- Lễ Phật Đản 8-5-1963 tại Huế
- Trích hồi ký bác sĩ Erich Wulff
- Minh Nguyện dịch
Lời người dịch: Bài này được trích
dịch từ quyển Vietnamesische Lehrjahre (Những năm dạy học tại Việt Nam),
Suhrkamp Verlag, Taschenbuch Ausgabe , 1972, trang 129-142 với tên tác giả Georg W.
Alsheimer, bút hiệu của Bác sĩ người Đức Erich Wulff. BS Wulff dạy tại
trường Đại học Y khoa Huế 1961-1967, trong khuôn khổ viện trợ giáo dục
của Tây Đức. Vì một sự tình cờ, tác giả đã chứng kiến biến cố tại
Đài Phát thanh Huế đêm 8/5/1963 làm 8 Phật tử bị chết một cách thê thảm
và đã trình bày sự kiện này trước Ủy ban điều tra đàn áp Phật giáo
Việt Nam của Liên hiệp quốc vào tháng 9/1963.
***
Khi tôi cùng với Fred, Tuân (1), Phương và người chị tên
Hà đi dạo đến chùa Từ Đàm vào buổi tối ngày mồng 7 tháng 5 (1963),
chúng tôi cảm thấy có một điều gì đặc biệt đang xãy ra. Đó là buổi
tối trước ngày mừng lễ Phật Đản lần thứ 2507. Lá cờ năm màu của
Hội Phật giáo quốc tế được treo lên bên cạnh những cây lồng đèn đủ
màu trước mỗi nhà. Tại những quán ăn hay cà phê bên đường, người ta
thấy nhiều nhóm sinh viên, dân lao động và các vị lớn tuổi bận lễ phục
đang thảo luận một cách hăng say. Đêm hôm đó là một trong những đêm
hè đầu tiên trong năm. Sau cái nắng chói chan lúc ban chiều, nay người ta
cảm thấy được thoải mái hơn, mặc dầu khí trời chưa được dịu mát
cho lắm. Những mặt đường, những bức tường và các mái nhà đã được
nung nóng suốt ngày, nay bắt đầu nhả lại bớt cái nóng cho không khí bao
quanh. Nếu người ta tiến lại gần những vật nóng đó, người ta sẽ cảm
thấy chúng dường như đang rung động.
Trên các con đường người ta thấy quang cảnh của một ngày
lễ hội lớn. Những gia đình với đông đảo con cái đi đến viếng thăm
các ngôi chùa trang hoàng với nhiều cây lồng đèn hay đứng trố mắt nhìn
các quyền môn với nhiều ánh đèn néon sáng chói hay các hương án kết bằng
giấy đầy mầu sắc sặc sở. Không khí giống như là một ngày mừng lễ
chiến thắng vậy.
Fred kể cho chúng tôi nghe do đâu mà có không khí như thế.
Ngày hôm trước, đức Tổng giám mục Ngô đình Thục, người anh cả của
Tổng thống Diệm, đã thành công trong việc vận động chính quyền ban
hành một công văn truyền đi bằng điện tín cấm treo cờ Phật giáo quốc
tế. Sáng hôm nay đã có một viên cảnh sát theo đạo Gia tô giựt xuống một
lá cờ treo trên một hương án nằm bên đường. Chiều nay đã có những
toán cảnh sát đi vào nhiều nhà tư nhân và tịch thu các lá cờ bị cấm.
Điều này không thể làm cho giớ tăng già Phật giáo ngồi yên được. Họ
đã kêu gọi quần chúng Phật tử hãy đến phản đối sự cấm đoán này
trước tòa Tỉnh trưởng Thành phố Huế. Chiều nay đã có hàng ngàn người
biểu tình trước tòa Tỉnh trưởng và đòi thu hồi lại ngay biện pháp kỳ
thị kia. Đứng trước phản ứng mạnh mẻ bất ngờ đó, ông Tỉnh trưởng
đã ra lệnh cảnh sát tạm thời cho phép treo cờ Phật giáo vào dịp lễ mừng
ngày Phật Đản ngày mai. Ông ta cũng thông báo cùng các vị lãnh đạo Phật
giáo rằng ông sẽ can thiệp vào Saigòn để yêu cầu thu hồi lại lệnh cấm
đoán trên. Không khí tưng bừng tối hôm nay như thế là do kết quả của
cuộc biểu tình hồi chiều nay. Đám đông bắt đầu ý thức được sức
mạnh của mình khi cùng nhau tranh đấu cho một mục tiêu chung.
Trong những năm vừa qua, các người bạn của tôi như Tuân,
Miên và Quát (1) đã kể lại cho tôi nghe về sự căng thẳng ngày càng tăng
giữa chế độ và Phật giáo. Vào tháng 3 năm 63 tôi có đọc một bài viết
trên một tờ báo Thiên chúa giáo Pháp lên án thái độ "huyênh hoang đắc
thắng" của Giáo hội Thiên chúa giáo Việt Nam (sau này vào năm 65 tôi
có gặp tác giả bài báo đó, linh mục Nguyễn Ngọc Lan tại nhà bạn tôi
Raoul). Ngoài ra tôi còn nghe nói đến những khóa học về thuyết Nhân vị
do đức Tổng giám mục Thục tổ chức tại Vĩnh Long. Rất nhiều công chức
và sĩ quan không theo đạo Thiên chúa cũng phải tham dự. Nhiều người kỳ
vọng sau khi tham dự các khóa học đó sẽ được thăng quan tiến chức
nhanh hơn, trong số đó có tướng Nguyễn văn Thiệu sau này.
