- Nghi thức Tụng Niệm trong truyền thống Phật
giáo Nguyên thủy
- Bình Anson
Ghi chú: Trích lược từ quyển Nghi Thức Tụng Niệm,
Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, http://www.budsas.org/nghi-thuc/nthuc00.htm
A. Nghi thức và Thờ phượng
I. Nghi Thức
Nghi thức các khoá lễ
luôn luôn có 4 phần:
1. Tác bạch: Gồm cả
phần niêm hương cúng Tam Bảo. Phần tác bạch như một lời trình về
duyên sự của buổi lễ. Tiếp theo là bài thỉnh chư thiên. Đây là khởi
đầu của tất cả khoá lễ
2. Lễ Tam Bảo: Là phần
xưng tán ba ngôi Tam Bảo. Tất cả các thời khoá đều có phần nầy dù đầy
đủ hay giản lược.
3. Phần kinh văn: Gồm
những Phật ngôn hay kệ tụng phù hợp với tinh thần của khoá lễ đã xướng
trong lời tác bạch. Phần nầy có thể linh động. Vị chủ lễ có thể chọn
những bài kinh thích hợp với thì giờ, hoàn cảnh và căn cơ của những
người tham dự khoá lễ.
4. Phần hoàn kinh: Là
phần sau cùng của mỗi khoá lễ với kinh Từ Bi Nguyện, Hồi hướng và Phục
nguyện.
II. Thờ phượng
Sự thờ phượng nói
lên lòng kính ngưỡng đối với Tam Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt
đối cần thiết nhưng là trợ duyên thù thắng cho sự hành trì Phật
Pháp. Dưới đây là vài gợi ý.
Trang nghiêm là điều cần
lưu tâm trong sự thờ phượng. Nên thường xuyên lau dọn bàn thờ. Những
lễ phẩm cúng dường nên tinh khiết như nhang, đèn, hoa, trái.
Nên thiết lập bàn thờ ở
nơi trang trọng. Độ cao của bàn thờ chừng ngang vai trở lên là thích hợp.
Chỗ thanh tịnh rất tốt
cho sự lễ bái và tập thiền. Sự tỉnh lặng rất cần thiết cho sự tập
trung tinh thần.
Không nên xem thường yếu tố
thẩm mỹ. Hình thức trang nhã tạo nên sự hoan hỷ của mọi người trong
gia đình.
III. Tinh
thần của nghi lễ
Có mười hạnh lành
mang lại phước báu mà đức Phật gọi là Mười Phước Hạnh (pu~n~nakiriyuuvatthu).
Sự tụng niệm của người Phật tử dựa theo tinh thần của mười phước
hạnh nầy.
1. Bố thí. Danh từ nầy
cần được hiểu rộng theo kinh điển là bất cứ sự hy hiến nào dù là
cho, tặng, cúng. Cúng dường hương đăng hoa quả cũng được kể trong hạnh
lành nầy.
2. Trì giới. Giới là
quyết tâm tránh những nghiệp bất thiện. Ngũ giới, bát quan trai giới là
những luật nghi được Phật dạy cho người cư sĩ. Nên tụng giới trong
các thời khoá. Nếu có chư Tăng thì xin thọ giới.
3. Thiền định. Có
nhiều phương pháp thiền định nhưng nói chung hướng tâm đúng cách, đúng
đối tượng là phương pháp chính. Niệm Phật, từ bi quán cũng là một
trong những phép tập thiền. Trong tất cả các thời khoá tụng niệm đều
có cả hai phần nầy.
4. Cung kính. Là giữ
lòng kính quí đối với những giá trị cao thượng. Lòng cung kính nuôi đức
khiêm cung, giảm lòng kiêu căng ngã chấp. Trong hình thức lễ bái lòng cung
kính là điều tối cần.
5. Phục vụ. Là lòng
vị tha vì lợi ích cho người khác. Đối với người tu tập, tinh thần phục
vụ là cách hữu hiệu giảm thiểu thái độ vị kỷ, tự cô lập. Trong
các khoá lễ tụng niệm đều có ý nghĩa lợi tha qua các bài tác bạch cầu
an, cầu siêu và kỳ nguyện.
6. Thuyết pháp. Là sự
chuyển đạt những lời dạy có khả năng khai thị tri kiến. Hầu hết các
kinh văn là Phật ngôn. Tụng kinh là thuyết pháp cho mình và cho bất cứ ai
có duyên lành lắng nghe.
