến nhà cư sĩ
... ăn một bữa trai thật ngon, họ còn dùng nấm mèo trắng, nấm đông-cô
... để đãi tôi, thật là một bữa ngon quá sức !" Đến nhà cư
sĩ niệm câu thần chú sai khiến người khác cho họ ăn ngon. Một khi niệm
chú như thế, vị cư sĩ ấy trở nên không bình thường, cảm thấy chính
mình phải nên cúng dường một ít thức ăn, thậm chí không có tiền, phải
đi vay mượn để mua đồ chay cúng dường Pháp sư. Đâu biết rằng vị
Pháp sư ấy đã phạm vào năm thứ tà mạng rồi.
f/. Tinh tấn : Có Chánh tinh tấn và
Tà tinh tấn. Sao gọi là Chánh tinh tấn ? Giống như chúng ta đang lễ Phật,
niệm Phật suốt ngày không nghỉ ngơi, đó là Chánh tinh tấn. Nếu anh đi
đến chỗ khác nói chuyện khào, càng nói càng hăng, khoa chân múa tay, đó
gọi là Tà tinh tấn, không có lợi ích chi, về mặt tinh tấn lại có tác
dụng gì ? Cho nên 8 Chánh đạo phải hiểu như thế nào mới được hợp lý.
Chỉ cần anh biết giảng nói ra là được rồi. Sao gọi là Chánh tinh tấn
? Chánh tinh tấn chính là làm việc có ích. Sao gọi là Tà tinh tấn ? Tức
là làm việc không ích lợi. Ví như đối với Phật pháp phải dụng công,
nhưng anh chỉ nói chuyện tào lao, anh so với người khác thấy là tinh tấn,
đó gọi là Tà tinh tấn. Như chúng ta nghe kinh, không luận bận rộn cách mấy
cũng phải đến nghe kinh, đến để hộ trì pháp hội, đó gọi là Chánh
tinh tấn. Anh vốn không bận việc gì, nhưng anh cũng không đến nghe kinh,
đó gọi là không tinh tấn. Giống như chúng ta. Ở đây có mấy vị cư
sĩ, hễ xem phim thì rất tinh tấn, chịu di long nhong đường lớn hẻm nhỏ
mà chẳng đến nghe kinh, có pháp hội mà chẳng đến hộ trì, đó đều là
không tinh tấn. Chánh tinh tấn là không luận ở chỗ nào có pháp hội
thì đều đi ủng hộ, hộ trì dạo tràng. Nếu khoái đánh bài, cờ bạc,
đó là Tà tinh tấn.
g/. Chánh định : Chánh định là
Tam-muội, còn gọi là Chánh thọ. Chánh định là dùng trí huệ vô lậu để
tu định. Thứ định này tất cả cảnh giới tà không thể lay động được.
Tôi giảng kinh cho quý vị nghe, quý vị nhớ được một câu thì đi đến
bất cứ đâu cũng dùng không hết. Nhưng nếu quý vị không nhớ được câu
nào, quên sạch hết thì đi đến đâu sẽ bị cảnh giới ấy lay chuyển,
chạy theo cảnh giới ấy, đó là không có chánh định. Anh nói : "Tôi
biết tôi không có chánh định". Đã biết là không có, sao không dùng
chánh định ? Giống như có mấy người, khi nghe tôi giảng điều gì đó
đều nói : "I know, I know". Đã biết sao còn phạm phải sai lầm ?
h/. Chánh mệm : Chánh niệm là niệm
trí huệ vô lậu, không còn hữu lậu nữa. Không còn hữu lậu tức là
không có tâm dâm dục. Không có tâm dâm dục tức chánh niệm. Có tâm dâm
dục tức là tà niệm. Có người nói : "Người ấy có tâm dâm dục đối
với tôi, nhìn thấy mắt họ là biết ngay". Nếu anh không có tâm dâm
dục, làm sao lại đi nhìn vào mắt người ta ? Anh lại có tâm gì ? Chính
mình nếu không có tâm dâm dục, làm sao biết người ta có ? Nếu anh không
có thì là thanh tịnh hoàn toàn, trong sạch không nhiễm ô, chính mình không
có chút tư tưởng nào về việc đó cả thì làm sao biết được đối
phương đối với mình có tâm dâm dục ? Vậy thì rõ ràng là anh không dứt
trừ tâm dâm dục, không dứt tâm dâm dục chính là tà niệm, không phải
chánh niệm.
Các pháp như thế ấy, chúng sanh
ở nước kia nghe âm thanh này rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng. Này Xá-lợi-phất, ông chớ cho chim này thiệt là do tội báo sanh ra.
Tại sao thế ? Vì cõi nước của Phật kia không có ba ác đạo. Này Xá-lợi-phất,
cõi nước của Phật kia còn không có tên ác đạo, huống chi là có thật.
Các thứ chim ấy đều là do Phật A Di Đà muốn khiến tiếng pháp truyền
khắp mà biến hóa ra như thế.
"Các pháp như thế ấy", là
chỉ cho 5 căn, 5 lực, 7 Bồ-đề phần, 8 Thánh đạo phần đã nói ở trước;
25 đạo phẩm này cộng với 4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ý túc, thành
ra 7 khoa, 37 đạo phẩm.
"Chúng sanh ở nước kia", là
chúng sanh ở thế giới Cực Lạc, nghe thấy những âm thanh diễn nói của
các thứ chim ở trên rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
niệm về Tam Bảo. Này Xá-lợi-phất, đừng cho rằng những chim này là
từ tội báo sanh ra ! Đừng cho rằng những chim này là từ ba ác đạo
sanh ra. Tại sao thế ? Là vì lẽ gì ? Vì thế giới Cực Lạc kia không có
ba ác đạo - ba ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh - thì làm sao
có các thứ chim này được ? Phật nói : "Này Xá-lợi-phất, ta nói cho
ông biết : Cõi nước của Phật kia còn không có tên ác đạo"; ở thế
giới Cực Lạc, ngay đến tên ba ác đạo còn không có nữa, huống chi lại
có ba ác đạo thiệt hay sao ? Tất cả đều không có cả. "Những thứ
chim này đều là do nguyện lực của Phật A-di-đà muốn khiến cho tiếng
pháp truyền khắp mà biến hóa ra như thế". Đây đều là giúp cho
pháp âm truyền khắp mà dùng thần thông biến hóa ra các thứ chim ấy, chớ
chúng không phải do ba ác đạo biến hóa ra đâu. Không giống như cõi nước
của chúng ta đây, súc sanh là do súc sanh đạo biến hóa ra đấy.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật
kia, gió nhẹ lay động các hàng cây báu và các lưới báu, phát ra âm thanh
vi diệu, giống như trăm nghìn thứ âm nhạc đồng trỗi một lượt. Ai
nghe tiếng này rồi, tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng. Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm
như thế.