Tôi cũng có nghe nói đến trường hợp nhiều người đã
theo phe kháng chiến Việt minh hay những phe đối lập chính trị khác đã
phải đổi theo đạo Thiên chúa để khỏi bị công an làm khó dể. Toàn bộ
viện trợ thực phẩm của Hoa kỳ (Chương trình thực phẩm vì hòa bình)
đã bị Tổ chức xã hội Thiên chúa giáo và các linh mục tại các thôn
xã lợi dụng để vận động "cải đạo" trong quần chúng Phật tử.
Có một tin đồn nói rằng Tổng giám mục Thục muốn đổi đạo cho một
phần ba dân số Việt nam để hy vọng sẽ được phong làm Hồng y. Tôi cũng
biết rằng Giáo hội Thiên chúa giáo là tôn giáo duy nhất tại Việt nam
được công nhận như là một hiệp hội công cọng, trong khi đó Phật
giáo phải bằng lòng với tư cách của một hiệp hội tư, không khác gì một
hội đá banh. Tuy đây là một điều còn sót lại từ thời Pháp thuộc, nhưng
nay vẫn còn được áp dụng, mặc dù giới tăng già Phật giáo đã lên tiếng
nhiều lần yêu cầu thay đổi. Phật giáo phải xin phép chính quyền mỗi
khi muốn mở một bệnh viện hay trường học, muốn mua đất đai để xây
chùa hay tổ chức các lễ hội rước tượng Phật – một sự bó buộc
mà Thiên chúa giáo không phải tuân hành do tính cách được biệt đãi.
Trong vòng hai năm vừa qua, các đơn xin phép như thế của Phật giáo chỉ
được chấp nhận một cách khó khăn và thưa thớt , hay chỉ được cấp
rất trể nải, gây ra nhiều khó khăn về mặt tổ chức. Trong một quốc
gia mà có tới 80 phần trăm dân số tự cho mình là theo Phật giáo, mặc dầu
chỉ có khoảng một nửa là tham gia tích cực vào các nghi lể đạo Phật,
trong lúc chỉ có 10 phần trăm theo Thiên chúa giáo, những cố gắng cải đạo
hay những lôi kéo vì quyền lợi vật chất hay nghề nghiệp dành riêng cho
những con chiên ngoan đạo, cùng lúc với những biện pháp hành chánh kỳ
thị đối với Phật giáo tất nhiên đã tạo nên những sự bất bình và
lo lắng trong quần chúng.
Tất cả những căng thẳng này ở Huế, nơi trung tâm của
Phật giáo Việt nam, đã chưa dẫn đến một sự bùng nổ, là do sự khéo
léo của người em út của Tổng thống Diệm là ông Ngô đình Cẩn. Mặc dầu
ít học, không nói được tiếng ngoại ngữ nào, với thái độ vô cùng bảo
thủ và bài ngoại, Ông ta đã tìm được với các nhà lãnh đạo Phật giáo
tại địa phương một sự đồng thuận nào đó về mặt chính trị và ý
thức hệ, vì cùng có lập trường quốc gia cực đoan. Ông ta cũng không phải
là một người ngoan đạo. Ông ta chán ngán những lời khuyên bảo của
các linh mục trong những lần xưng tội, vì họ tìm cách khuyên ông hãy từ
bỏ những chuyến buôn gạo và súng đạn cho "Việt cọng" cũng
như những chuyến buôn thuốc phiện. Họ cũng đã chỉ trích Ông ta thanh
toán một cách không thương tiếc những kẻ đối thủ trên thương trường
hay đã can thiệp một cách trắng trợn vào công việc của chính quyền.
Ông ta bày tỏ thái độ không muốn trở về con đường thánh thiện của
một con chiên và cũng không nghĩ đến việc ủng hộ một cách tích cực
các cố gắng truyền giáo của Giáo hội Gia tô. Ngược lại, theo một lời
đồn đải, mỗi tuần vào ngày thứ bảy Ông ta ngồi uống trà với nhà sư
Thích Trí Quang và bàn luận về cách thức đẩy lùi các ảnh hưởng của
Tây phương trên các lãnh vực văn hóa, kinh tế cũng như chính trị. Ông ta
đã có lần nói với Linh mục Cao văn Luận, đương kim Viện trưởng Viện
Đại học Huế, một con người cởi mở và đứng đắn rằng: "Thưa
Cha, thế nào con cũng xuống địa ngục. Thế thì tại sao con không làm những
điều mà con thích". Và Ông ta thích có nhiều tiền, chơi đồ cổ, nhiều
quyền lực và buôn bán. Ông ta có riêng một vườn nuôi thú với nhiều hổ
và beo cũng như một lực lượng quân sự đặc biệt.