7. Thính Pháp. Là nghe,
học lời Phật dạy. Nghe pháp là tạo cơ hội cho tâm trí được suy tư
trong điều kiện khách quan. Tụng kinh có nghĩa là vừa thuyết pháp vừa
thính pháp.
8. Hồi hướng phước.
Là nguyện lành hồi hướng công đức đến tha nhân. Hồi hướng phước
không phải chỉ tăng phần công đức mà còn thể hiện được tình cảm,
bổn phận với người thân. Trong tất cả các buổi tụng niệm đều kết
thúc bằng lời hồi hướng phước báu.
9. Tùy hỷ phước. Là
cùng vui với phước hạnh của người khác. Niềm vui nầy biểu lộ lòng rộng
rãi không ganh tỵ và cũng là thái độ quý trọng thiện pháp. Lời tùy hỷ
"Saadhu, Lành thay" được dùng rất phổ biến tại các quốc gia Phật
giáo.
10. Huân tu chánh trí.
Là làm thế nào cái nhìn được sáng suốt và chân chánh. Người tu tập nếu
sống với tà kiến là làm hỏng tất cả công phu. Tụng kinh có cả hai
tác dụng định tâm và khai thị.
Người có tín tâm chuyên
trì tụng niệm lấy mười phước hạnh kể trên làm tinh thần nghi lễ
thì không bao giờ sợ lầm lạc và càng hoan hỷ hơn với sự tu học của
mình.
B. Xuất xứ,
Ý Nghĩa và cách dùng các kinh văn
Hầu hết các kinh văn trong kinh tụng Phật giáo Nguyên Thủy
là Phật ngôn trích từ Tam Tạng Kinh Điển. Theo tinh thần tụng niệm thì
uy lực nhiệm mầu của sự gia trì dựa trên bốn yếu tố:
a) Lời Phật là lời linh diệu. Đức Phật là bậc đại
bi đại đức. Những lời Ngài không phải chỉ đầy đủ nghĩa văn mà
còn chân xác, tương ứng với sự vận hành của thiên nhiên. Tôn giả
Ananda trùng tụng lời Phật thường với thoại đầu "Evam me sutam (tôi
nghe như vầy)". Dầu trong tông phái nào thì Phật ngôn là căn bản
của các kinh văn tụng niệm.
b) Chân ngôn là lời huyền nhiệm. Khi một sự thật được
nói lên có nhiều sức mạnh cả hai phương diện mật và hiển. Trong kinh văn
thường có câu: "Etena saccavaccena hotu me jayama"ngala"m -- Nguyện
nhờ chân ngôn nầy phát sanh điều cát tường". Khi tâm thành và ý
kinh được hợp nhất thì lời kinh được xem là chân ngôn.
c) Hiệu năng khai thị cũng là uy lực kinh. Đức Phật dạy
quả nhập lưu cao quý hơn đế nghiệp chuyển luân vương. Người tụng đọc
kinh văn tâm được tịnh, trí được sáng thì đã nhận được sự lợi lạc
to lớn của sự tụng niệm.
d) Đức tin trong sạch là hạt giống của thiện pháp. Tụng
niệm ân đức Tam Bảo là cách tăng trưởng niềm tin nhờ vậy tâm hồn hướng
thượng và sự tu học được vững tiến. Có thể nói đây là lợi ích
thiết thực mà sự tụng niệm mang lại.
Chính do bốn yếu tố trên, phần phụ lục nầy được thêm
vào nhằm giúp quí Phật tử tìm hiểu về xuất xứ, ý nghĩa và duyên sự
tụng đọc của các kinh văn.
1. Kinh Hạnh Phúc
Xuất xứ từ Kinh Tập
(Sutta Nipaata) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata P. 46 London 1984).
Tựa kinh Phạn ngữ: Mahama"ngala Sutta.
Chữ Hạnh Phúc được dịch thoát từ phạn ngữ
ma"ngala có nghĩa là cát tường hay điềm lành. Một vị chư thiên bạch
hỏi Phật cái gì là dấu hiệu tốt lành nhất trong cuộc đời. Đức Phật
trả lời bằng mười một bài kệ bao gồm ba mươi tám điều liên hệ mọi
lãnh vực tu thân, gia đình, xã hội... Vì đề cập đến cát tường nên
bài kinh rất thường được tụng trong các khoá lễ cầu phước. Những lời
dạy trong kinh trở thành kim chỉ nam cho đời sống người Phật tử.
