- Đạo Phật và Kinh Tế
- GS. Minh Chi
Một trong những bài học lớn của
khoa phân tích kinh tế (économétrie) là thừa nhận sự bất lực của mình
trong việc giải thích sự phát triển kinh tế bằng những yếu tố đơn
thuần kinh tế. Một trong những ông tổ của môn học này là Edward Denison
tuyên bố rằng, về cơ bản, ông không hiểu vì sao tỉ lệ phát triển
trong các năm 50 và 60 lại khác nhau. Ông cũng thú nhận như vậy sự bất lực
của mình khi tìm hiểu sự giảm sút của năng suất lao động trong những
năm 70.
Hiện nay, một số nước châu Á
đang dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển kinh tế. Đó là các nước
Nhật, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Hương Cảng, Sin-ga-po, và sau đó có thể
là Thái Lan và Sri Lanka (nếu kể riêng các vùng đô thị). Nghĩa là một
nhóm nước công nghiệp, có trọng lượng không kém gì 9 nước Tây Âu, và
với tốc độ phát triển nhanh hơn.
Các nước này có thể cho chúng ta
những bài học gì? Những cái gì là nổi bật trong những nước đó? Có
nét gì chung giữa các nước đó, có thể giải thích tốc độ phát triển
thần kỳ của chúng?
I. ĐIỂM QUA NHỮNG YẾU TỐ, KHẢ
DĨ ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC "CON RỒNG CHÂU
Á"
Tài nguyên tự nhiên ư? Các nước
ấy nói chung là nghèo tài nguyên tự nhiên.
Lương công nhân ở đấy rẻ mạt
chăng? Không phải, đó chính là những nước có mức lương công nhân trung
bình cao nhất ở Á Phi (hơn hẳn Ấn Độ và các nước Phi Châu).
Phải chăng họ thực hiện chủ
nghĩa tự do về kinh tế, và hạn chế sự can thiệp của Nhà nước? Cũng
không phải, ở Nhật, các công ty lớn tư nhân đều quan hệ mật thiết với
khu vực quốc doanh, nhưng Hương Cảng lại theo con đường tự do kinh tế rất
triệt để. Ở đây, tỉ lệ thuế trên mọi doanh thu là 15%, và Nhà nước
chỉ can thiệp mạnh vào khu vực nhà ở của dân chúng nghèo mà thôi, và
như vậy để tránh không để cho người nghèo bị bóc lột quá đáng về
mặt nhà ở.
Phải chăng những nước đó được
trang bị kỹ thuật hiện đại? Đó là trường hợp của nước Nhật mà hầu
như mọi trang bị kỹ thuật cũ kỹ đều bị phá hoại trong chiến tranh.
Nhưng còn các nước khác? Phải tìm hiểu động cơ gì đã thúc đẩy họ
tân trang lại kỹ thuật một cách thường xuyên như vậy? Phải chăng đó
là do sự du nhập của kỹ thuật Phương Tây? Nhưng các nước khác ở Á
Phi đều có thể du nhập kỹ thuật của phương Tây, nếu họ muốn!
Phải chăng đó là do chính sách
bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài?
Nhưng chính sách bán phá giá
(dumping) chỉ có ý nghĩa, nếu giá cả được nâng lên sau khi đã chiếm lĩnh
thị trường. Nhưng chúng ta lại không thấy quá trình đó xảy ra.
Phải chăng đó là do viện trợ của
nước ngoài? Thí dụ, Mỹ đã giúp đỡ nhiều cho sự phát triển nông nghiệp
và hạ tầng cơ sở giao thông và thông tin liên lạc ở Đài Loan, Mỹ cũng
viện trợ nhiều cho Nhật Bản và Nam Triều Tiên. Các công ty Anh đã đẩy
mạnh sự phát triển kinh tế của Hương Cảng và Sin-ga-po. Thế nhưng vì
sao có những nước được viện trợ nước ngoài nhiều, nhưng lại dậm
chân tại chỗ?
Phải chăng, những nước ấy đông
dân, tạo ra nhu cầu lớn của thị trường?
Nhưng trong số các nước ấy, có nước
đông dân như Nhật Bản với 105 triệu, có nước không đông dân lắm như
Nam Triều Tiên với 35 triệu, Đài Loan với 16 triệu, lại có những nước
ít dân như Hương Cảng với 4 triệu 5 (4,5 triệu), Sin-ga-po với 2,5 triệu.