Những việc làm lộ liễu có tính cách băng đảng đó của
ông Cẩn, sự độc lập chính trị cũng như các hành vi coi thường đạo
đức đó của Ông ta đã thúc đẩy hai ông Diệm và Nhu phải vận động
Giám mục Thục đương nhiệm tại Vĩnh Long đổi về Huế đảm nhiệm chức
vụ Tổng giám mục. Năm 1960 đức cha Thục về Huế thật và đã giành lấy
nhanh chóng sự trung thành của những người cầm đầu nghành công an và
quân đội tại đây. Trung tâm quyền lực đã dần dần được chuyển từ
trụ sở băng đảng về tòa Tổng giám mục. Đồng thời một chiến dịch
tấn công Phật giáo, những kẻ được coi là "vô đạo và vô thần"
cũng được bắt đầu. Đức cha Thục với phương tiện tài chánh dồi
dào đã cho xây rất nhiều nhà thờ và chủng viện. Đức cha để cho các
vị linh mục dưới tay làm việc chung với Công an mật vụ và dùng Công an
mật vụ này để phục vụ tôn giáo của mình. Đức cha cho các viên chức
hành chánh hay quân sự hay rằng sự tham dự lễ nhà thờ mỗi chủ nhật sẽ
có lợi ích cho sự nghiệp của họ. Một cách bất ngờ những biện pháp
kỳ thị trước đây được thi hành một cách lỏng lẻo đối với Phật
giáo thì nay được siết chặt. Trường học không được xây cất nữa,
các lễ rước Phật chỉ được cho phép trong những dịp đặc biệt. Trong
các thôn xã nếu những ai không vâng lời các vị linh mục thì liền bị
tình nghi là chống đối chế độ, hay được coi là nối giáo "cọng
phỉ". Trong lúc ở tại Saigòn và Đà nẵng bắt đầu có những cơ sở
ăn chơi trụy lạc hay kinh tài mờ ám dính líu đến một vài người có
thanh thế của chế độ, thì ở tại Huế một phong trào bắt đầu hướng
về đạo Phật được coi như là để chống đối chế độ. Những người
sinh viên, tiểu chức và giới buôn bán nhỏ, trước đây quá lắm đi chùa
mỗi năm một lần do sự thúc dục của người mẹ hay vợ thì nay bắt đầu
tham gia hàng loạt những tổ chức Phật giáo như Gia đình Phật tử, Sinh
viên Phật tử, Tiểu thương Phật tử v.v…Như thế chính nhà cầm quyền
vô tình đã thúc đẩy một sự đối lập có tổ chức.
Một số lớn quần chúng Huế từ lâu đã tìm thấy trong
đạo Phật một định hướng tinh thần. Trong những năm 30 một phong trào
chấn hưng đạo Phật đã khởi đầu từ chùa Từ Đàm, lan tràn khắp miền
Trung và ra tận đến đồng bằng Cửu long. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết
và bác sĩ Lê đình Thám đã phát họa chung những nền tảng lý thuyết và
thực hành của phong trào chấn hưng này. Phật giáo cần được tổ chức
một cách thống nhất trên toàn quốc, do đó một Tổng hội Phật giáo Việt
nam đã được thành lập. Đồng thời các tu sĩ không còn phải học thuộc
lòng những kinh kệ để cúng tế hay làm phù phép, mà phải tu dưởng theo
con đường tu hành trong sáng của đức Phật và đem truyền bá những điều
đó đến các đệ tử hay những người quen biết. Hội Phật học tại
Saigòn cũng được thành lập trong tinh thần đó. Trong những chùa chiền mới
được xây cất, các hình tượng của những vị thần linh hay ma quỷ không
còn được trưng bày, còn tại các ngôi chùa cũ thì không được đem thêm
vào nữa. Các tu sĩ trẻ tuổi được gởi đến học tại các trường
trung hay đại học. Sự thành lập các trường học, cô nhi viện và nhà hộ
sinh chứng minh một sự tham dự vào các hoạt động xã hội và từ thiện
mà từ nhiều thế kỷ qua Phật giáo đã vắng bóng. Hiện tượng dấn thân
và về nguồn này cũng làm trỗi dậy trong những tín đồ và tu sĩ Phật
giáo tinh thần dân tộc yêu nước. Họ khám phá ra rằng chính một người
Á đông đã rao truyền một lối sống tâm linh và đạo đức đã được
toàn thế giới kính phục và đồng thời cũng là một con đường đem lại
hòa bình và hạnh phúc cho con người. Họ cảm thấy rằng "con đường
trung đạo" của đức Phật Thích Ca thích hợp với tâm tính người Á
đông hơn là đạo Thiên Chúa được nhập cảng từ phương Tây với lối
truyền giáo thô bạo đi cùng với sự xâm chiếm của giới thực dân và
xa lạ đối với những nguyên tắc đạo đức truyền thống của dân tộc.
Từ những nhận định đó, họ đã xích lại gần với đòi hỏi phải có
một Đông Nam Á mang tính chất Phật giáo, độc lập đối với Tây phương
về các phương diện chính trị và văn hóa. Họ nổ lực theo đường hướng
này, đúng ngay vào lúc mà người Mỹ có chính sách ủng hộ Tổng thống
Diệm chống lại Mặt trận Giải phóng, mà người Mỹ xem như làmột tranh
chấp quốc tế để "đẩy lùi lại Trung Cọng". Nhưng người Phật
tử thì lại xem như là một cuộc chiến tranh tôn giáo. Những người học
trò đầu tiên của Hòa thượng Thich Tịnh Khiết và bác sĩ Lê đình Thám
càng ngày càng cổ võ cho một nền văn hóa dân tộc mang tính chất Phật
giáo và một sách lược chính trị trung lập. Người ta có thể tìm đọc
cơ sở lý luận của khuynh hướng này trong những bài viết của Thượng tọa
Thích Trí Quang, vị lãnh đạo có uy tín chống chế độ Ngô đình Diệm
và những chính phủ quân nhân sau này của các tướng Khánh, Kỳ và Thiệu.