2. Kinh Từ Bi
Xuất xứ từ Kinh Tập
(Sutta Nipaata), Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata P. 25 London
1984]. Tựa kinh Phạn ngữ: Metta Sutta.
Đây là bài kinh đặc biệt nói về lòng từ. Ba bài kệ đầu
dạy về những đức tánh cần thiết cho người muốn phát triển hạnh từ
ái; đoạn thứ hai gồm 2 bài kệ nói về đối tượng của từ tâm; phần
kế, 2 bài kệ đề cập những bất thiện pháp có hại cho lòng từ; tiếp
theo là phương thức tu dưỡng; và bài kệ cuối cùng là quả phúc của từ
bi. Bài kinh nầy được đức Phật dạy cho các tỳ kheo trì tụng nhằm mục
đích hoá giải những quấy phá của phi nhơn khi các thầy đang tu tập
trong rừng. Vì được giảng trong duyên sự như vậy, bài kinh thường được
dùng để bảo vệ sự bình an đối với những quấy nhiễu của chúng sanh
khuất mặt. Tất nhiên nội dung bài kinh là một cẩm nang cho người tu tập
lòng từ.
3. Kinh Châu báu
Xuất xứ từ Kinh Tập
(Sutta Nipaata) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata P. 39 London 1984].
Tựa kinh Phạn ngữ: Ratana Sutta.
Nguyên văn là Kinh Châu Báu nói về những giá trị vượt bực
ở đời. Ở đây Phật Pháp Tăng là những bảo vật trân quí nhất. Không
phải chỉ có lời tán thán mà là một trình bày khúc chiết đặc tính của
Tam Bảo. Qua đó người tu tập tìm thấy dấu ấn quan trọng trong hành
trình tâm linh của mình. Mười bài kệ trong số mười lăm đoạn của bài
kinh nói đến bản thể ưu việt của ba ngôi báu và liên hệ bất khả ly
của Phật Pháp Tăng. Cũng từ những đoạn nầy con đường tu tập và quả
vị giải thoát được trình bày một cách hàm xúc. Đức Phật dạy bài
kinh nầy tại Vesalì nơi đang bị ba tai ách bệnh dịch, nạn đói, và phi
nhân hoành hành. Tôn giả Ananda học thuộc lòng bài kinh và trì niệm trọn
đêm suốt hành trình ba vòng thành Vesalii. Kết quả mọi tai ách đều được
giải trừ. Cả tánh lẫn dụng của bài kinh đều đặc thù nên Kinh Châu
Báu trở thành quan trọng nhất trong các bài kinh cầu an.
4. Kinh Chuyển Pháp
Luân
Xuất xứ từ bộ Đại Phẩm
( Mahavagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya pitaka), cũng tìm thấy trong Tương Ưng Bộ
Kinh (Samyutta Nikaaya) [PTS Kindred Saying V. 420-431] Tựa kinh Phạn ngữ:
Dhammacakkappavattana Sutta.
Chuyển Pháp Luân nghĩa là chuyển quay bánh xe Chánh Pháp. Gọi
như vậy vì đây là bài pháp đầu tiên trong cuộc đời hoằng đạo của
đức Phật. Trong bài pháp lịch sử nầy, đức Thích Ca Mâu Ni đã trình
bày giáo lý Tứ Diệu Đế, đồ hình của giáo pháp, để giới thiệu con
đường tu tập giác ngộ. Ngài Kiều Trần Như, bậc thánh đệ tử đầu
tiên của đức Phật, nhờ nghe kinh Chuyển Pháp Luân mà liễu ngộ. Bài
kinh tạo nên một niềm hoan lạc vô biên cho khắp hàng thiên chúng. Điều
đó tạo nên một giá trị truyền thống trong nghi lễ đạo Phật. Bài kinh
được dùng trong các khoá lễ cầu an.