Phật nói : Này Xá-lợi-phất ! Ta
nói cho ông nghe đôi chút về tình hình của thế giới Cực Lạc :
"Cõi nước Phật kia gió nhẹ lay động", gió nhẹ là gió rất dịu,
gió không lớn, chỉ nhè nhẹ thôi, thổi vào 7 lớp hàng cây, 7 lớp lưới
báu, phát ra âm thanh vi diệu, trên lưới báu đều có chuông rung, một khi
gió thổi qua đều rung vang lên. Thứ tiếng vang này cũng giúp cho người ta
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. "Giống như trăm ngàn thứ âm nhạc
đồng trỗi một lượt". Thứ âm thanh này cũng giống như trăm ngàn
thứ âm nhạc đồng tấu một lượt. "Ai nghe tiếng này rồi", người
nghe thứ âm nhạc này, không phải là nghe rồi lại sanh ra một thứ tư tưởng
bất tịnh, mà là nghe rồi tự nhiên sanh ra tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng. Tâm niệm : Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Pháp, Nam mô A Di Đà
Tăng.
Có người lại nói : "Nam mô A
Di Đà Phật, câu này thì có, sao lại có Nam mô A Di Đà Pháp được
?" - Bởi vì đó là pháp của Phật A Di Đà nói ra mà ! Lại cũng là
chúng tăng của Phật A Di Đà giáo hóa mà có. Thế thì tại sao không nói
"Nam mô A Di Đà Tăng" được ư ? Cho nên đừng có thắc mắc ? Những
điều tôi giảng là mới phát minh, cũng là một lối nghệ thuật đấy
? Cũng giống như tôi giảng cho quý vị nghe về Niết-bàn như thế này. Niết-bàn,
Niết là không sanh, Bàn là không diệt; không sanh tâm dâm dục, không diệt
trí huệ. Cho nên Phật đến cảnh giới Niết-bàn thì không có tâm dâm dục
nữa. Người thanh tịnh không nhiễm trước, không có ý tưởng nam nữ, tự
tánh thường sanh trí huệ cho nên không diệt.
"Này Xá-lợi-phất, cõi nước
Phật kia, thành tựu công đức trang nghiêm như thế !" Này Xá-lợi-phất
! Cõi nước Cực Lạc thành tựu được các thứ công đức và trang nghiêm
như thế đó.
Này Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao ?
Tại sao Đức Phật kia có tên là A Di Đà ? Này Xá-lợi-phất, Đức Phật
kia có ánh sáng vô lượng chiếu suốt mười phương cõi nước không bị
chướng ngại, cho nên có tên là A Di Đà. Lại này Xá-lợi-phất, mạng sống
của Phật kia và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp
cho nên có tên là A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, Phật A Di Đà thành Phật đến
nay đã mười kiếp. Lại này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có vô lượng vô
biên chúng đệ tử Thanh văn đều là bậc Đại A-la-hán, không thể
tính đếm mà biết được, chúng Bồ-tát cũng nhiều như thế.
Phật lại gọi : "Này Xá-lợi-phất
!" Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đặc biệt có lòng thương nghĩ đến ngài
Xá-lợi-phất.Vị đồ đệ này thật cũng không đến nỗi, tu huệ cũng không
đáng kể, nhưng lại không biết hỏi, để ta nói cho ông ấy biết.
"YÙ ông nghĩ sao ?" Trong ý nghĩ của ông, ông cho là như thế nào ?
"Tại sao Đức Phật kia có tên là A Di Đà ?" Đáng lẽ câu này là
của ngài Xá-lợi-phất hỏi, mà ngài không biết hỏi, ngờ nghệch giống
như nhập định vậy, cho nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi giúp và đáp
thay cho ngài : "Này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng".
A Di Đà dịch là Vô lượng quang, cho nên nói "Đức Phật kia có ánh
sáng vô lượng chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại",
chiếu suốt mười phương cõi nước đều không bị ngăn che bởi ánh sáng
ấy. "Cho nên có tên là A Di Đà", vì thế nên gọi Ngài là Phật A
Di Đà. "Lại này Xá-lợi-phất !" Lại còn một nghĩa nữa : "Mạng
sống của Phật kia và nhân dân của Ngài đều vô lượng vô biên a-tăng-kỳ
kiếp", mạng sống của Phật A Di Đà và nhân dân của Ngài có đến vô
lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ là tiếng Phạn, dịch là vô lượng
số. "Cho nên có tên là A Di Đà", vì thế nên gọi Ngài là Vô Lượng
Thọ Phật. "Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp", từ
khi Đức A Di Đà thành Phật đến hiện nay đã kéo dài 10 đại kiếp, mạng
sống tương lai cũng vô lượng vô biên. "Lại này Xá-lợi-phất, Đức
Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh văn", Đức Phật A
Di Đà ở thế giới Cực Lạc có rất nhiều đồ đệ là hàng Thanh văn.
"Đều là bậc A-la-hán", những vị ấy đều đã chứng quả
A-la-hán vô lậu, đều là những người không có tâm dâm dục. "Không
thể tính đếm mà biết được", chẳng phải là số lượng tính kể
bằng con số mà tính đếm được. "Các chúng Bồ-tát cũng nhiều
như thế ". Số chúng Thanh văn đã nhiều như thế thì số chúng Bồ-tát
cũng nhiều như chúng Thanh văn, không thể dùng con số mà tính đếm được.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật
kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế ! Lại này Xá-lợi-phất, cõi
nước Cực Lạc, chúng sanh sanh về đều là bậc A-bệ-bạt-trí. Trong đó
có nhiều vị Nhất sanh bổ xứ. Số đó nhiều đến nỗi không thể
tính đếm mà biết được, chỉ có dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ
để nói. Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được điều này, phải nên
phát nguyện, nguyện sanh về nước kia. Tại sao thế ? Vì được cùng ở một
chỗ với các bậc thượng thiện nhơn. Này Xá-lợi-phất, không nên cho rằng
có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia
đâu.
"Này Xá~lợi-phất, cõi nước
Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế !" Cõi nước ấy đã
thành tựu công đức quá nhiều như trên đã nói.
"Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước
Cực Lạc, chúng sanh sanh về đều là bậc A-bệ-bạt-trí". A-bệ-bạt-trí
là tiếng Phạn, dịch là Bất thối chuyển. Có ba thứ bất thối chuyển :
Vị bất thối, Hạnh bất thối và Niệm bất thối. Vị bất thối
là không lui lại hàng Nhị thừa, cũng không từ Nhị thừa lui xuống hàng
phàm phu. Niệm bất thối là mỗi ngày càng tăng thêm ý niệm tu hành. Hạnh
bất thối là tu hành mỗi ngày một tăng tiến thêm.
Tóm lại, chẳng cần biết tu hành
được bao nhiêu ngày, hễ nghỉ một lần, nghỉ tức là lui sụt. Bất thối
chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là bất thối chuyển
ở Phật quả.
"Trong đó có nhiều vị Nhất
sanh bổ xứ", trong đó có rất nhiều chúng sanh một đời có thể bổ
xứ ở ngôi vị Phật, có thể thành Phật. Một đời đến trong hoa sen, tức
có thể thành Phật.
"Số đó nhiều đến nỗi không
thể tính đếm mà biết được", số mục này có nói cũng không hết
được số nhiều, chẳng phải là tính số thí dụ mà có thể biết được.
"Chỉ có dùng số vô lượng vô
biên a-tăng-kỳ để nói", chỉ có thể nói a-tăng-kỳ là có vô lượng
vô biên vô lượng số mà thôi.
"Này Xá-lợi-phất, chúng sanh
nghe được điều này, phải nên phát nguyện sanh về nước kia". Này
Xá-lợi-phất, tất cả chúng sanh nghe được đạo lý mà Đức Phật Thích
Ca chúng ta đã nói, đều phải nên phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc.
"Tại sao thế ? Vì được cùng
ở một chỗ với các bậc thượng thiện nhơn". Đó là nguyên nhơn gì
? Đạo lý gì ? Tại vì có thể cùng với các chúng Thanh văn, Bồ-tát ...
đồng ở một chỗ với nhau.
"Này Xá-lợi-phất, không nên
cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về
nước kia". Này Xá-lợi-phất ! Nói thì nói như thế, nhưng người không
có căn lành, không có phước đức thì không cách nào sanh về thế giới Cực
Lạc được. Phải là người có căn lành lớn, phước đức lớn, đời đời
kiếp kiếp tu hành các Ba-la-mật, mới có thể sanh về thế giới Cực Lạc
được, không như thế thì không cơ hội nào gặp được thứ diệu pháp
này, cho nên nói là "Không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước
đức căn lành mà được sanh về nước kia".
Này Xá-lợi-phất, nếu có hàng thiện
nam thiện nữ nào nghe nói Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu Ngài, hoặc
một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất
tâm bất loạn. Người ấy khi lâm chung thấy Phật A Di Đà cùng các Thánh
chúng hiện ra trước mặt. Khi chết người ấy tâm không điên đảo, liền
được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Này Xá-lợi-phất,
ta thấy những điều lợi ấy nên mới nói như vậy. Nếu có chúng sanh
nào nghe ta nói đây, phải nên phát nguyện sanh về nước kia.
"Này Xá-lợi-phất, nếu có
hàng thiện nam thiện nữ nào nghe nói về Phật A Di Đà rồi chấp trì danh
hiệu Ngài, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày …" Này Xá-lợi-phất
! Nếu có hàng thiện nam tín nữ tu Ngũ giới, Thập thiện, nghe được danh
hiệu của Phật A Di Đà; chấp, như tay nắm chặt đồ vật không thả, ý
nói niệm danh hiệu Phật A Di Đà không lơi lỏng biếng lười; "hoặc
một ngày", chữ hoặc có thể đổi thành chữ khổ, là khó nhọc. Khó
nhọc một ngày, khó nhọc hai ngày, khó nhọc ba ngày ... rất là khổ nhọc,
vì từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, khó nhọc đến bảy ngày, đạt đến
trình độ Nhất tâm bất loạn. "Người ấy khi lâm chung", người
ấy chờ đến khi chết, "Đức Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện
ra trước mặt", Đức Phật A Di Đà nghĩ nhớ đến anh ... "A,
chúng sanh ở thế giới Ta-bà đang niệm danh hiệu ta, niệm đã được bảy
ngày, cam chịu khó nhọc bảy ngày, ta nên đáp ứng và rước họ về cõi
nước Cực Lạc, bây giờ đã đến giờ rồi, mau mau đi rước họ". Bấy
giờ các vị đi theo Phật như Bồ-tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Thanh tịnh
đại hải chúng Bồ-tát đều đến chỗ này. Họ đều đưa tay rước anh
về thế giới Cực Lạc. Anh muốn rút lui cũng không thể được. "Người
ấy khi lâm chung tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới
Cực Lạc của Phật A Di Đà". Bấy giờ tâm của người ấy dù có tưởng
điên đảo, cũng không thể nói : "Tôi không muốn đi, nơi đó không
có nghĩa gì". Người ấy không thể cự tuyệt lời mời gọi của Phật
A Di Đà, tức khắc vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
"Này Xá-lợi-phất, ta thấy những
điều lợi ấy nên mới nói như vậy". Phật tiếp tụïc nói : Này
Xá-lợi-phất ! Ta thấy những chỗ tốt đẹp và lợi ích như thế cho nên
mới bảo ông. "Nếu có chúng sanh nào nghe ta nói đây, phải nên phát
nguyện sanh về nước kia". Giả sử có chúng sanh nào ở thế giới
Ta-bà nghe ta nói những lời như thế này, phải nên phát nguyện, thì nhất
định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc.
Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay ngợi
khen lợi ích về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà.
Ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại
Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm. Giống như vậy hằng hà sa số chư
Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng
dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như
vầy : Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ
bàn, và "Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm" này.
"Này Xá-lợi-phất, như ta hôm
nay ngợi khen lợi ích về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà",
giống như tôi hiện đương khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của
Phật A Di Đà, những việc lợi ích này chẳng phải chỉ một mình tôi
khen, mà ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, tức là Tiêu Tai Diên Thọ
Dược Sư Phật, tức Bất Động Phật, cũng tức là Phật A Súc Bệ ở Kim
Cang bộ thuộc phương Đông, dịch là Pháp thân thường trú bất động. Pháp
thân chẳng những bất động mà lại còn Thường trú nữa. Nói Phật trí
bất động, có thể động đến trí tánh sẵn có của chúng sanh.