Tất cả những điều này tôi chỉ biết được một cách
mù mờ vào tối ngày mồng 7 mà thôi. Trước đó chỉ có một lần sau khi
đến Huế vài tuần, tôi có dịp tiếp xúc với giới tăng già Phật giáo,
khi được mời tham dự một buổi chiêu đãi dùng cơm chay nhân dịp có một
vị sư người Anh đến ghé thăm một chùa nhỏ tại ngoại ô. Sau đó vào
buổi tối tôi tháp tùng Hòa thượng Thích Mật Nguyện đến dự lễ đón
tiếp chính thức vị sư người Anh tại chùa Diệu đế nằm bên kia sông Hương
và tôi có dịp làm quen với sự trang nghiêm của nghi lễ Phật giáo. Tôi
ngạc nhiên vô cùng khi thấy rất nhiều người trẻ tham dự với một thái
độ thư thái và hớn hở. Trên khuôn mặt của họ, tôi không thấy vết
tích của một sự chán đời nào. Ngược lại người ta có thể cảm nhận
một sự tích luỹ của sức mạnh và ý chí, để được sử dụng vào một
ngày nào đó. Rất có thể ngày đó là ngày hôm nay.
Trên đường trở về lại nhà, chúng tôi gặp Orje va Hans.
Tôi kể sơ lược cho họ nghe về các biến cố ngày hôm nay. Họ liền nói
ngày mai họ muốn quây phim đoàn rước Phật lên chùa Từ Đàm cũng như buổi
lễ trịnh trọng trước bàn thờ vĩ đại đã được bày trước chùa. Họ
cũng muốn đem theo máy thu âm vì thế nào cũng có một lời tuyên bố của
một vị lãnh đạo Phật giáo về những biện pháp kỳ thị của nhà cầm
quyền và về những cuộc biểu tình đã xảy ra ngày hôm nay.
Sáng ngày hôm sau tôi thức dậy trễ nên không theo dõi được
phần đầu của đoàn rước, và chỉ có thể đứng nhìn đoàn người đi
qua từ lầu thượng căn nhà tôi ở. Tôi không thấy có gì đặc biệt đáng
để ý, ngoài những biểu ngữ thông thường chào mừng ngày đức Phật đản
sanh. Đến trưa, Orje và Hans về kể lại cho tôi nghe rằng Thích Trí Quang (đây
là lần đầu tiên tôi nghe tên vị sư này) đã lên án những biện pháp kỳ
thị Phật giáo, cũng như những hành vi nhục mạ các biểu tượng tôn
giáo của cảnh sát và tuyên bố rằng, các phật tử sẽ không khoanh tay ngồi
yên trước những khiêu khích đó. Sau đó là những lời hoà hoãn và Sư Trí
Quang đã nói lời cám ơn viên tỉnh trưởng đã ngưng thi hành lệnh cấm
treo cờ. Buổi lễ được chấm dứt trong không khí hòa bình và nhất trí,
và mọi việc có thể được xem như tạm giải quyết ổn thỏa.
Fred đã lấy máy bay trở lại Saigòn lúc buổi trưa và
Tuân và Phương thì muốn đi ngủ sớm. Do đó tôi quyết định đi xem xinê,
vì đinh ninh rằng sẽ không có gì xảy ra nữa đâu. Buổi tối hôm đó trời
thật nóng bức; khí trời dường như đã biến thành một khối nặng nề
và đứng yên một chổ khiến người bộ hành khó bước xuyên qua được.
Nơi một góc đường ở trước tòa Đại biểu chính phủ, tôi thấy một
đoàn người đông đảo đi không dứt và đổ xuống từ hướng chùa Từ
Đàm và di chuyển về con đường lớn. Tôi tự hỏi, buổi lễ hôm nay sao
chấm dứt sớm vậy. Nhưng tôi để ý thấy rằng rất nhiều người bước
đi một cách vội vàng. Chắc có chuyện gì đang xảy ra. Tôi bỗng nghe một
người nào đó gọi tên tôi. Đó là Tý, một người học trò của tôi,
mà tôi đã để ý ngay đầu năm học vì sự khôi hài và lanh lợi của anh
ta. Tý hỏi tôi muốn đi cùng đến nghe phát thanh lại bài nói chuyện sáng
hôm nay của Thích Trí Quang, bài này sẽ được phát đi trong vòng vài phút
nữa và sẽ được truyền ra bên ngoài bởi những loa phóng thanh đặt trước
trụ sở Đài. Anh ta muốn phiên dịch cho tôi bài nói chuyện đó. Tôi nghĩ
rằng đây là một cơ hội tốt để biết biến cố ngày hôm qua đã được
giải quyết êm thắm hay chưa.
Trong khuôn viên của Đài Phát thanh Huế nằm bên đầu cầu
Trường tiền bắc ngang qua sông Hương, một đám đông quần chúng đã tụ
tập ở đó. Mỗi phút lại thêm nhiều người đổ xô đến, đứng chật
ních lan ra đến hàng rào và ngã tư đường trước Đài. Lúc 9 giờ tối số
người lên đến khoảng 6000. Sau đó có một tin đồn truyền miệng nói rằng
buổi phát thanh đặc biệt hằng năm nhân ngày Phật đản nay đã bị cấm
vào giờ phút chót. Quần chúng Phật tử đã tụ tập đông đảo trước
đài phát thanh vì họ chỉ nghe trong máy thu thanh phát đi những bản quân
nhạc thay vì tiếng nói của Sư Trí Quang và dự đoán sẽ có những chướng
ngại mới sau lệnh cấm treo cờ ngày hôm trước, và để sẵn sàng phản
đối nếu cần thiết. Sinh viên, học sinh, người৩à và trẻ con đứng
xen lẫn bên nhau. Rất nhiều người còn dắt theo xe đạp. Lại có không
khí như một ngày lễ hội giống như ngày hôm trước. Mọi người nói
chuyện với nhau mặc dù chưa quen biết bao giờ.
