Hòa
thượng THÍCH THÔNG BỬU thế danh TRẦN THƯỢNG HIỀN, sinh ngày
02-09-1936 (Bính Tý) tại xã Xuân Quang 2, huyện Đồng Xuân, Tỉnh Phú
Yên. Ngài xuất thân trong gia đình nhiều đời thâm tín Đạo Phật. Thân
phụ là cụ ông Trần Qúa tự Nguyễn Nghiêm, pháp danh Thiện Hóa, thân mẫu
là cụ bà Nguyễn Thị Ngã, pháp danh Quảng Ngộ. Gia đình có ba anh em,
ngài là con thứ hai.
Thời
niên thiếu, ngài đã tham gia sinh hoạt gia đình phật tử huyện Đồng
Xuân. Sớm nhận ra đời người vô thường giả hợp, năm 1956 ngài xin song
thân cho xuất gia tu hành. Được song thân đồng ý, ngài đến chùa Long
Hà, xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân theo hầu Hòa Thượng Thích Như Tâm.
Đến năm 1957 ngài vào Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tìm cầu học hỏi Phật
pháp, duyên lành gặp được Hòa Thượng Thích Quảng Đức tại tổ đình Thiên
Bửu “thượng”, ngài khẩn cầu xin làm đệ tử và được Hòa Thượng hoan hỉ
tiếp nhận, cho pháp danh Đồng Phước.
Sau
đó, được tin thân phụ bệnh nặng ngài đành về lại quê hương chăm sóc,
khi người khỏi bệnh ngài trở vào Ninh Hòa theo thầy, thì lúc đó Hòa
Thượng Thích Quảng Đức đã trở vào
Nam hoằng hóa Phật pháp. Thầy trò không gặp nhau nên ngài cầu Hòa
Thượng Thích Viên Giác chùa Giác Hải Vạn Gĩa làm y chỉ sư nương tựa tu
học. Để có giới đức trang nghiêm thân tâm, thăng tiến trên đường giải
thoát, năm 1960 ngài đã thọ giới tỳ kheo Bồ Tát.
Đến
năm 1962, được tin Hòa Thượng Thích Quảng Đức phổ hóa Phật pháp tại
Sài Gòn, ngài xin Hòa Thượng y chỉ sư cho vào
Nam
gặp thầy tổ. Khi gặp lại Hòa Thượng bổn sư, ngài một mực hầu thầy,
tiến tu đạo hạnh và được bổn sư ban pháp tự Thông Bửu.
Gặp
lúc nước nhà đấu tranh dành độc lập, Phật giáo cũng không thể đứng
ngoài làm ngơ, nhất là năm 1963 Phật giáo bị lâm vào pháp nạn. Hòa
Thượng bổn sư và ngài dấn thân vào cuộc đấu tranh cho sự trường tồn
của đạo pháp và dân tộc, mà đỉnh cao của cuộc đấu tranh là ngọn lửa tự
thiêu của Bồ Tát Quảng Đức làm chấn động lòng người, kéo theo sự sụp
đổ triều đại Ngô Đình Diệm sau đó. Cuộc đấu tranh của Phật giáo không
dừng lại, mà vẫn tiếp diễn, tổ đình Quán Thế Âm trở thành nơi trung
tâm phát xuất những phong trào xuống đường rầm rộ ở Gia Định. Tổ đình
cũng là nơi cơ sở hoạt động nội thành, in ấn, phát tán tài liệu cách
mạng trước 1975, trong đó có in và bí mật phổ biến quyển Tù Chính Trị,
gây xôn xao dư luận quần chúng trong nước và nước ngoài thời bấy giờ.
Trước
khi tự thiêu, Hòa Thượng bổn sư gởi gắm ngài cho chư tôn đức Giáo Hội
giúp đỡ kế thế trụ trì tổ đình Quán Thế Âm. Với tâm nguyện phát triển
tổ đình làm nơi tu học cho hàng xuất gia và tại gia, năm 1965 ngài đã
cung thỉnh Hòa Thượng Thích Vạn Aân chùa Hương Tích, Phú Yên về tổ
đình chứng minh. Thời gian này ngài cầu pháp với Hòa Thượng, được ban
pháp hiệu Viên Khánh và được trao truyền pháp hành trì mật tông. Do
nhu cầu phật sự, Ban Đại Diện Phật Giáo tỉnh cung thỉnh Hòa Thượng
Thích Vạn Aân về lại Phú Yên làm chứng minh đạo sư Giáo Hội, nên ngài
cung thỉnh Hòa Thượng Thích Huyền Cơ về chứng minh tổ đình, tiếp tăng
độ chúng.