"Phật Tu Di Tướng", tướng
Phật vi diệu như núi Tu Di. Tu Di dịch là Diệu Cao, là biển lớn ở giữa
biển, do bốn báu hợp thành. Sáng rỡ thấu suốt gọi là Diệu, cao hơn
các núi gọi là Cao.
"Phật Đại Tu Di", trên
nói tướng của Phật, đây nói về công đức của Phật. Diệu Cao là vua
của các núi, dùng để so sánh với công đức bậc nhất của Phật.
"Phật Tu Di Quang", ánh sáng
là chỉ cho trí của Phật, để nói lên trí của Phật cùng khắp.
"Phật Diệu Âm", tứ biện,
bát âm đều đầy đủ.
"Giống như vậy hằng hà sa số
chư Phật", bên trên là nói các vị Phật tiêu biểu, nếu nói đầy đủ
thì có đến hằng hà sa số các Đức Phật nhiều như vậy. Những Đức
Phật ấy, "mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi
rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới". Những chiếc
lưỡi lớn như thế thì làm sao nói được ? Nói trùm khắp cả tam thiên
đại thiên thế giới tức là ý nghĩa Phật pháp lưu thông đến khắp cả
tam thiên dại thiên thế giới. "Nói lời thành thật như vầy : Chúng
sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn
này". Các Phật đều nói lời chân thật rằng chúng sanh các ngươi phải
nên khen ngợi và tin nhặn công đức không thể nghĩ bàn này, "và Kinh
được tất cả chư Phật đều hộ niệm"; Kinh A Di Đà này cũng như
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nếu có chúng sanh nào tụng trì kinh này thì tất cả
chư Phật đều bảo : Người ấy đến lúc mạng chung sẽ được chư Phật
tiếp dẫn về thế giới Cực Lạc.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương
Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên,
Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn. Giống như vậy hằng hà
sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng
lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời
thành thật như vầy : Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi
không thể nghĩ bàn, và "Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm"
này.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong,
chư Phật ở phương Đông khen ngợi Đức Phật A Di Đà rồi, bấy giờ lại
nói đến chư Phật ở phương Nam. Phật nói : Này Xá-lợi-phất ! Ở thế
giới phương Nam cũng có rất nhiều Đức Phật dùng tướng lưỡi rộng dài
mà thuyết pháp. Đó là những Đức Phật nào ? Ấy là Phật Nhật Nguyệt
Đăng [(Nhất thiết trí là mặt nguyệt, Đạo chủng trí là mặt nhật,
Nhất thiết chủng trí là đèn (đăng)]. Phật Danh Văn Quang (vì Danh xưng
được nghe khắp cả pháp giới), Phật Đại Diệm Kiên, hai vai Đức Phật
phát ra ánh sáng [Diệm biểu hiện cho đại huệ, Kiên (vai) gánh vác
chúng sanh], Phật Tu Di Đăng tức Phật Diệu Cao Đăng (ánh sáng của
thân vô lượng như núi Tu Di), và Phật Vô Lượng Tinh Tấn, Đức Phật
ngày đêm sáu thời thường tinh tấn (công phu không xen tạp gọi là
Tinh, không lui sụt gọi là Tấn, vì trong vô lượng kiếp công phu hành đạo,
thành Phật, hóa độ vô lượng chúng sanh không ngừng nghỉ). Còn
có vô lượng hằng hà sa số chư Phật như vậy ở các cõi nước phương
Nam, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, nói Phật pháp trùm khắp tam thiên đại
thiên thế giới, nói với tất cả chúng sanh những lời chân thật chí
thành không hư dối như thế này : "Này chúng sanh các ngươi, ở thế
giới này hoặc thế giới khác, ở cõi nước này hay cõi nước khác, trong
vô lượng vô số cõi nước đều nên sanh ba thứ tâm : Tín tâm, Nguyện
tâm và Hạnh tâm chân chánh để ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn của
Kinh này". Bộ Kinh A Di Đà này là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không ai hỏi
tự nói ra. Nếu quý vị tin nhận, ngợi khen và trì tụng Kinh này thì tất
cả chư Phật sẽ đến bảo hộ quý vị. Cho nên phải đặc biệt phát
tâm ca tụng ngợi khen Đức Phật A Di Đà và Kinh A Di Đà.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương
Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Đại Quang, Phật
Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang. Giống như vậy hằng hà sa
số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi
rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật
như vầy : Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể
nghĩ bàn và "Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm" này.
Phật Thích Ca Mâu Ni nói về phương
Đông xong, chư Phật ở phương Nam khen ngợi Phật A Di Đà rồi, lại nói
ở thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, cũng tức là Phật A Di
Đà. Nhưng các Đức Phật đồng tên rất nhiều, Phật Vô Lượng Thọ có
thể là Phật A Di Đà. Vị đạo sư của thế giới Cực Lạc phương Tây cũng
có thể là một vị Phật khác. Vì thế không nên chấp trước nhất định
là phải, hoặc nhất định là không phải Phật A Di Đà. Phải cũng được
mà không phải cũng được, không nên chấp trước. Trên sự thật không
có một cái nào là phải, cũng không có một cái nào là không phải.
Phật pháp diệu như thế đấy. Phải hay không đều là tâm phân biệt của
anh thôi. Về phần chư Phật chỉ có một điều là không có tâm phân biệt
kia đây. Không phân biệt nhưng mỗi vị đều có pháp tướng trang nghiêm
riêng, tuy mỗi Phật đều có pháp tướng trang nghiêm riêng nhưng không ngại
lẫn nhau. Không giống như chúng ta : "A, anh chơi xấu tôi à !" Phật
không có như thế, Ngài là "anh chính là tôi, tôi cũng chính là
anh", vì thế chứng được cảnh giới vô thượng thì phải quấy đều
như nhau. Anh xem thế có diệu hay không ! Người ta nếu muốn thành Phật
thì phải không có tâm phân biệt, cũng không có tâm vọng tưởng, không
có mảy may nào tâm dục vọng, đó mới thiệt vi diệu cực điểm. Vì thế
anh không nên chấp trước. Như có thể biết đúng về Phật A Di Đà và Phật
Vô Lượng Thọ, thì anh không nên phân biệt, không nên để tâm thái quá về
mặt này.