Loa phóng thanh loan báo hiện đang có những cố gắng thương
thuyết với viên Tỉnh trưởng và khoảng nữa giờ nữa bài nói chuyện sẽ
được phát đi. Các tín đồ cần chứng tỏ quyết tâm bằng sự nhẫn nhục
chờ đợi trong sự yên lặng và trật tự. Một người học sinh nóng nẩy
đã đem treo lá cờ Phật giáo năm màu trên nóc nhà Đài phát thanh đã được
yêu cầu đem cờ xuống. Lâu lâu đám đông lại được yêu cầu kiên nhẫn
và giữ trật tự, mỗi khi có vài người hô to những câu chống chính phủ.
Chúng ta không chống chính phủ, giọng nói của một vị tu sĩ phát ra từ
loa, chúng ta chỉ đòi hỏi quyền lợi đã trở thành truyền thống của
chúng ta, và chúng ta sẵn sàn hy sinh khi cần thiết để bảo vệ niềm tin.
Từ từ đám đông trở lại yên tĩnh. O⮧ có biết Trần đức Thảo không,
một sinh viên đứng sau lưng tôi hỏi như vậy. Thảo là một triết gia, học
trò của Husserl và Heidegger, đã có cố gắng tổng hợp Husserl và Marx và
đã trở về Hà nội năm 1954. Những năm trước đây tôi có đọc về Hiện
tượng luận, do đó tôi biết tên ông ta. Nhưng điều mà làm tôi ngạc
nhiên, là ở thành phố Huế này, có người dám nêu tên ông một cách
công khai. Nhiều phụ nữ và trẻ con cùng hát những bài vui nhộn. Đám đông
ý thức được sự quan trọng của giờ phút này và uy quyền của chính
mình. Mỗi người đều tin tưởng rằng lần này viên Tỉnh trưởng cũng sẽ
nhượng bộ. Như thế một kỷ nguyên chính trị mới sẽ bắt đầu tại
Việt nam, trong đó quần chúng không còn là những thần dân cúi đầu chấp
nhận những kẻ cầm quyền cai trị theo ý trời.
Thình lình có một đoàn xe chạy lại. "Chúng ta cám ơn
vị Tỉnh trưởng đã đến với chúng ta, yêu cầu đồng bào nhường chỗ",
đó là giọng nói của Sư Trí Quang truyền qua loa phóng thanh. Dưới tràng
pháo tay viên Tỉnh trưởng tìm một lối đi giữa đám đông và biến mất
cùng với vị Sư vào trong toà nhà. Nét căng thẳng của đám đông càng
lúc càng tăng lên. Không biết cuộc thương thuyết bên trong xãy ra thế
nào?
Vài phút sau đó có tiếng ầm ầm của một đoàn xe thiết
giáp. Có tất cả năm xe thiết giáp xuất hiện. Một chiếc tìm cách đi thẳng
vào trong khuôn viên của Đài phát thanh. Nó dừng lại chỉ cách Tý và tôi
vài bước mà thôi. Dòng chữ trắng mang tên Ngô đình Khôi được kẻ trên
nền lục của phần trên sắt dày của chiếc xe thiết giáp. "Lẹ lên,
mau ra khỏi đây", Tý nói, "nó thuộc một binh đội đặc biệt tuyệt
đối trung thành với ông Diệm". Ngô đình Khôi là tên của người anh
cả của ông Diệm, đã bị Việt minh giết trong sự hổn loạn của năm
1945, lúc đó đang làm tỉnh trưởng tỉnh Quảng nam và từng cọng tác mật
thiết vì tư lợi trong nhiều năm với giới bảo hộ Pháp. Mặc dầu ông
Diệm có thái độ chính trị khác với ông anh, nhưng không bao giờ ông tha
lỗi cho người cọng sản đã giết chết anh ông và do đó từ chối mọi
sự hợp tác với Hồ chí Minh, ngay cả vào lúc mà một số chức sắc
Thiên chúa giáo ở tại miền Bắc đi biểu tình dưới lá cờ Việt minh chống
thực dân Pháp.
Chúng tôi tìm cách vượt qua hàng rào của Đài. Điều này
không dễ dàng. Hàng trăm người cũng cảm thấy tình hình trở nên đáng
lo ngại nên tìm cách chạy ra khỏi cổng ra vào rất hẹp của Đài. Nhiều
người tìm cách đem xe đạp của mình ra, một số khác phải quăng xe để
lại, nên người ta phải bước lên chúng để thoát ra ngoài. Vành xe, bánh
xe và tăm xe kêu rào rạo dưới chân người bước qua. Tý và tôi rốt cuộc
cũng nhảy qua được hàng rào cao 1,20 mét. Từ phía bên kia đường chúng
tôi có thể nhìn lại quang cảnh xảy trước mắt một cách rõ ràng hơn. Một
xe chữa lửa đang xịt nước lên đám đông đang thưa dần. Nhưng áp xuất
nước rất yếu để có thể gây sợ hãi cho người khác. Làn nước chỉ
có tác dụng đem đến sự mát mẻ trên các khuôn mặt và áo quần những
người có mặt, gây nên một tràn cười vui vẻ. Và rồi những phát đạn
đầu tiên được bắn ra từ nòng súng ca nông của xe thiết giáp ; chúng
tôi nghe khoảng 10 phát súng nổ kêu vang và khô khan. Như những người
chung quanh, Tý và tôi nằm rạp xuống đất. Tôi có thể nhìn thấy rõ
ràng đầu ngọn lửa phát ra từ họng súng của hai chiếc xe án ngự nơi bồn
tròn nằm phía đầu cầu Trường tiền. Sau tiếng súng là một chập im lặng.