Ngài
luôn ý thức muốn đạt đến chỗ giải thoát, cần phải có pháp tu, do đó cả
cuộc đời ngài thực hiện theo sự chỉ giáo của Bồ Tát Quảng Đức về
phương pháp hành trì kinh Pháp Hoa và tu tập theo pháp mật tông của
Hòa Thượng Thích Vạn Aân. Đây là hai pháp môn ngài rất tâm đắc.
Đồng
thời nhận ra rằng, sự kế thừa mạng mạch Phật pháp phải cần đào tạo
tăng tài, nên năm 1964 ngài thu nhận 22 học tăng từ các tỉnh về Sài
gòn tu học, trong đó có những vị hiện nay đã thành danh như Hòa Thượng
Thích Quảng Thiện, Hòa Thượng Thích Tịnh Từ … . Năm 1965 ngài mở mang
tổ đình thành tu viện và từ đó cho đến nay ngài đã nhận 31 đệ tử xuất
gia và cầu pháp. Đặc biệt năm 1967, ngài mở trường hạ, tổ chức giới
đàn Sa di tại tổ đình, ngài làm hoá chủ kiêm đàn chủ. Những năm 1968 –
1974 liên tục mở các khóa an cư kiết hạ, mời giảng sư giảng dạy kinh
luật luận cho chư tăng.
Song
song với việc tiếp tăng độ chúng, ngài còn chú trọng đến công tác giáo
dục và đào tạo tăng tài, nên đã tham gia giảng dạy tại trường cao
trung Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Ngoài ra, ngài còn
giảng dạy những chuyên đề Phật học tại các trường Phật học và các
trường hạ khắp Bắc Trung
Nam
trong dịp hướng dẫn phật tử hành hương cúng dường an cư kiết hạ.
Để
phổ hóa sâu rộng giáo lý Đạo Phật vào quần chúng, năm 1964 – 1985 ngài
đã tổ chức đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa tại tổ đình Quán Thế Âm, giảng
dạy cho phật tử, tín đồ nắm rõ phương pháp tu hành. Năm 1991 ngài
thành lập sáu liên chúng đưa đạo tràng vào sự tu học có tổ chức. Cung
thỉnh 14 vị Hòa Thượng, Thượng Tọa thành lập Ban giáo thọ giảng dạy
giáo lý cho phật tử. Và ngài cũng quan tâm đến thế hệ trẻ, nên năm
1965 thành lập gia đình phật tử Chánh Đức, hướng dẫn các em học tập
giáo lý nhà Phật.
Chẳng
những quan tâm truyền bá giáo lý Phật giáo cho giới tăng ni, phật tử,
mà ngài còn cố gắng đưa tinh thần đạo Phật rộng khắp qua mảng văn hóa
để làm lợi lạc quần sanh như :
- 1965
sáng lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tập san “Sử liệu thức”.
- 1966
thành lập “Aán quán Phổ Đà Sơn” và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí
An Lạc, tuần báo An Lạc.
- Biên
soạn : Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa giảng luận 2 tập, Phổ Môn giảng
luận, Phật pháp căn bản, 25 bài giảng Phật pháp, Quản trị học Phật
giáo, 36 pháp điều thân.
- Sáng tác
: Giảng Sư Bảy Đức Tính Ưu Việt, Truyện ngắn triết lý Phật giáo bằng
tranh, Thi phẩm Từng Giọt Ma Ni.
- Chủ biên
nội san tổ đình Quán Thế Aâm (từ năm 1999 –2007).
- Phát
hành một số băng đĩa giảng Phật pháp của ngài, băng đĩa phổ nhạc một
số bài thơ trong thi phẩm Từng Giọt Ma Ni.
Ngoài
hạnh nguyện hoằng pháp lợi sanh, ngài còn tổ chức các chuyến hành
hương cúng dường các trường hạ trong nước suốt mười năm (1995 – 2005)
và vận động phật tử phát tâm giúp dân nghèo, cứu trợ đồng bào thiên
tai bão lụt.
Là
Trưởng tử của Bồ Tát Quảng Đức, được kế thế trụ trì tổ đình Quán Thế
Aâm (ngôi chùa thứ 31 và cuối cùng của Bồ Tát), ngài có trách nhiệm
trùng tu, mở rộng ngôi tổ đình thành nơi trang nghiêm thờ phụng tam
bảo và xây dựng cơ sở nhà tăng, phòng ốc để chư tăng có nơi tu học.