Phải chăng có sự nhập cư hàng loạt
của nhân công nông thôn vào các thành thị công nghiệp?
Ở các nước khác cũng xảy ra quá
trình đó. Vấn đề là tại sao có sự thu hút nhân công như vậy từ nông
thôn?
Phải chăng đó là do chế độ chính
trị ở những nước đó, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế?
Nhưng chế độ chính trị ở các nước
đó khác biệt nhau rất nhiều. Từ nền quân chủ lập hiến khuynh hữu ở
Nhật đến chế độ độc đoán, lập hiến và khuynh tả ở Sin-ga-po, các
chế độ dân chủ, nhưng khá độc đoán ở Nam Triều Tiên và Đài Loan (do
hai nước này có nguy cơ bị xâm lăng), và chế độ thuộc địa khá tự
do, nhưng không dân chủ của Hương Cảng.
Phải chăng các nước đó có vị
trí gần biển? Nhưng nhiều nước cũng có vị trí gần biển như thế.
Như vậy là chúng ta đã duyệt qua
tất cả những yếu tố tự nhiên và kinh tế. Chúng ta hãy kiểm điểm những
yếu tố văn hóa, với những hệ quả tâm lý và xã hội của chúng. Có
thể nói, nét chung của nền văn hóa của các nước này là Phật giáo,
là thành phần Phật giáo trong nền văn hóa của các nước này. Tất nhiên
là còn có những thành phần khác của nền văn hóa, như đạo Khổng ở
Trung Hoa, Thần đạo ở Nhật, thế nhưng nét chung xưa nhất cho nền văn hóa
các nước hữu quan là Phật giáo.
II. PHẬT GIÁO VÀ KINH TẾ:
Ban đầu, nếu nhìn hời hợt,
chúng ta thấy hình như Phật giáo chống đối trực tiếp lại mọi thành tựu
kinh tế và kỹ thuật. Thí dụ, cái tâm linh của Phật giáo trái ngược với
cái vật chất, nội tâm trái ngược với kỹ thuật, nội quán trái ngược
với hành động, hướng nội trái ngược với hướng ngoại, sự tìm hiểu
bản thân trái ngược với sự tìm hiểu kỹ thuật và thị trường, với
sự tìm hiểu kiến thức về thế giới, sự cải tạo bản thân trái ngược
với sự cải tạo bối cảnh và môi trường, tinh thần xả trái ngược với
động cơ hành động, lý tưởng cuộc sống xuất gia trái ngược với sự
dấn thân nhập thế, sự đoạn trừ dục vọng trái ngược với lòng ham
muốn cuộc sống tiện nghi lợi nhuận, quyền lực, thành công, sự phát
triển; sự an tịnh nội tâm trái ngược với nhiệt tình hành động; ý thức
Phật giáo về sự vĩnh hằng trái ngược với phương châm thời gian là
vàng ngọc v.v...
Nhưng chúng ta không nên quên là Tin
Lành giáo đã sản sinh ra chủ nghĩa tư bản, mặc dù tín đồ Tin Lành sống
rất đạm bạc, chỉ hướng tới Chúa, chỉ mong được Chúa cứu rỗi. Và
ở châu Âu phong kiến, các tu viện Thiên Chúa thật sự là những mô hình
khai thác và phát triển kinh tế tốt nhất, thời bấy giờ, chúng đã thật
sự sáng tạo ra châu Âu kinh tế và kỹ thuật phồn thịnh ngày nay.
Phật giáo trước hết là một thể
tổng hợp văn hóa, quyết định thái độ của con người đối với thế
giới, đối với những người khác và đối với bản thân mình Phật
giáo đề cao cuộc sống đạm bạc, tri túc, tinh thần tập thể của mọi
quyết định quan trọng, tinh thần vô ngã, sự hy sinh cho lợi ích chung,
tính duy lý, sự phân tích tâm lý với thái độ bình thản, đối với mình
cũng như mọi người, ý thức sâu sắc về thời gian, về cuộc đời vô
thường, niềm tin ở sự tiến bộ không có giới hạn, ý thức sẵn sàng
trao truyền kinh nghiệm và kiến thức cho mọi người, ý thức không xem người
đồng sự là phương tiện vật chất (nhằm đạt mục đích của mình).