Với một vài bước nhảy, Tý và tôi băng qua con đường lớn để vào
núp nơi một con đường nhỏ bên cạnh. Những người chung quanh chúng tôi
cũng làm như thế. Từng nhóm từ mười đến hai mươi người vung tay lên
bày tỏ sự bất bình của mình. Đúng vào lúc đó một loạt súng trường
bắt đầu nhả đạn. Một chiếc thiết giáp bắt đầu tìm cách phân tán
những đám nhỏ này. Chúng tôi tìm cách trốn bỏ đi và cuối cùng chạy về
được đến nhà của Orjes và Hans chỉ nằm cách chỗ tai biến khoảng 150
mét. Hans đang đứng trước nhà. Tôi kể cho anh ta nghe những gì đã xãy
ra. Tiếng súng sau đó đã ngưng. Hans hỏi, có ai chết hay bị thương không.
Chúng tôi không biết. Câu hỏi này làm chúng tôi bất an, rất có thể người
ta cần sự cứu thương. Cho nên chúng tôi ba người đi trở lại Đài phát
thanh. Giữa đường, trước khách sạn dành riêng cho cố vấn quân sự Mỹ,
tôi gặp Paul Miller, một người Mỹ còn trẻ làm việc trong Văn phòng trường
Đại học. Anh ta kể rằng ‘họ đã đi qua đây’. Thiếu tá Đặng Sỹ,
người cầm đầu đoàn quân, đã bảo anh ta phải tránh mặt đi chỗ khác.
Sắp có màn phải giết người, vì Ông ta đã nhận được lệnh từ cấp
trên đến dẹp tan vụ bạo loạn tại Đài phát thanh với bất cứ giá
nào. Ngay cả Paul cũng không biết có người chết hay không. Anh ta đã trải
qua trận bắn phá trong khách sạn "Cố vấn". Nhưng anh ta biết rằng
Thiếu tá Sỹ là một người Ki tô quá khích và là một người thân tín của
Tổng giám mục Thục.
Ngã tư đường trước Đài phát thanh giống như một bãi
chiến trường giờ đây hoang vắng. Vô số chiếc xe đạp cong queo và dày
dép đủ màu nằm ngổn ngang trên đường giờ đây đã vắng bóng người;
chỉ có một nhóm nhỏ thanh niên Phật tử cầm cờ năm màu đi về hướng
phía bên kia chiếc cầu, theo sau là một chiếc thiết giáp, thỉnh thoảng bắn
đuổi theo sát trên đầu người. Có hai viên cảnh sát đứng ở đó, nhưng
chắc cũng không rõ tại sao họ có mặt. Chúng tôi hỏi các người cảnh sát,
có gì trầm trọng không. Họ nói không biết gì và khuyên chúng tôi nên
vào nhà thương xem thử sao.
Trong khu nhập viện có khoảng 20 người bị thương đang nằm.
Không có ai bị thương trầm trọng cả. Họ chỉ bị trầy xước va trẹo
xương vì trong lúc hỗn loạn, họ đã bị đè bẹp và dẫm lên người. Họ
đang được chăm sóc bởi bác sĩ Tô đình Cự, trưởng phòng mỗ của bệnh
viện. Ông ta có vẻ hốt hoảng khi thấy chúng tôi xuất hiện. "Các
ông hãy về đi, đây không phải là chuyện của các ông. Chỉ có một vài
vết thương nhẹ, một mình chúng tôi cán đáng được rồi", Ông ta
nói như vậy. Khi chúng tôi sắp sửa ra về, thì có một người y tá trước
đây làm trong khu Tâm thần ra dấu kêu tôi lại. " Ông hãy vào xem trong
nhà xác", Ông ta nói khẻ bên tai tôi như vậy.
Nhà xác nằm bệnh cạnh nhà thương điên và do những lao
công của nhà thương này canh gát. Không có ánh đèn điện. Dưới ánh
sáng yếu ớt của đèn bạch lạp, chúng tôi thấy có bảy thân người đầy
máu me được đặt trên ba bàn khám nghiệm bằng đá. Từ chân đến ngực
thân thể họ còn nguyên vẹn. Nhưng năm cái xác – tất cả là trẻ em-
thì không còn đầu. Nơi một người phụ nữ thì có những vết đạn bắn
vào cánh tay, vai và cổ. Các xe thiết giáp đã bắn nát đầu các em thiếu
nhi, có lẽ vào lúc các em leo qua hàng rào của Đài phát thanh và nhô đầu
ra trước. Nếu như các em khôn ngoan như người lớn, tức là nằm xuống dưới
đất lúc súng đạn bắt đầu nổ, thì có lẽ các em đã không hề hấn
gì.