Qúa trình trùng tu đã thực hiện qua các giai đoạn :
- 1964 xây
dựng dãy nhà tăng.
- 1966 làm
lễ đặt đá trùng tu tổ đình.
- 1969
khởi công xây cất ngôi chánh điện.
- 1971 xây
dựng dãy nhà lưu niệm Bồ Tát Quảng Đức và phòng khánh tiết.
- 1983 tạo
tượng Bồ Tát Quán Thế Âm Thập Nhứt Diện.
- 1992 xây
bảo tháp Lửa Từ Bi và đúc tượng đồng Bồ Tát Quảng Đức.
- 1994 xây
bảo tháp chánh điện.
- 2000 đúc
tượng đồng Đức Phật Thích Ca.
Năm
1986 ngài còn khai sơn ngôi chùa Quảng Đức tại Mađagui, huyện Đạ Oai,
Tỉnh Lâm Đồng. Năm 1998 xây dựng nhà từ đường Bồ Tát Quảng Đức tại xã
Tu Bông, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Năm 2000 trùng tu chùa Thiên
Phước huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (ngôi chùa thứ 30 của Bồ Tát
Quảng Đức khai sơn). Năm 2002 tái thiết chùa Phước Huệ Hàm Long tại xã
Xuân Quang 2, Huyện Đồng Xuân, Tỉnh Phú Yên.
Mặc
dù Phật sự bề bộn, ngài vẫn dành thời gian tham gia công tác Giáo Hội
và đã giữ các chức vụ :
- Năm 1966
– 1975 Chánh thư ký Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định.
- Năm 1967
– 1974 Sáng lập viên Tổng Đoàn Thanh Niên Tăng Ni Sài Gòn – Gia Định
và giữ chức vụ Phó Tổng Đoàn .
- Năm 1972
– 1975 Tổng thư ký Tổng Vụ cư sĩ GHPGVNTN.
- Năm 1975
– 1977 Chánh Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định.
- Năm 1977
– 1981 Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ cư sĩ GHPGVNTN.
- Năm 2002
Đại hội Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ 5, Trung Ương GHPGVN chính thức
tấn phong ngài lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng.
- Năm 2003
Trung Ương MTTQVN mời ngài vào thành viên Hội Đồng Tư Vấn tôn giáo và
sắc tộc Trung Ương.
Ngài
tính tình vui vẻ, ưa chuộng văn chương, hiếu khách, giao thiệp rộng
rãi, nên được nhiều người kính mến, giới văn nghệ sĩ thường đến với
ngài. Các giới phật tử về tổ đình tu học ngày càng đông. Khách thập
phương đến chiêm bái, tìm hiểu về Bồ Tát Quảng Đức ngày càng nhiều.
Với
sự thông minh, ý chí và nghị lực phi thường, với tấm lòng bao la trải
rộng, ngài đã hy sinh suốt cuộc đời mình cho đạo pháp, quê hương và
dân tộc. Đến những năm tháng cuối đời, dù bệnh tật càng lúc càng nặng,
nhưng Hòa Thượng vẫn cố gắng tiếp tục giảng dạy Phật pháp cho chư tăng
ni, phật tử và vẫn chỉ đạo sự sinh hoạt tổ đình một cách đều đặn.
Trải
qua một thời gian lâm bệnh, dù được các cấp Giáo Hội quan tâm, môn đồ
pháp quyến chăm sóc chu đáo, các y bác sĩ bệnh viện tận tình chữa trị,
nhưng bệnh tình của ngài không thuyên giảm. Đến hồi nhân duyên đã mãn,
ngài thâu thần thị tịch tại tổ đình Quán Thế Âm lúc 21 giờ ngày 14
tháng giêng năm Đinh Hợi (tức ngày 02-03-2007), trụ thế 72 năm, 47
giới lạp. Tuy ra đi về cõi Phật, nhưng hình ảnh và đức độ của ngài vẫn
còn mãi trong lòng môn đồ pháp quyến, tăng ni và phật tử xa gần.
Cung
duy Quán Thế Âm đường thượng tự Lâm Tế Chánh Tôn Tứ Thập Tam Thế, huý
thượng Đồng hạ Phước tự Thông Bửu hiệu Viên Khánh hòa thượng giác linh
tân viên tịch đài tiền chứng giám.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/tieusu_ht_ThongBuu.htm