Những nước có một tỷ lệ tiết
kiệm và đầu tư cao nhất.
Muốn phát triển, phải tăng cường
đầu tư. Muốn đầu tư, phải tiết kiệm vốn. Tỷ lệ tiết kiệm vốn tùy
thuộc thái độ đối với sự hưởng thụ. Người Phật tử, cũng như
người tín đồ Tin Lành giáo, đã tạo ra chủ nghĩa tư bản châu Âu, có một
nếp sống đạm bạc, tri túc, và rất siêng năng lao động. Hơn nữa, ý niệm
sâu sắc về cuộc đời vô thường cũng thúc đẩy người Phật tử sống
đạm bạc và hướng về tương lai.
YÙ thức sâu sắc của người Phật
tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ
năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại. Người
Phật tử chú trọng đến hành động hiện tại hơn là kết quả của lao
động hiện tại, một sự hành động không có chấp thủ, nếu dùng một
khái niệm Phật giáo quen thuộcä. Trong cuốn "Đạo đức Tin Lành giáo
và tinh thần của chủ nghĩa Tư bản", Max Weber đã phân tích rõ các
nhà tư bản Tin Lành giáo thấy hoạt động kinh tế không phải là phương
tiện mà là cứu kính, là mục đích. Và Mác trong cuốn "Góp phần phê
phán chính trị kinh tế học" cũng viết:
"Một dân tộc sẽ vẫn đạt tới
đỉnh cao của phát triển công nghiệp, chừng nào mà điều chủ yếu đối
với nó không phải là lợi nhuận, mà là quá trình thu hoạch lợi nhuận"
Cuối cùng là ý thức về khả năng
tiến bộ không giới hạn của con người, khiến người Phật tử làm
việc khẩn trương tối đa, và luôn luôn học hỏi ở người khác giỏi hơn
mình. Học hỏi rất chăm chỉ. Người Phật tử thấy không cần phải
phát hiện lại những điều mà người khác đã tìm ra được, qua một quá
trình lao động khó nhọc.
Khi người Phật tử là Giám đốc
xí nghiệp, không xem công nhân như là phương tiện, mà là mục đích của
xí nghiệp mình phụ trách, thì điều đó không có nghĩa là hy sinh mục đích
cho phương tiện, mà là xem mục đích như là nội hàm (immanent), trong tất
cả mọi phương tiện được sử dụng để đạt tới mục đích đó. Điều
này giải thích một vài đặc điểm của các xí nghiệp Nhật, mà người
Tây phương với đầu óc thực dụng rất khó hiểu:
Công nhân rất mực trung thành và tự
hào với xí nghiệp của mình, thậm chí sẵn sàng tự nguyện chịu giảm lương
để xí nghiệp có thể khởi động lên và làm ăn có lãi, ít nhất 1/3 số
công nhân đảm bảo có việc làm suốt đời (tỷ lệ này còn cao hơn đối
với số công nhân ở thành thị), xí nghiệp săn sóc mọi mặt đời tư của
công nhân, săn sóc sự giải trí của công nhân, và để đền đáp lại,
công nhân làm việc thêm giờ tự nguyện, sáng kiến đến từ mọi cấp,
chứ không phải từ cấp lãnh đạo xí nghiệp mà thôi...
Các quyết định quan trọng của xí
nghiệp ở Nhật thường được bàn bạc, thông qua tập thể, và được toàn
thể công nhân xí nghiệp tán thành. Các quyết định trong Tăng già Phật
giáo cũng vậy, cũng phải được tất cả mọi thành viên Tăng già tán đồng
thì mới có hiệu lực. Có người hỏi, nếu vẫn có một thiểu số phản
đối thì làm thế nào? Phương pháp làm cho đến nay vẫn là mở rộng
thành phần tham dự, thí dụ mời Tăng sĩ của các tu viện ở gần tham gia
thảo luận, làm rõ vấn đề rồi bỏ phiếu, cho đến khi nào đạt được
sự nhất trí hoàn toàn mới thôi. Sự nhất trí tương đối không khó lắm
trong các hội nghị Tăng chúng là do Tăng già vốn có truyền thống cởi mở,
vô ngã, không cố chấp.