Cha mẹ của những người tử nạn đang thút thít khóc. Người
cha của một em bé gái đã chết yêu cầu chúng tôi chụp hình những xác
chết. Nhưng chúng tôi không có mang theo máy hình. Hans và Tý đi về kiếm
Orje, vì anh ta có đem về Huế đầy đủ máy móc. Khi tôi muốn quay đi không
muốn nhìn cảnh thê thảm này nữa, thì tôi chợt thấy bên cạnh cánh tay
của một xác trẻ em không đầu một con mắt dính vào một ít da đầu và
một khúc xương trán.
Trước nhà xác tôi gặp một vị sư trẻ tuổi của chùa Bảo
quốc và đang theo học tiếng Phạn tại Đại học. Ông ta đã trốn vào
nhà thương vì sợ bị bắt giữa đường. Tôi đưa Ông ta về lại chùa, tọa
lạc chỉ cách căn phòng tôi ở vài bước.
Khi về đến khu cư xá giáo sư đại học tôi vội bước lên
các tầng cấp để đến căn phòng của gia đình Giáo sư Krainick. Tình cờ
lúc đó bà Krainick đang đọc vào máy ghi âm bức thư gia đình hỏi thăm các
người con. Trong sự hốt hoảng lúc bà và ông chồng nghe tôi kể lại những
biến cố vừa xảy ra, bà đã quên tắt máy. Do đó mà có được lời tường
thuật đầu tiên ghi lại chỉ không đầy một giờ đồng hồ sau các biến
cố trên ; cuộn băng nhựa ghi âm này đã được dùng làm bằng cớ vào
tháng chín năm 1963 trước Ủy ban Việt Nam của Liên hiệp quốc, kèm theo với
lời khai danh dự chứng thật nguyên bản của Giáo sư Krainick.
Sau đó cũng vào khoảng 11 giờ 30 đêm, tôi đến đánh thức
ông bạn Tuân và cũng kể những gì đã xảy ra. Tuân tức thời hiểu được
tầm quan trọng chính trị của biến cố. Tuân nhận định rằng những cuộc
biểu tình khắp toàn quốc của các giới Phật tử sẽ làm giảm uy tín của
ông Diệm, và cuối cùng người Mỹ phải bỏ rơi ông ta. Quân đội vì sợ
cúp viện trợ sẽ tìm cách lật đổ ông ta. Tôi cần phải đi vào Saigon
để thông báo cho Miên và Quát biết, đồng thời tìm cách đưa tin cho các
hãng thông tấn Mỹ để họ khai thác biến cố này. Có một sự trùng hợp
là Giáo sư Krainick và tôi đã dự định từ lâu sẽ vào Saigon trong các
ngày tới để gặp ông bộ trưởng bộ Giáo dục và vé máy bay đã được
mua sẵn rồi. Đây là một cơ hội tốt để về thủ đô mà không ai để
ý.
Sáng hôm sau vào lúc 7 giờ vị sư trẻ mà tôi đã đưa về
chùa tối hôm qua đến gặp tôi và đưa hai bức thư nhờ chuyển đến Thượng
tọa Thích Minh Châu hiện đang du học tại Aᮠđộ và Tổ chức Phật giáo
quốc tế. Tôi được yêu cầu tìm cách chuyển ngầm hai bức thư này ra khỏi
nước. Trước khi chúng tôi lên đường ra phi trường Phú bài, Orje xuất
hiện và giao cho tôi cuộn phim chụp tối hôm qua. Nửa giờ trước khi cảnh
sát cấm không cho ai vào nhà xác , anh ta đã chụp được tất cả xác những
người chết. Giáo sư Krainick bỏ cuộn phim vào túi quần của Ông ta – để
phòng trường hợp cảnh sát đã ngửi biết được sự có mặt của tôi tại
nơi xãy ra tai biến và sự lục lọi sau đó của chúng tôi tại bệnh viện.
Nhưng ở Phú bài hay tại Saigòn không ai để ý gì đến chúng tôi. Chắc hẳn
đối với mật vụ của ông Diệm, các biến cố đã xãy ra một cách quá
bất ngờ và không ai tính đến chuyện sẽ có những nhân chứng ngoại quốc.
Cùng với ông Krainick tôi thuê một căn phòng tại khách sạn.
Tôi tìm đến Miên (1) liền và đánh thức Ông ta ra khỏi giấc ngủ trưa.
Ông ta mở cửa cho tôi mà đang còn ngáy ngủ và mặt mày nhăn nhó. Nhưng bộ
tịch Ông ta thay đổi liền sau khi hiểu được vấn đề. Thái độ tính
toán của Ông ta là một gáo nước lạnh vào sự phẩn uất và nóng lòng của
tôi. Giống như Tuân, Ông ta chỉ nhìn thấy nơi những xác chết những con
bài sáng giá có được một cách bất ngờ trong công cuộc vận động chống
chế độ độc tài. Trong lúc Tuân chống chế độ độc tài vì chịu
không nổi những bất công thì đối với Miên, đây chỉ là một mưu toan
nội loạn. Miên thay áo quần và chúng tôi kéo đến nhà Quát. Ông này cũng
được đánh thức ra khỏi giấc ngủ trưa. Sự điềm tĩnh và trịnh trọng
thường lệ của Ông ta bỗng chốc đã biến thành một sự kích động sau
khi đã nghe tôi kể chuyện. Phải tạo một thế liên minh tức khắc với
Phật giáo, trước khi người khác cùng có ý tưởng này. Sự việc đã có
nhiều người chết chỉ là chuyện bên lề đối với ông ta. Ông ta nhận
lấy cuộn phim từ tay tôi và hứa sẽ nhờ người thân tín sang ra khoảng
12 bản trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Sau đó chúng tôi trở về lại khách
sạn, vì lúc 5 giờ chiều Giáo sư Krainick và tôi có hẹn với ông bộ trưởng
giáo dục.