Phật Vô Lượng Tướng là vị Phật
có vô lượng tướng (Phật có 84.000 vi trần tướng hảo, tùy cơ hiển
hiện). Phật Vô Lượng Tràng là Phật có vô lượng vô số tràng phan
treo bên trên để che đỡ (tràng là nghĩa cao hiển, nghĩa dẹp tà hiển
chánh, lại trong rỗng ngoài tròn, tiêu biểu cho Phật tánh sáng suốt rỗng
rang mà sáng suốt đầy đủ). Phật Đại Quang, ánh sáng Đức Phật này
chiếu sáng khắp nơi. Phật Đại Minh (quang là thể, minh là dụng, có
quang thì minh chiếu mười phương. Hai Phật đồng hiển trí huệ to lớn). Công
đức trí báu của Ngài, tướng sáng tròn đầy.
Phật Tịnh Quang, sự thanh tịnh
quang minh của Ngài chiếu khắp chúng sanh. Như chúng ta nói kỹ thì có hằng
hà sa số quá nhiều Đức Phật. Ở phương Tây có rất nhiều Đức Phật,
mỗi vị đều hiện ra tướng lưỡi rộng dài. Lưỡi của chúng ta không
cách gì che trùm một căn nhà, nhưng tướng lưỡi rộng lớn của Phật có
thể che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Tại sao thế ? Đối với Phật
mà nói thì tam thiên đại thiên thế giới tức là một niệm, một niệm tức
là tam thiên dại thiên thế giới. Dù là tam thiên đại thiên thế giới cũng
không vượt ngoài một niệm; dù là một mệm cũng có thể trùm khắp tam
thiên đại thiên thế giới. Không nên chấp trước là Phật có lưỡi lớn
như thế, lưỡi rộng dài là chỉ cho pháp đến đâu thì tướng lưỡi Phật
đến đó. Chúng ta cũng có thể hiện ra tướng lưỡi rộng dài được,
như chúng ta đến chỗ nào giảng nói Phật pháp khiến cho Phật pháp lưu
thông đến đó thì cũng là trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới đó.
Khi nghe Phật pháp không nên chấp trước. Tuy lưỡi Phật có thể trùm khắp
tam thiên đại thiên thế giới, nhưng cả đến lớn bằng hạt vi trần
cũng đều không có, kỳ thật căn bản không có cái gì cả. Như vậy hẳn
là Phật nói láo ư ? Nếu Phật không nói láo, thì làm sao anh lại tin Ngài
? Nói theo quan điểm chúng sanh thì hình như là nói hoang đường; nhưng đứng
trên quan điểm của Phật thì là nói chân thật, chớ không phải nói vọng
ngữ đâu. Chúng sanh xem đó là vọng ngữ mà Phật xem đó là lời chân thật.
Cũng lời nói ấy mà Phật nói ra là thật mà chúng sanh nói ra tức là vọng
ngữ. Điều này chẳng dễ dàng giảng rõ được, nếu anh muốn hiểu rõ
đạo lý này phải không sợ bị khổ nạn, gắng sức khổ cực đi ! Đừng
nghĩ rằng nghe được Phật pháp hai ngày rưỡi rồi cái gì cũng biết,
Kinh cũng không tụng, Phật cũng không niệm. Không nên tự cho là đã tham
thiền thì cái gì cũng không làm cả, lại nói : "Tôi rõ ý Phật, kỳ
thật không có gì cả. Tôi đã học 5 năm, cũng chẳng qua là như thế ! Vì
vậy bây giờ tôi đều không học nữa, bất cứ vấn đề gì cũng đều
không có nữa". Anh nên biết rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tu phước
tu huệ đến ba a-tăng-kỳ kiếp; làm các việc bố thí để tu phước, và
học tập các thứ Phật pháp để tu huệ. Ngài tu về tướng hảo, phải
tu đến 100 đại kiếp mới được 32 tướng 80 vẻ đẹp. Tại sao chúng ta
ngay cả một tướng, một vẻ đẹp cũng không có ? Tại sao người ta nhìn
thấy anh lại nói : "Nó xấu lấm, dang xa nó ra, nó không phải là người
tốt, nhìn thấy nó là phát ghét". Tại sao thế ? Tại vì không có tu
hành cho nên không có đức hạnh, vì thế ai ai cũng đều không thích nhìn
thấy anh.
Lưỡi của Phật che khắp cả vũ
trụ mà nói lời chân thật, Phật không dối gạt người, chẳng nên lấy
tâm phàm mà đo lường trí thánh, lấy tâm của người phàm mà suy lường
tâm của thánh nhân. Tôi đã từng một đôi lần nói với quý vị :
"Hàng Bồ-tát Sơ địa không biết được cảnh giới của hàng Bồ-tát
Nhị địa, Bồ-tát Thập địa không biết được cảnh giới của Bồ-tát
Đẳng giác. Sơ quả A-la-hán không biết được Nhị quả A-la-hán; Nhị quả
A-la-hán không biết dược Tam quả A-la-hán. Sơ quả A-la-hán cho là chính
mình làm việc ấy đúng, nhưng đứng trên quan điểm của Nhị thừa A-la-hán
nhìn thấy việc ấy là sai. Nhị quả A-la-hán cho các vị ấy là đúng, Tam
quả A-la-hán nhìn thấy các vị ấy có một điểm thiên lệch. Tôi là sư
phụ quý vị, quý vị không rõ cảnh giới của tôi. Giả như quý vị biết
rõ, thì chẳng cần sư phụ nữa. Vì thế cần phải dùng cân não nghiên cứu
những điều tôi nói thử xem, không cần bực tức nói : "Ông ấy giảng
quá nhiều ?"
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương
Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật
Sanh, Phật Võng Minh. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều
ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam
thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy : Chúng sanh các
ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và "Kinh
được tất cả chư Phật đều hộ niệm" này.