5. Kinh Vô ngã
Xuất xứ từ bộ Đại Phẩm
(Mahàvagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya pitaka I. 13-14) cũng tìm thấy trong Tăng
Chi Bộ Kinh Anguttara Nikaaya I. 57. Tựa kinh Phạn ngữ: Anattalakkha.na Sutta
Đây là bài kinh dạy về lý vô ngã qua phương pháp quán niệm
năm uẩn: xác thân, cảm thọ, nhận thức, hành hoạt và các giác quan. Kinh
chia làm bốn đoạn chính. Đoạn I nói về sự trạng vô hộ vô chủ của
năm uẩn. Đoạn II dạy về sự liên hệ tự nhiên của vô thường, khổ não
và vô ngã. Đoạn III xác định bản chất vô ngã của tâm lý, vật lý
trong mọi hình thái, không gian, thời gian. Đoạn IV nói về trình tự giải
thoát của hành giả quán niệm vô ngã. Nguyên văn được giảng từng uẩn
riêng biệt thích hợp cho sự tu tập quán niệm. Bản dịch gom chung năm uẩn
tiện cho sự tụng đọc. Bài kinh được đức Phật thuyết nhằm khai thị
năm tỳ kheo Kiều Trần Như đến quả vị hoàn toàn giải thoát nên thường
được tụng trong các khoá lễ cầu siêu.
6. Kinh Đáo bỉ ngạn
Xuất xứ từ các bản
kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ:
Dasapaaramii.
Đáo bỉ ngạn hay ba-la-mật là pháp hành của các vị bồ
tát trên đường hướng đến giác ngộ. Đáo bỉ ngạn có nghĩa là pháp
đưa đến bờ kia nên còn gọi là Pháp Độ. Mười ba la mật là bố thí,
trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí nguyện,
từ tâm và hành xả. Có ba bậc tu ba la mật: một là vì đại nguyện tu tập
hy sinh tất cả vật ngoại thân; hai là hy sinh tứ chi hoặc một phần thân
thể; ba là hy sinh mạng sống. Vì vậy mười pháp đáo bỉ ngạn được tính
là ba mươi. Bản dịch khai triển ý nghĩa từng pháp nhằm tác động tín
tâm tu tập. Theo truyền thống, bài kinh nầy lợi lạc cho kẻ hiện tiền lẫn
người quá vãng nên được dùng chung cho khoá lễ cầu an và cầu siêu.
7. Kinh Phật lực
Xuất xứ từ các bản
kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ:
Buddhajayama"ngalagaathà.
Kệ tụng đề cập tám trường hợp đức Phật hoán chuyển
nghịch cảnh. Những đối tượng cảm hoá gồm trời, người, mãnh thú. Đức
Phật dùng nhiều phương tiện khác nhau từ thần thông, đức độ cho đến
tuệ giác. Đây là những sự kiện tiêu biểu các chướng duyên xảy ra
trong quãng đời hoá đạo của đức Thế Tôn. Sự trì tụng bài kinh không
những mang lại năng lực nhiệm mầu mà còn là những bài học soi sáng
thái độ hành xử trước nghịch cảnh của người tu tập. Kinh nầy được
tụng đọc trong các khoá lễ cầu an, cầu tiêu tai.
8. Kinh Thắng hạnh
Xuất xứ từ các bản
kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ:
Jayaparitta.
Nội dung kinh đề cập ý nghĩa của sự kiết tường. Mở
đầu là hình ảnh của đức Phật với sự thành tựu đạo quả vô thượng
mang lại những tốt lành cho quyến thuộc và tất cả chúng sanh. Tiếp theo
là Phật ngôn về thế nào là ngày tốt, giờ tốt theo đạo lý thánh hiền.
Bởi vì đề cập đến pháp kiết tường nên bài kinh nầy thường được
đặc biệt dùng để chú nguyện trong các khoá lễ cầu an.
9. Kinh Lễ Chánh
Giác Tông
Xuất xứ từ các bản
kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ:
Sambuddhagaathaa
Là bài kinh lễ bái chư Phật. Bởi vì trong mười phương
ba đời có vô số Phật ra đời nên những con số được nêu ra có tánh
cách đặc trưng nói lên sự biến mãn của Phật giới. Những con số nầy
dựa theo thắng duyên gặp chư vị Thế Tôn của ba bậc đại bồ tát trong
suốt quá trình huân tu giác hạnh.
Bậc Trí Hạnh Đại Bồ Tát được thọ ký bởi hai mươi
tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua mười hai ngàn
vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua năm trăm ngàn vị
Phật.
Bậc Tấn Hạnh Đại Bồ Tát được thọ ký bởi bốn mươi
tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua hai mươi bốn
ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua một triệu vị
Phật.
Bậc Tín Hạnh Đại Bồ Tát được thọ ký bởi một trăm
lẻ chín vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua bốn mươi
tám ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua hai triệu
vị Phật.