Hình như càng mở rộng thành phần
tham dự, thì càng có thêm nhiều dữ kiện hơn, nhiều thông tin hơn để đạt
sự nhất trí.
Kết quả, là giữa các thành viên
của cộng đồng, không có tinh thần cạnh tranh, ganh đua mà là tinh thần hợp
tác, đoàn kết vì lợi ích chung của cộng đồng. Kết quả là có nhiều
sáng kiến hay, xuất phát từ cấp dưới. Richard Tanner Pascale, trong cuốn
"Zen and the art of management" viết rằng trong một xí nghiệp Nhật Bản,
số sáng kiến xuất phát từ cấp dưới nhiều gấp ba lần so với số sáng
kiến của cấp trên.
Giám đốc xí nghiệp Nhật Bản
không chỉ huy và ra lệnh. Ông ta nghe, gợi ý, cho phương hướng, đánh
giá. Kết quả là so với xí nghiệp công nghiệp ở các nươc tư bản Âu Mỹ,
quan hệ trong các xí nghiệp Nhật Bản bình đẳng hơn, hài hòa hơn. Các
công trình nghiên cứu của Liên Hợp Quốc và của Ngân hàng thế giới chỉ
rõ, cánh kéo giữa lớp người giàu nhất và lớp người nghèo nhất ở Nhật
Bản là 4,3 so với 7,1 ở Mỹ, năm 1970.
Những tư tưởng Phật giáo cơ bản
giúp cho sự phát triển kinh tế
Thứ nhất là tư tưởng vô thường
giúp cho người Nhật dễ thích ứng với hoàn cảnh mới, yêu cầu mới,
công nghệ và kỹ thuật mới.
Tư tưởng đó của đạo Phật
tương tự như và thậm chí còn tiến xa hơn tư tưởng của Héraclite, là sự
vật không những thay đổi liên tục mà còn phải thay đổi. Và điều
này không có nghĩa là phủ định truyền thống mà duy trì những cái gì vẫn
còn có giá trị sống và tiến bộ trong truyền thống. Truyền thống không
phải là một sự áp đặt của quá khứ, mà là một nguồn biện pháp và
phương tiện đã được thử thách, có tác dụng thật sự đối với hiện
tại và tương lai. Theo quan điểm này, đổi mới kỹ thuật là tất nhiên
và tất yếu. Phải tán thành và phải tham gia vào đổi mới kỹ thuật. Nếu
cần phải đổi nghề và đổi mới cả lối sống, nó cũng hoan nghênh. Nó
giải thích và cho thấy trong những xã hội đó và cả những xí nghiệp
ở trong đó đều có khả năng tiếp thu những chuyển hướng căn bản, khi
cần thiết.
Một tư tưởng Phật giáo khác có
liên quan là sự thay đổi từ trong bản thân khi cần thiết, để thích
ứng với hoàn cảnh đổi mới. Đó là tư tưởng Phật giáo nổ lực tối
đa, cải thiện tối đa, đối với cá nhân cũng như đối với toàn xí
nghiệp.
Đấy là lí do của hiện tượng: sản
phẩm tốt và rẻ của các xí nghiệp Nhật Bản. Những người lãnh đạo
xí nghiệp Nhật Bản không thắc mắc quá đáng về vấn đề thị trường,
vì họ tin rằng một sản phẩm tốt và rẻ nhất định sẽ có thị trường.
Một đặc sắc nữa của tư tưởng
Phật giáo là chủ thể hòa nhập vào khách thể, là một hệ quả của
thuyết vô ngã Phật giáo. Người công nhân hay kỹ sư hòa nhập vào xí
nghiệp, và công việc chuyên môn của họ. Do đó, năng suất làm việc của
họ tăng lên rất nhiều. Ngay khi người công nhân Nhật Bản tổ chức bãi
công để bày tỏ nguyện vọng của mình, họ cũng tổ chức bãi công như
thế nào để đừng gây thiệt hại lớn cho xí nghiệp.