Chẳng những ở phương Đông, phương
Nam, phương Tây chư Phật đều khen ngợi Đức Phật A Di Đà, mà ở phương
Bắc cũng có rất nhiều Phật ngợi khen Đức Phật A Di Đà. Phương Bắc có
Phật Diệm Kiên, vị Phật này phóng ra ánh sáng to lớn. Phật Tối Thắng
Âm, tiếng nói của vị Phật này rất thù thắng, có thể được nghe khắp
cả tam thiên đại thiên thế giới. Anh nói : "Tại sao tôi không nghe thấy
gì cả ?" Đó là vì anh chưa ở trong tam thiên đại thiên thế giới của
Ngài. Anh ở trong tam thiên đại thiên thế giới này thì phải hòa đồng
trong thế giới này. Phật Nan Trở, Trở tức là phá hoại, nghĩa là pháp
và công đức của Đức Phật này không ai có thể phá hoại được. Phật
Nhật Sanh (Nhật là chủ các tinh tú, nuôi lớn vạn vật, Phật là thầy
của chúng sanh, khiến họ sanh trí huệ). Phật Võng Minh (lưới châu
báu, ánh sáng của các hạt châu chói vào nhau, biểu thị ánh sáng trên
thân Phật ánh suốt vô lượng). "Giống như vậy hằng hà sa
số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi
rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói những lời
thành thật này". Công đức vi diệu không thể nghĩ bàn này là vô lượng
vô biên, cho nên chư Phật đều hộ niệm Kinh này. Do đó Kinh này được
chư Phật hộ niệm, cho nên công đức của Kinh này không thể nghĩ bàn.
Này Xá-lợi-phất, thế giới phương
dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật
Pháp Tràng, Phật Trì Pháp. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi
vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp
cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy : Chúng
sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và
"Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm" này.
Đức Phật đã nói bốn phương Đông,
Tây, Nam, Bắc, các Đức Phật ở đó đều khen ngợi Phật A Di Đà rồi, lại
bảo Xá-lợi-phất : Ở thế giới phương dưới có Phật Sư Tử, Đức Phật
này thuyết pháp như Sư tử rống. Phật Danh Văn, tên Phật trong ba đời đến
đâu cũng được ca ngợi. Phật Danh Quang, Đức Phật này chẳng những tên
Ngài vang khắp cả tam thiên dại thiên thế giới, mà ánh sáng của Ngài cũng
chiếu suốt cả ba đời. Phật Đạt Ma, tức là Pháp Phật. Phật Pháp
Tràng, Đức Phật lấy Pháp làm bảo tràng. Phật Trì Pháp, Đức Phật chuyên
môn đem pháp phổ độ chúng sanh, cũng có thể nói bây giờ chúng ta chuyên
môn niệm tụng, tu trì Kinh A Di Đà, tương lai có thể thành tựu Phật Trì
Pháp. Cũng có thể nói, hiện giờ quý vị tụng Kinh này, tức là Phật
Trì Pháp đấy. Mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi
rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật
như vầy : Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể
nghĩ bàn và "Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm". Phần
này giống như các phần trước nên đây không thuật lại.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương
trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương
Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta
La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật
Như Tu Di Sơn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở
cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam
thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy : Chúng sanh các
ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và "Kinh
được tất cả chư Phật đều hộ niệm" này.
Phật lại bảo ngài Xá-lợi-phất
: Ở thế giới phương trên có Phật Phạm Âm, thanh âm của Đức Phật này
thanh tịnh và rõ ràng. Phật Tú Vương, Đức Phật này vào thời quá khứ
phát ra lời nguyện lớn và có sức mạnh. Phật Hương Thượng (Giới
hương thanh tịnh đặng vô thượng diệu đế), anh một khi đốt hương
thì Đức Phật này liền đến. Phật Hương Quang (Giới hương thanh tịnh,
tức phát ánh sáng trí huệ), hướng về Đức Phật này dâng hương, Ngài
liền phóng ra ánh sáng. Phật Đại Diệm Kiên, thế giới phương Nam từng
có Phật Đại Diệm Kiên, ở thế giới này lại có Phật Đại Diệm Kiên
nữa, ánh sáng trên hai vai của vị Phật này là biểu thị cho hai trí Quyền
và Thật. Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Đức Phật này dùng nhân hoa
vạn hạnh để trang nghiêm quả đức vô thượng. Phật Ta La Thọ Vương,
Ta-la thọ là cây Bồ-đề. Ta-la dịch là kiên cố, Vương có nghĩa là tự
tại. Không có thứ nước nào thấm được vào cây này để ví dụ cho
Pháp thân của Phật không một vật nào phá hủy được. Phật Bảo Hoa Đức
(Bảo Hoa, thanh tịnh mà sáng, biểu thị cho công đức của Phật tròn sạch),
Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa (năm nhãn thấy khắp, pháp nghĩa vô
cùng), Phật Như Tu Di Sơn (núi rất cao lớn, Phật rất cùng khắp). Giống
như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình,
hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới,
nói lời thành thật như vầy : Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức
khen ngợi không thể nghĩ bàn và "Kinh được tất cả chư Phật đều
hộ niệm". Phần này cũng giống như các phần trước, nên không cần
phải giảng lại.
Này Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao ?
Tại sao gọi là "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm" ? Này
Xá-lợi-phất, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào nghe Kinh này mà
thọ trì, và nghe được danh hiệu của chư Phật, thì những thiện nam thiện
nữ ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm cho và đều được không
thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên này Xá-lợi-phất,
các ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói. Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni khen ngợi chư Phật ở các phương đông, tây, nam, bắc, trên, dưới
rồi, lại bảo ngài Xá-lợi-phất : "Theo ý ông thì Kinh này sao gọi
là Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm ?" Xá-lợi-phất tròn mắt
nhìn một hồi, đáp không được. Đức Phật chờ độ 5 phút mới nói tiếp
: "Ta nói cho ông biết, này Xá-lợi-phất, giả như có người thiện
nam thiện nữ trì năm giới, tu thập thiện, có thể tu trì niệm tụng Kinh
A Di Đà và không quên những danh hiệu của chư Phật đã nói ở trên, thì
những thiện nam thiện nữ này cũng đều được chư Phật hộ trì. Người
ấy liền được ba thứ bất thối là Trụ, Niệm và Hạnh, lần lần đến
quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì thế này Xá-lợi-phất,
các ông hãy nên tin nhận những lời ta nói, các người đều phải nên tin
nhận lời ta và lời chư Phật nói. Chúng ta thấy Phật thật là từ bi
quá mức ! Chúng ta đều phải cảm kích đến rơi lệ khi nghe Phật nói :
"Chúng sanh các ngươi, bất luận là người lớn trẻ nhỏ đều phải
nên tin tưởng và tiếp nhận lời ta nói với các ngươi".
Quý vị cũng nên tin nhận lời tôi
đang nói cho quý vị nghe dây mà không nên sanh lòng nghi ngờ, không nên nói
: "Tôi không biết đạo lý mà vị Pháp sư Trung Quốc này nói có đúng
không ?". Quý vị hãy nên tin những lời tôi nói. Quý vị chẳng những
tin lời của Phật Thích Ca nói, cũng phải tin lời ngợi khen của chư Phật.