Có hai ý nghĩa chính của bài kinh: thứ nhất là nói về
truyền thống của chư Phật, thứ hai nói về quá trình tu tập khó thể
nghĩ bàn của các đấng chánh đẳng chánh giác. Vì hai ý nghĩa nầy bài
kinh trở thành quan trọng trong các thời khoá cầu an.
10. Kinh Bồ Đề Phần
Xuất xứ từ
Abhiddhammasangaha (Thắng pháp Tập yếu Luận). Tựa kinh Phạn ngữ:
Bodhipakkhiyasangaha.
Nội dung kinh nói về ba mươi bảy pháp tu tập nằm trong
các thể tài căn bản pháp hành là tứ niệm xứ, tứ thần túc, tứ chánh
cần, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo. Đức Phật dạy
rằng những vị đệ tử Phật về sau có thể có những quan niệm dị biệt
về giáo pháp nhưng ba mươi bảy pháp bồ đề là pháp tu nền tảng chung của
tất cả. Các nhà sớ giải cũng gọi đề tài nầy là bản đồ tu Phật.
Bài kinh nầy tụng trong thời khoá nhật hành, đại chúng và cầu an.
11. Kinh Vô úy
Xuất xứ từ các bản
kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ
Abhayaparittagaathaa .
Niệm tưởng uy đức Tam Bảo để xua tan những âu lo, sợ
hãi là nội dung chính của bài kinh. Ở đâu có phước lành nơi đó là chốn
hội tụ của các vị thiện thần nhờ vậy tiêu trừ điều bất tường.
Cầu nguyện an lành cho tha nhân và xưng tán uy lực của chư Phật toàn
giác, độc giác và thánh chúng cũng là cách đem lại sự an lành thanh thản,
không sợ sệt. Kinh nầy đặc biệt tụng trong các khoá lễ cầu an tiêu
tai.
12. Kinh Quán Niệm
Xuất xứ từ Kinh Pháp Cú
(Dhammapada) và Kinh Tập (Sutta Nipàta)讠Tựa
kinh dựa theo nội dung quán niệm.
Đây là một sưu tập ngắn các Phật ngôn về ba pháp ấn:
vô thường, khổ, vô ngã. Sự suy niệm về thực tướng của đời sống
giúp khai thông những bế tắc do dính mắc, mê lầm tạo nên. Ba đoạn đầu
nói lên sự có mặt cùng khắp của vô thường, khổ, vô ngã trong ba cõi;
đoạn giữa dạy về sự chết và thái độ sáng suốt của người hiểu
đạo; ba bài cuối nói về con đường giải thoát xuyên qua sự liễu ngộ
thực trạng cuộc đời. Kinh nầy được tụng trong khoá lễ cầu siêu và
nghi thức nhật hành.
13. Kinh Duyên Sinh
Xuất xứ từ
Mahasaccakasutta, Trung Bộ Kinh I. M.I.237-251. Tựa kinh Phạn ngữ:
Pa.ticcasamuppaada .
Nội dung là một trình bày cô đọng về mười hai duyên
sinh. Đề tài nầy vừa trình bày tiến trình phức tạp tạo thành sự hiện
hữu của người, cõi, nghiệp vừa minh định cái nhìn của giáo lý Phật
đà không nằm ở những biên kiến hữu, vô, thường, đoạn. Đây là một
trong những giáo lý thâm sâu nhất của Phật Pháp. Theo truyền thống thì
bài kinh nầy có uy lực phá tan kiến chấp và được tụng trong khoá lễ cầu
siêu.
14. Kinh Suy Niệm về
Nghiệp
Phật ngôn sưu tập trong Tạng
Kinh (Sutta Pitaka)
Gồm những lời Phật dạy chỉ rõ về luật nhân quả và
đời sống. Qua bài kinh nầy, giáo lý nghiệp báo không những được minh
định trên nhiều phương diện mà còn là đề mục thiết thực để quán
chiếu trong lời nói, hành động và tư tưởng hằng ngày. Với nội dung
chân xác, kinh nầy có thể dùng trong tất cả khoá lễ nhằm mục đích soi
sáng tâm ý, vun bồi phước hạnh.
15. Kinh Vạn Pháp Tổng
Trì
Xuất xứ từ Bộ Pháp Tụ
(Dhammasangini), Tạng Diệu Pháp (Abhidhamma Pitaka).