Tầm quan trọng của giáo dục và học
tập
Đạo Phật là đạo của sự giác
ngộ, của trí tuệ. Kẻ thù số một của nó là vô minh nghĩa là không
sáng suốt, không hiểu hay hiểu sai. Người công nhân và kỹ sư của xí
nghiệp Nhật Bản cũng vậy, họ xem học tập, nâng cao trình độ kiến thức
và nghề nghiệp của mình là mối quan tâm số một của họ. Người công
nhân và kỹ sư Nhật Bản học suốt đời, bằng một chương trình bồi dưỡng
có tổ chức. Còn người công nhân và kỹ sư phương Tây, khi xuất phát
có thể có một trình độ kiến thức và nghề nghiệp cao hơn so với công
nhân và kỹ sư Nhật Bản, nhưng đó là ở điểm xuất phát. Sau đó, người
công nhân và kỹ sư phương Tây ì ra để hưởng thụ suốt đời. Điều này
đúng cả với giai đoạn ngồi dưới mái học đường. Ở Mỹ, con cái
các gia đình Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên và Việt Nam nhập cư thường
học giỏi hơn nhiều so với sinh viên Mỹ và các nước phương Tây khác.
Khoa học và kỹ thuật là mẹ đẻ
của phát triển kinh tế. Nếu trong lịch sử phong kiến châu Âu, đạo Gia
Tô nhiều lần chống đối lại tiến bộ kỹ thuật thì trái lại, đạo
Phật cởi mở hơn, duy lý hơn, nó lấy thuyết nhân quả làm một chủ thuyết
nền tảng của nó, mà thuyết nhân quả chính là cơ sở của tư tưởng
khoa học hiện đại. Theo các nhà Sử học, thì chính các triết gia thuộc
phái Khắc Kỷ (stoiciens) ở Cận Đông đã du nhập thuyết Phật giáo đó
vào Hy Lạp và châu Âu. Nói cách khác, Phật giáo dễ dàng tiếp thu mọi tư
tưởng và phương pháp khoa học kỹ thuật hiện đại.
Đạo Phật là tôn giáo điển hình
không giáo điều và chống giáo điều. Phật tuyên bố: Ta không phải
là kẻ giáo điều mà là một người phân tích (analyste) (Kinh Soubha số
99|)
Tư tưởng chống giáo điều là một
tư tưởng tiến bộ và thúc đẩy tiến bộ trong tất cả mọi lĩnh vực,
đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh tế.
Một đặc điểm nữa của tư tưởng
Phật giáo là không bày tỏ lập trường đối với những vấn đề siêu
hình, do đó đã tiết kiệm bao nhiêu là thời giờ và sức lực, dành
cho tư duy và hành động sáng tạo. Tính thực tiễn đó của Phật giáo tiến
xa tới chỗ biết và làm hợp nhất. (Tri hành hợp nhất). Đó cũng là
một khía cạnh của tư tưởng phi nhị nguyên (non-dualiste) của Phật giáo.
Nó làm cho công tác lý thuyết có hiệu quả hơn, và công tác thực tiễn
đúng đắn hơn.
Một đặc điểm của công tác
giáo dục Phật giáo là vai trò lớn của ông thầy, của minh sư tức là
ông thầy sáng suốt, hướng dẫn một hay là một số đệ tử, trong học
tập cũng như trong mọi mặt khác của đời sống. Trong xí nghiệp công
nghiệp Nhật Bản cũng vậy, một thợ cả hay kỹ sư tài giỏi hướng dẫn
một số công nhân và học nghề, tạo thành một tập thể sản xuất nhỏ
rất đoàn kết và rất có hiệu năng.
Nói tóm lại, nề nếp tư duy và
công tác của đạo Phật có dấu ấn rõ nét trong tổ chức và lối tư
duy, lối làm việc của các xí nghiệp Nhật Bản, và luôn luôn phát huy
tác dụng như là những yếu tố phát triển kinh tế và sản xuất.
Tất nhiên, đạo Khổng cũng có vai
trò của nó, nhưng không có tầm cỡ như là đạo Phật. Đạo Khổng có thể
cung cấp mô hình của mối quan hệ cha con và thầy trò trong phạm vi xí
nghiệp, hay là tạo ra ý thức trung thành và thủy chung của công nhân viên
đối với xí nghiệp. Nhưng chỉ có chừng ấy mà thôi.
Hiện nay, ở phương Tây, kinh tế
đang dậm chân tại chỗ. Cuộc khủng hoảng kinh tế đang kéo dài. Nên học
ở các nước phát triển của châu Á một số bài học về tăng năng suất
lao động có quan hệ tới các lĩnh vực tổ chức, tâm lý và liên hệ cá
nhân.