Kinh này là khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn và được tất cả
chư Phật hộ mệm. Cũng nên tin tôi hiện nói đạo lý của Kinh này là
chân thật không giả dối, không phải lời gạt gẫm. Vì thế quý vị đều
nên phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.
Này Xá-lợi-phất, nếu có người
đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước của
Phật A Di Đà thì những người đó đều được không thối chuyển nơi đạo
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở nước Phật kia, những người này
hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh. Cho nên này Xá-lợi-phất,
các thiện nam tử, thiện nữ nhơn, nếu ai có lòng tin hãy nên phát nguyện
sanh về cõi nước kia.
Đức Phật Thích Ca lại kêu ngài
Xá-lợi-phất, nói : "Giả sử có người đã phát nguyện", đã
phát nguyện trong quá khứ; "đang phát nguyện", hiện tại đang phát
nguyện; "sẽ phát nguyện", chúng sanh vị lai phải nên phát nguyện.
Người đã phát nguyện đã ở quá khứ sanh về thế giới Cực Lạc; người
đang phát nguyện, hiện tại cũng đang sanh về thế giới Cực Lạc; tương
lai phát nguyện thì tương lai sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Nhưng khi phát
nguyện, trước phải có lòng tin. "Tín, Nguyện, Hạnh" là ba thứ tư
lương của người tu theo pháp môn Tịnh độ. Thứ nhất là phải tin có thế
giới Cực Lạc, thứ hai là phải tin có Đức Phật A Di Đà, thứ ba là phải
tin ta và Đức Phật A Di Đà nhất định có nhân duyên lớn, ta nhất định
sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Có được ba thứ lòng tin này rồi mới
có thể phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, vì thế nói là nguyện
sanh về Tịnh độ ở phương Tây. Phát nguyện sanh về Tây phương Tịnh độ,
chẳng phải có người miễn cưỡng bảo tôi đi, hay xô đẩy tôi đi đâu
! Tuy Đức Phật A Di Đà có thể đến tiếp rước tôi, nhưng phải là tôi
tự đi mới được, nhân đó mà phải phát nguyện thấy Phật A Di Đà;
nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật; nguyện sanh về thế
giới Cực Lạc, thấy Phật nghe pháp. Nếu có thể phát nguyện như thế,
thì nhất định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Nguyện rồi thì mới có
thể hành được, mà hành như thế nào ? Chính là niệm Phật, niệm
"Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật ..." như cứu
lửa cháy đầu, giống như có người muốn chặt đầu ta, trộm đầu ta vậy.
Cũng giống như Đức Lục Tổ Đại sư - dù đã viên tịch, nhưng còn biết
có người muốn đến lấy trộm đầu mình, vì thế ngài dặn dò đồ đệ
hãy bảo hộ đầu ngài. Đồ đệ ngài theo lời dặn dò, bèn dùng sắt bao
đầu ngài lại, người đến trộm muốn chặt cũng chặt không đứt, vì
đầu đã được bảo hộ rồi. Huống chi hạng phàm phu chúng ta hãy còn chưa
viên tịch lại không gấp rút bảo hộ cái đầu của mình như thế sao ? Vì
thế nói thật hành chính là niệm Phật, niệm Phật chính là thật hành.
"Tín, Hạnh, Nguyện" chính là lộ phí, tư lương vãng sanh về thế
giới Cực Lạc. Tư lương cũng chính là lộ phí, cũng như bây giờ gọi
là Chi phiếu lữ hành. Muốn làm một cuộc lữ hành đến thế giới Cực
Lạc, trước hết phải có chi phiếu. Người muốn sanh về cõi nước của
Phật A Di Đà thì những người đó đều được bất thối chuyển nơi A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ~đề. Nếu người muốn vãng sanh về cõi nước Cực Lạc
đều có thể được ba thứ bất thối, tức là Vị bất thối, Niệm bất
thối và Hạnh bất thối; A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề cũng chính là
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. "Ở cõi nước kia", là ở thế
giới Cực Lạc. "Hoặc đã sanh", quá khứ đã phát nguyện, đã
sanh về thế giới Cực Lạc; "hoặc đang sanh", hiện tại phát nguyện,
hiện tại sanh về thế giới Cực Lạc; "hoặc sẽ sanh", vị lai
phát nguyện, cũng nhứt định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. "Cho nên
này Xá-lợi-phất", vì lý do ấy, nên này Xá-lợi-phất, "các hàng
thiện nam thiện nữ", cho nên tất cả thiện nam thiện nữ, "nếu
ai có lòng tin phải nên phát nguyện", giả như có những người tin
theo lời nói của ta thì phải nên phát nguyện. Đây là lời quyết định,
không nên chần chờ một chút nào. Nhứt định anh phải phát nguyện. Phát
nguyện thì có thể sanh về cõi nước kia, sanh về thế giới Cực Lạc.
Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay
khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật kia
cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của ta và nói như thế này :
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được những việc khó làm và ít có;
ở trong cõi nước Ta bà, trong đời ác năm trược : Kiếp trược, Kiến
trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược được quả A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngài giảng cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế
gian khó tin này.
Này Xá-lợi-phất, nên biết ta ở
đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó.
Phật nói Kinh này rồi, ngài Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả người,
trời, A-tu-la ... ở thế gian nghe Phật nói rồi đều hoan hỷ tin nhận,
lễ Phật mà lui ra.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo
thêm ngài Xá-lợi-phất : Ta lại nói cho ông biết một tin này, "như ta
hôm nay", giống như ta bây giờ đang khen ngợi công đức không thể nghĩ
bàn của bộ Kinh này, "chư Phật ở sáu phương cũng khen ngợi công đức
không thể nghĩ bàn của bộ Kinh này"; thế thì không phải chỉ riêng
ta khen ngợi chư Phật, mà chư Phật cũng lại khen ngợi công đức không thể
nghĩ bàn của ta nữa. Các Ngài nói : "Đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm
được những việc rất khó, ít có". Ngài thật là cao cả, Ngài thật
là rất khó được, làm được những việc mà người ta không làm nổi,
những việc khó, ít có trên đời Ngài đều có thể làm được. Người nào
nghe học Kinh này đều biết về ý nghĩa của Thích Ca Mâu Ni; Thích Ca là Năng
nhơn, Mâu Ni là Tịch mặc. Năng nhơn là giáo hóa tất cả chúng sanh. Tịch
mặc là hồi quang phản chiếu tu một thứ Định. Năng nhơn là động, Tịch
mặc là tịnh, thường động thường tịnh, động tịnh không hai, đó gọi
là tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Vị Phật này là đã tùy
duyên mà lại bất biến, đã bất biến mà lại tùy duyên, Ngài là
"Vô vi mà vô bất vi, vô tác mà vô bất tác", vì thế Phật Thích
Ca Mâu Ni là không thể nghĩ bàn. Có chỗ nào gọi là không thể nghĩ bàn ?
- Ngài hay ở cõi Ta-bà, Ta-bà là tiếng Phạn, dịch là Kham nhẫn. Kham năng
nhẫn thọ được điều gì ? Kham năng nhẫn thọ được những điều đau
khổ này. Bởi vì ở thế giới Ta-bà chỉ có khổ mà không có vui, nhưng
chúng sanh ở thế giới này có tánh nhẫn nại rất lớn, có thể nhẫn nại
được các thứ khổ ấy, ở cảnh giới khổ mà không biết là khổ, vì
thế nên gọi thế giới Ta-bà là đời ác năm trược. Thế giới Ta-bà có
năm thứ trược ác, thế thì rất xấu, mà Phật đã thành Phật được, tại
sao chúng ta không thể thành Phật được ư ? Nhân vì chúng ta bị đời ác
ngũ trược này vây hãm. Ngũ trược này giống như bùn vậy, chúng ta rút
chân này lên thì chân kia bị lún xuống, rốt cuộc không có cách nào rút
chân ra khỏi đời ác ngũ trược được. Nhưng Đức Phật Thích Ca rất
có bản lãnh, rất có thần thông, Ngài có thể bảo anh nhảy một cái là
ra khỏi ngay. Do nhảy một cái được ra khỏi nên có câu là "Trong một
sát-na lìa ngũ trược", trong một sát-na thì lìa được ngũ trược ác
thế mà "Ngay khi co duỗi đến Liên trì", cánh tay của tráng sĩ (võ
sĩ biết võ thuật) co lại duỗi ra một cái, gọi là trong khoảng co duỗi
cánh tay. Vì thế nói Phật Thích Ca là người có bản lãnh rất lớn.
Sao gọi là ngũ trược ?
1. Kiếp trược : Đó là thời gian
ô trược. Sự ô trược thời gian do đâu mà có ? Thời gian ấy, bốn trược
kia càng ngày càng thêm, càng ngày càng dữ dội và lấy sự gia tăng của bốn
trược kia làm bản thể của nó. Phải có sự giúp đỡ của bốn trược
: Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược có thể
biến thành Kiếp trược được. Cho nên Kiếp trược lấy sự gia tăng của
bốn trược kia làm bản thể, hừng hực mãi không ngừng làm tướng của
nó, như lửa càng cháy càng bùng lên là tướng của nó.
2. Kiến trược lấy năm lợi sử làm
bản thể của nó. Năm lợi sử là : Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến
thủ và Giới cấm thủ. Kiến trược lấy sự biết lầm về sáu giác tri
làm tướng, xưa nay là đạo lý đúng thật nhưng nó lại tưởng thiên lệch
thành ra tà tri tà kiến, ấy gọi là biết lầm về sáu giác tri.
3. Phiền não trược lấy năm độn
sử làm bản thể của nó. Năm độn sử là : Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, lấy
phiền não bức bách làm tướng.
4. Chúng sanh trược : Thứ trược này
lấy ba duyên hòa hợp làm tự thể. Ba duyên là duyên cha, duyên mẹ và nghiệp
duyên của chính mình. Lấy sự luân hồi không dứt làm tướng, có ba
duyên hòa hợp rồi mới luân hồi không dứt, lặn dầu này trồi đầu
kia, đời này họ Trương, đời sau họ Lý, hoặc đời này làm Tỳ-kheo-ni,
đời sau làm Tỳ-kheo, rồi đời sau nữa làm Tỳ-kheo-ni nữa. Sau Tỳ-kheo-ni
lại làm Tỳ-kheo nữa, thật là kỳ diệu biết bao ? Như thế chuyển tới
chuyển lui luân hồi không dứt.
5. Mạng trược : Mạng là sức
nóng, hơi thở và thức. Lại có thuyết là tuổi thọ, sức nóng và thức
làm thể, lấy sự rút mất tuổi thọ làm tướng. Từ nhỏ tới lớn, từ
lớn tới già, từ già tới chết, đó là tướng của mạng.
Trên đây là Kiếp trược, Kiến
trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược, Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni đã ở trong đời ác ngũ trược chứng được quả A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề, được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nói
cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin này. Anh xem đó ! Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni chính mình đã biết rõ, nói thứ pháp này là pháp rất
ít người có thể tin được. "Này Xá-lợi-phất, nên biết rằng";
Này Xá-lợi-phất, ông nên biết rằng : "Ta ở đời ác năm trược làm
việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nói cho tất
cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó". Ta ở trong đời ác
ngũ trược chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nói cho tất
cả thế gian nghe thứ Phật pháp rất khó tin này. Thật là việc hết sức
khó khăn. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói như thế, nhưng tôi (lời của
Thượng nhơn tự xưng) lại nói là rất dễ dàng. Tại sao thế ? Chỉ cần
niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật, cho nên rất là dễ dàng, đã không tốn
tiền lại không tốn sức, tốn thời gian, vì thế nói pháp môn này là một
pháp môn dễ dàng quá sức.
"Phật nói Kinh này rồi".
Phật Thích Ca Mâu Ni nói bộ Kinh A Di Đà này rồi, "ngài Đại trí
Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, cùng tất cả người, trời, A-tu-la" ...
A-tu-la này bao gồm các trời rồng tám bộ : Khẩn-na-la, Càn-thát-bà,
Ca-lâu-la v.v... "nghe Phật nói", nghe những lời Phật nói, đều
hoan hỷ tin nhận, lễ Phật mà lui ra. Những người ấy đều vui vẻ phi
thường, cúi đầu đảnh lễ tạ ơn Phật đã nói Kinh này để cứu độ
chúng sanh. Quý vị xem ! Trước kia những vị A-la-hán ấy đến cúi đầu
đảnh lễ Phật để tạ pháp. Quý vị bây giờ nghe được giáo pháp này,
đều là ngày xưa có căn lành lớn, c6 nhơn duyên lớn với Phật A Di Đà mới
có thể nghe được Kinh A Di Đà và niệm Phật A Di Đà đấy.
Phần I | Phần II