Đây là một trình bày hệ thống về bản thể vạn pháp.
Mỗi tiêu đề (màtikà) bao gồm trọn "biểu đồ pháp giới". Những
chiết trung nầy được dùng để trình bày lý duyên hệ (paccayo) như những
thành tố năng duyên và sở duyên. Theo sớ giải thì đây là bài kinh có thắng
lực vượt thoát mê đồ vãng sinh lạc cảnh. Chính vì vậy Kinh Vạn Pháp
Tổng Trì trở thành chánh kinh cho các khoá lễ cầu siêu bằng Phạn ngữ.
16. Kinh Chúc Nguyện
Trích từ Kinh Tập (Sutta
Nipaata), Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikaaya)
Đây là một bài kinh chú nguyện được dùng nhiều nhất.
Mục đích là phát huy công đức và hướng nguyện. Ba hình ảnh được dùng
làm biểu tướng cho sự gia trì là biển cả đón nhận nước của muôn
sông rạch chảy vào; ánh trăng tròn toả chiếu đêm rằm; và ngọc như ý
ma ni khiến mọi ước vọng thành tựu. Y cứ trên công đức đã làm và hướng
nguyện theo Phật ngôn chúc phúc sẽ mang lại phước lành đầy đủ. Bài
kinh được dùng trong tất cả khoá lễ.
17. Kinh Hồi Hướng
Vong Linh
Trích Bộ Tiểu Tụng
(Khuddakapaa.tha), Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikaaya), tựa kinh Phạn ngữ:
Tiroku.d.dasuttam
Nội dung bài kinh là Phật ngôn được thuyết dạy trong một
duyên sự cầu phước cho thân nhân quá vãng. Nhiều người sau khi qua đời
sanh làm ngạ quỷ vì bất thiện nghiệp. Những hương linh nầy thường tìm
đến nhà thân quyến mong đợi phước lành hồi hướng. Đức Phật dạy về
sự tạo phước hợp đạo và làm thế nào hồi hướng đúng cách. Kinh nầy
được tụng trong lễ trai tăng và cầu siêu.
18. Kinh Ghi Ri Ma Nan
Đa
Trích từ Kinh Tăng Chi Bộ
(AnguttaraNikaaya), tựa kinh Phạn ngữ: Girimaananda.
Bài kinh dạy về mười phép nội quán vô thường, vô ngã,
bất tịnh, hệ lụy, đoạn tận, ly dục, tịch tịnh, vô trước, yểm ly và
hơi thở có công năng giúp hành giả thành tựu tuệ giác, khắc phục bệnh
căn. Đức Phật truyền dạy mười pháp môn nầy cho tôn giả Ghi Ri Ma Nan
Đa khi vị nầy đang bị bệnh nặng. Nhờ nghe kinh tôn giả khỏi bệnh. Do
duyên sự như vậy nên kinh nầy đặc biệt trì tụng trong các khoá lễ cầu
tiêu tai thân bệnh.
19. Kinh Tứ Niệm Xứ
Trích từ Kinh Trung Bộ
(MajjhimaNikaaya), tựa kinh Phạn ngữ Satipathana Sutta .
Đây là bài kinh căn bản của thiền quán. Một trình bày
toàn diện bốn lãnh vực quán chiếu từ sắc thân, cảm thọ, trạng thái
của tâm và sự tương quan các pháp. Bài kinh cũng nêu rõ về phương pháp
quán và những thành tựu do sự tu tập nầy mang lại. Trong tất cả pháp
hành, tứ niệm xứ được đức Phật dạy là cốt tủy của thiền định.
Sự thọ trì kinh nầy trên cả hai phương diện tụng niệm và thực hành
được xem là ưu việt nhất trong tất cả pháp tu dưỡng. Bài kinh được
tụng trong khoá lễ nhật hành và cầu an.
20. Kinh Lễ Bái Sáu
Phương
Trích đoạn từ kinh
Si"ngalovada (Kinh Thiện Sanh), Trường Bộ Kinh (DighaNikaaya).
Bài kinh nầy đức Phật dạy cho gia chủ Singàla về nghi lễ
trong đạo lý của thánh nhân. Vị gia chủ nầy lễ bái sáu phương theo tập
tục. Đức Phật dạy phép thờ phượng nằm ở sự quí kính và tôn trọng.
Sự quí kính chánh đáng nhất là làm tốt bổn phận. Sáu phương đông,
nam, tây, bắc, trên, dưới được hiểu như sáu cương vị quan hệ với một
người trong cuộc sống. Đó là quan hệ cha mẹ con cái, vợ chồng, thầy
trò, bằng hữu, xuất gia tại gia, chủ tớ. Những tương quan nầy nếu
được lưu tâm và làm tốt thì là cốt tủy của lễ nghi. Đức Phật đã
nêu lên một cách chi tiết về những gì đáng làm trong đời sống người
cư sĩ. Bài kinh được tụng trong các thời khoá nhật hành và đại chúng.
21. Kinh Sám Nguyện
Dựa theo tinh thần tu tập
truyền thống. Nội dung chính là sám hối mười bất thiện nghiệp từ thân
khẩu ý và những khiếm khuyết trong hành xử hằng ngày. Những tâm sám nầy
không phải chỉ phản tỉnh những gì thuộc quá khứ mà còn là những soi
sáng mọi hành vi trong đời người. Cũng trong nội dung kinh văn sám nguyện
có cả một trình bày toàn diện thế nào là tinh thần giới luật của một
cư sĩ Phật tử. Bài kinh nầy là bài tụng căn bản cho khoá lễ sám hối
cũng có thể tụng trong nghi thức nhật hành.
22. Kinh Lễ Hồng
Danh
Trích trong bản kinh tụng
truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy.
Xưng tán hồng danh của hai mươi tám vị Phật. Đây là những
bậc toàn giác đã thọ ký cho đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni trong giai đoạn
sau cùng của quá trình tu tập ba la mật hạnh. Kính lễ các ngài là bày tỏ
lòng qui ngưỡng đối với ân lành truyền đăng tục mệnh của chư Phật.
Nghi thức lễ bái nầy được trì tụng trong những duyên sự đặc biệt làm
tăng trưởng lòng tịnh tín và nghị lực tu tập.
23. Kệ Niệm Ân Phụ
Mẫu và Kệ Sám Hối Phụ Mẫu
Dựa theo tinh thần kinh
Sonadanta, Kinh Bổn Sanh (Jataka)
Là kệ tụng xưng tán ân đức cao dày của cha mẹ và lời
sám hối về lỗi lầm của con cái. Đức Phật dạy bất hiếu là trọng tội
và hiếu hạnh là thắng hạnh. Sự tâm niệm về thâm ân cha mẹ trong các
thời khoá tụng niệm là một cảnh tỉnh tâm linh. Qua đó thể hiện được
tinh thần tri ân và báo ân của người tu tập.
24. Kệ Phật Sử
Y cứ theo Kinh Phật Bản Hạnh
(Buddhacarita), Kinh Tiểu Bộ.
Nội dung tóm lược cuộc đời đức Phật tổ Thích Ca Mâu
Ni. Ba thời kỳ được nêu rõ là thân thế và đời sống của thái tử
Siddhattha, quãng đời trước khi thành đạo và những năm hoá đạo. Đức
Phật không những là hiện thân của những đức lành mà còn là một nhân
vật lịch sử với vô vàn cao đẹp. Cuộc sống và lời dạy của Ngài
không mảy may khác biệt. Bài kệ nầy được tụng trong các đại lễ và
các khoá tu.
25. Kệ Chiêm bái
Xá lợi
Dựa vào Biên Niên Sử của
Bộ Tiểu Phẩm, Tạng Luật.
Xá lợi Phật là phần di cốt của đức bổn sư Thích Ca
Mâu Ni. Lịch sử Xá lợi gắn liền với lịch sử Đạo Phật. Xá lợi và
cây Bồ Đề là những linh thể biểu tượng cho đức Phật được chính
Ngài cho phép tứ chúng thờ tự. Bài kệ nầy ngoài ý nghĩa tôn kính còn
nêu rõ những giai đoạn lịch sử và các sắc dạng xá lợi. Bài kệ được
tụng trong những buổi lễ chiêm bái xá lợi Phật.
26. Kệ Ba Pháp Ấn
Bài kệ trình bày các thực
tướng vô thường, khổ, vô ngã qua hiện thực đời sống. Với văn thể
bình dị, bài kệ hướng dẫn sự quán chiếu đối với mọi biến đổi,
phiền lụy của thân tâm. Kệ nầy được tụng trong các khoá tu học.
http://www.buddhismtoday.com/viet/nghithuc/viethoa-12-nghithucNamtong.htm