Người ta thường nói là tiến bộ
vật chất có hại tới tiến bộ tinh thần và tâm linh. Đúng như vậy, nếu
tiến bộ kinh tế đó chuyển hướng sai, và nếu tinh thần và tâm linh quá
lạc hậu đối với tiến bộ vật chất và kinh tế. Còn trong trường hợp
các con rồng kinh tế của châu Á, thì như chúng ta thấy trong bài này,
chính tiến bộ tâm linh và tinh thần hướng dẫn và khởi động cho tiến
bộ vật chất và kinh tế.
Kết luận
Tuy đức Phật không bàn chuyên vấn
đề kinh tế, thế nhưng những ý kiến của Ngài phát biểu trong một số
trường hợp cá biệt về vấn đề kinh tế, rất đáng được chúng ta lưu
tâm, suy ngẫm. Đức Phật hết sức quan tâm đến động cơ và nội dung đạo
đức của mọi chính sách và thực tiễn phát triển kinh tế, trong khi các
nhà kinh tế học hiện đại lại rất coi nhẹ các vấn đề này. Đối với
họ, mối quan tâm hàng đầu là lợi nhuận, là mức tăng trưởng kinh tế.
Còn số lợi nhuận và mức tăng trưởng kinh tế đó đòi hỏi một trả
giá như thế nào về mặt đạo đức và xã hội, thì họ không quan tâm
hay là ít quan tâm.
Đức Phật khẳng định rằng mọi
hoạt động của con người - kể cả hoạt động kinh tế cũng vậy, đều
phải có nội dung đạo đức, nhằm tới hạnh phúc của bản thân cũng
như của đồng loại.
Bởi vì đồng tiền, không phải
thâu góp bằng bàn tay đạo đức, sẽ là con dao hai lưỡi, sẽ giết chết
người chủ của nó. Tôi muốn dẫn chứng lời của một nhà tỷ phú Mỹ,
J. Lynn, sau này đổi tên mình là Rajarsi Janakananda, khi trở thành một đồ
đệ trung thành của môn học Yoga Ấn Độ: Ông nói: "Khi tôi đã đạt
tới điểm đó (trở thành tỷ phú), thì tôi trở thành một người tha hóa
và thất vọng hoàn toàn. Tôi tưởng rằng đồng tiền sẽ đem lại cho tôi
hạnh phúc, nhưng không có gì làm tôi thỏa mãn được. Tôi sống thường
xuyên trong tâm trạng thần kinh khẩn trương, tình trạng căng thẳng, nội
tâm lo âu, không ổn định".. Cho tới khi tôi được gặp Paramahansa
Yogananda và bắt đầu tập Yoga với ngài Paramahansa Yogananda. Và với sự chỉ
dẫn của Ngài tôi đã đạt được sự bình thản, an tịnh, hỷ lạc và một
ý thức an toàn không có người nào đạt được, nếu chưa có được sự
hòa hài nội tâm".
Đồng tiền không thể là cứu
cánh của nhân sinh, nếu xem đồng tiền là cứu kính, nó sẽ làm cho con người
tha hóa và thất vọng. Giá trị của đồng tiền là ở chỗ nó là phương
tiện tạo ra môi trường thuận lợi cho sự tiến bộ đạo đức và tâm
linh của con người.
Phật không bao giờ ca ngợi sự
nghèo khổ. Trái lại, trong Kinh Kutadanta (Trường bộ Kinh) và Kinh "Chuyển
luân thánh vương tu hành" (Trường A Hàm), Phật giải thích là muốn trừ
nạn giặc cướp và trộm cắp thì dùng hình phạt hay là bố thí đơn thuần
đều không thể giải quyết triệt để vấn đề. Qua vị Bà la môn chủ tế,
ở triều vua Mahavijita, Phật giải thích là muốn loại trừ triệt để bọn
giặc cướp ở trong nước thì:
"Những người nào trong quốc
độ nhà vua, nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, thì nhà vua hãy cấp
cho những người ấy hạt giống và thực vật. Những người nào trong quốc
độ của nhà vua mà nỗ lực về thương nghiệp, thì nhà vua hãy cấp cho họ
vốn đầu tư, những người nào trong quốc độ nhà vua, nỗ lực về mặt
quan chức, thì nhà vua hãy cấp cho họ thực phẩm và lương bổng. Và những
người này sẽ chuyên tâm vào nghề nghiệp riêng của mình và sẽ không
nhiễu hại quốc độ nhà vua nữa. Và ngân quỹ nhà vua sẽ được dồi dào,
quốc độ sẽ được an cư lạc nghiệp không có tai ương, ách nạn và
dân chúng hoan hỷ vui vẻ, cho trẻ con nhảy đùa ở trong lòng, và sống với
nhà cửa mở rộng". (Trường bộ Kinh. trg 241 - 242)
Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì
muốn cho nước nhà được yên, ngân sách nhà nước dồi dào, mọi người
đều an cư lạc nghiệp, thì phải có một kế hoạch phát triển kinh tế
toàn diện hợp lý, đảm bảo cho nghề nông, nghề buôn bán đều có điều
kiện phát triển, đảm bảo cho công nhân viên chức có ăn uống đầy đủ,
và đồng lương sống tốt.