Nội dung của buổi tiếp kiến này chỉ còn lưu lại trong
trí nhớ của tôi một cách rời rạc. Dự thảo xây dựng những trung tâm
lâm sàn cho trường đại học đã được bàn đến. Ông Krainick và tôi đã
chiết tính phí tổn xây cất và bảo quản, kê những dụng cụ cần thiết
cần mua và những đề nghị xin tài trợ. Đó là một trong những đồ án
phát triển toàn hảo về mặt kỹ thuật, nhưng nếu xét về các mặt
chính trị, kinh tế và tâm lý thì là hảo huyền, mà bất cứ một người
cộng tác viên ngoại quốc nào đầy thiện chí đều đưa ra trong những
năm đầu tiên đến nơi quốc gia mình muốn giúp. Trong lúc nói chuyện, thật
tình hồn vía của tôi để chỗ khác. Giọng nói của Giáo sư Krainick, của
ông Bộ trưởng, và ngay cả của chính tôi đã xa rời thực tại, tất cả
đối với tôi như tiếng phát âm ngây ngô của những người gỗ được lên
giây cót; những cử chỉ buồn cười của ông bộ trưởng, những cúi đầu
thái quá của ông Krainick và ngay khuôn mặt dài thòn ra của chính tôi đã
khiến tôi muốn bật cười. Lúc cuộc nói chuyện kết thúc, tôi có cảm tưởng
giống như một người điên được thả ra lầm trước cửa nhà thương
điên.
Buổi tối hôm đó Raoul mời tôi ăn chung với hai nhà báo,
phóng viên người Mỹ Neel Sheehan và người UNick Turner. Lúc tôi kể cho họ
nghe về những gì đã xảy ra ở Huế, họ nghi ngờ không tin tưởng chút
nào lời kể của tôi. Chuyện xảy ra đối với họ quá động trời, nên
họ không muốn đụng chạm đến nếu không có một đảm bảo nào. Sau khi
tôi đưa cho họ xem các ảnh do người của ông Quát sang, họ nhẩy đẩy lên
và lôi giấy bút ra để ghi chép. Ngay trước nửa khuya họ đã chuyển đi
bằng máy viễn ký những bản tin đến khắp thế giới. Vì Turner làm việc
cho hãng thông tấn Reuter, Sheehan cho hãng UPI, tôi hy vọng sẽ đọc được
những hàng chữ lớn trên báo chí khắp năm châu. Một sự lầm to, một sự
ngây thơ làm sao! Sau 48 tiếng đồng hồ, tôi phải nhận ra rằng, ngoại trừ
đài Hà nội, không một đài phát thanh nào đưa tin, ngay cả những tờ báo
lớn như Le Monde, New York Times đều im bặt.
Không chịu bó tay, tôi quyết định lấy máy bay qua Phnom
Penh. Chính quyền căm bốt trong thời gian qua đã bị chính quyền ông Diệm
đả kích dữ dội vì đường lối ngoại giao trung lập. Vào cuối những năm
50, cơ quan phản gián Mỹ CIA với sự cọng tác của một vài điệp viên
Việt nam đã tìm cách lật đổ chính quyền của hoàng thân Sihanouk, nhưng
đã bị thất bại. Chính Miên và một người lanh lợi khác tên là Đặng
đức Khôi đã điều khiển công tác này. Ở Lào thì họ thành công hơn.
Tướng Phoumi Nosavan đã lên nắm quyền với sự giúp đỡ của họ và CIA.
Thái độ không thích chế độ ông Diệm của hoàng thân Sihanouk làm tôi hy
vọng có thể đạt được một kết quả nào đó trong việc báo động của
tôi. Từ nơi đó, tôi cũng có thể viết thư cho một vài tờ báo Tây Đức
kèm theo với những hình ảnh do Orje chụp và gởi lá thư mà vị sư trẻ
người Huế nhờ tôi chuyển đến Thượng tọa Thích Minh Châu. Ngoài ra cuộn
phim có những âm bản chụp những xác chết làm tôi không yên lòng chút
nào. Chừng nào những âm bản này chưa ra khỏi Việt Nam, thì tôi còn lo lắng
cho an ninh của ngay chính bản thân tôi…
BS Erich Wulff
(1) Vì bài tường thuật được phổ biến lần đầu tiên
năm 1968 tại Tây Đức trong lúc chiến tranh đang xãy ra dữ dội tại Việt
Nam và để tránh những hệ lụy không tốt cho các nhân vật trong bản hồi
ký, tên thật của rất nhiều người bạn của tác giả đã được ghi dưới
một tên khác, như Tuân tức là Giáo sư Bùi tường Huân, sau này sẽ làm bộ
trưởng và thượng nghị sĩ, Miên tức là Đại sứ Bùi Diễm, Quát tức
là Thủ tướng Phan huy Quát sau này v.v…
(Dịch để tưởng niệm 8 vị Thánh tử đạo đêm 8/5/1963
tại Đài Phát thanh Huế)
- Nam mô A di đà Phật.
- Phật tử Minh Nguyện,
- Tây Đức tháng 4-2001
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vande/008-minhnguyen-phatdan63.htm