Nói chung lại, đạo Phật không ca
ngợi sự nghèo khổ, cũng như không phê phán sự giàu có. Bởi vì, giàu
nghèo chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu kính. Cứu kính là sự
an lạc thật sự của thân tâm, chỉ có thể đạt tới được bằng đạo
đức và trí tuệ. Không những kinh tế dồi dào, mà những điều quý
báu nhất của nhân sinh như là sức khỏe dồi dào, thọ mạng lâu dài,
dung nhan sáng đẹp v.v... tất cả đều phụ thuộc vào cuộc sống đạo đức
và trí tuệ. Trong kinh "Chuyển luân thánh vương tu hành, có đoạn dẫn
chứng lời Phật giảng cho các Tỷ kheo:
"Các ngươi phải siêng năng tu
các điều thiện, nhờ tu điều thiện mà mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm
tươi và được an ổn, khoái lạc, của báu dồi dào, uy lực đầy đủ..."
(Trường A Hàm - trg 327. Kinh Chuyển luân Thánh vương tu hành).
* * *
Đúng như vậy, chúng ta không phải
phát triển kinh tế, vì kinh tế, vì muốn thành con rồng mới của châu Á.
Mà chúng ta phát triển kinh tế là vì để cho tất cả người Việt Nam đều
được sống hạnh phúc trong một nước Việt Nam giàu và mạnh, không bị
ô nhiễm môi sinh, một nước Việt Nam có thể sống ngưỡng mặt với thế
giới, không bao giờ cam tâm chịu làm cái bãi rác cho một Tây phương công
nghiệp và ích kỷ.
Chúng ta thu hút vốn đầu tư để
phát triển kinh tế là vì hạnh phúc thật sự của con người Việt Nam, vì
sự giàu mạnh và độc lập thật sự của đất nước chúng ta, với một
môi trường sống được bảo vệ tốt, những kho tàng tài nguyên thiên
nhiên được khai thác và sử dụng hợp lý, vì lợi ích không những của
thế hệ hiện nay, mà còn của các thế hệ mai sau nữa, với những giá trị
văn hóa truyền thống, thắm màu bản sắc dân tộc mà tất cả người Việt
Nam chúng ta đều tự hào và phát huy, đổi mới một cách sáng tạo, qua
giao lưu tiếp xúc với các nền văn hóa nước ngoài.
Chúng ta phản đối một sự tăng
trưởng kinh tế, theo quan điểm kinh tế hẹp hòi, một sự tăng trưởng
kinh tế phải trả giá bằng môi trường sống bị ô nhiễm quá mức chịu
đựng của con người, bằng những giá trị đạo đức và văn hóa truyền
thống bị xói mòn và hủy hoại, bằng những tệ nạn xã hội cho lưu hành
không hạn chế, bằng sự suy thoái đạo đức, sự giải thể của gia đình,
sự mất niềm tin của lứa tuổi trẻ, thanh và thiếu niên, vì đây quả
là những mất mát vô giá, không thể bù đắp được bằng bất cứ một
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nào.
Đó là điều tất cả chúng ta - đặc
biệt là những người lãnh đạo đương chức ở cấp Trung Ương và địa
phương, cần phải suy ngẫm và tìm cách giải quyết theo những phương án
tốt nhất trong thời đại mở cửa và đổi mới hiện nay.
- Chân thành cám ơn cư sĩ Bình
Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử