- NHẬN THỨC THẾ NÀO LÀ TAM BẢO?
- TT. Thích Thiện Bảo
A. KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT
Trong đời sống con người quan tâm nhất là ngọc ngà,
châu báu, địa vị xã hội nhưng đối với Phật giáo thì Tam bảo là ba
ngôi quí báu, nhưng chúng ta không thể nào tìm thấy trong đời sống vật
chất. Tam bảo mang những đức tính cao quí đem đến cho con người để
con người nhận chân được giá trị của đời sống, mà chúng ta gọi là
chân lý như ngọn đèn sáng soi đường đi trong đêm tối, như chiếc thuyền
đưa mọi người vượt qua cơn sóng dữ.
Tam bảo được hình thành từ khi Đức Phật chuyển pháp
luân lần đầu tiên ở vườn Lộc Uyển độ cho năm anh em Kiều Trần
Như. Đức Phật Thích Ca là Phật bảo. Giáo lý tứ đế là Pháp bảo, năm
anh em Kiều Trần Như là Tăng Bảo. Từ đây Tam bảo là công năng giúp con
người thoát khỏi khổ đau trong đời sống hiện tại cho đến tương lai.
Nhận thức được như vậy tức là chúng ta thấy được giá trị cao qúi
của Tam bảo.
B. NỘI DUNG TAM BẢO
I/ PHẬT BẢO
Tiếng Phạn gọi là Buddha, Trung hoa dịch âm là Phật Đà,
dịch nghĩa là người Giác Ngộ, tỉnh thức, hay còn gọi là Bụt. Chử Phật
là nhằm chỉ chung cho những bậc đã giác ngộ. Một vị Phật có 10 hiệu
(thập hiệu)Phật bảo có những ý nghĩa như :
1) Tự giác: Tự mình nhận chân được chân lý sự vật
hiện tượng.
2) Giác tha: Sau khi hiểu được chân lý đem sự hiểu
đó truyền cho người khác hiểu như mình.
3) Giác hạnh viên mãn: Thực hiện được tự độ và
độ tha là hoàn thành một cách tròn đủ đức tính của Phật.
Phật có ba đức tính (tam
đức)
-- Đoạn đức (Pháp thân đức): đoạn trừ tất
cả phiền não lậu hoặc.
-- Trí đức (Bát Nhã đức): sử dụng được
trí tuệ, nhằm thực hiện các pháp lành thành tựu sự giải thoát.
-- Ân đức (Giải thoát đức): luôn luôn làm lợi
ích cho chúng sanh giúp chúng sanh thoát khỏi được sự khổ đau.
II. PHÁP BẢO
Tiếng Phạn gọi là Dharma, Trung hoa dịch âm là Đạt ma, dịch
nghĩa là Pháp, gồm có tam tạng thánh điển: kinh, luật, luận. Trong kinh A
Hàm co 馣273;ề cập đến 5 công năng của Pháp
:
- 1) Thiết thực ngay trong hiện tại.
- 2) Làm cho người thấy được tự tánh chi鮨 mình.
- 3) Có khả năng giúp chúng sanh đạt đến Phật qủa : "Ta là Phật đã
thành, các ngươi là Phật sẽ thành."
- 4) Vuợt ra ngoài thời gian và không gian.
- 5) Tu tập có kết qủa tức thì.
Giáo lý của Phật lưu truyền từ đời nầy sang đời
khác giúp cho con người nương nơi đó mà tu tập đễ đạt được sự an
lạc giải thoát chúng ta gọi đó là Pháp. Pháp được khế hợp 3 điều
dưới đây mà thành:
-Văn nghĩa Pháp
Phật là người đầu tiên giác Ngộ Pháp mà thành Phật,Tăng
già là đại chúng nương nơi Pháp tu tập.Đây là 2 ngôi báu chứng ngộ
và thực nghiệm Pháp, nếu tách rời Pháp thì không thể tồn tại được.
Như vậy Pháp là trọng tâm của Phật. Đức Phật thuyết Pháp dùng lời
nói, sau nầy được ghi chép bằng văn tự,tất cả đều là thích nghĩa của
Pháp,nhằm truyền đạt tư tưởng tình cảm đến cho mọi loài,như ngón
tay chỉ mặt trăng.Tuy không trực tiếp nhưng gián tiếp giúp cho mọi người
hiểu được Pháp.
-Ý cảnh Pháp
Đây là Pháp bao gồm phạm vi nhận biết của tâm thức.Trong
ý cảnh pháp có 2 loại:
-Biệt pháp xứ
Đạo Phật cho rằng lục căn tiếp xúc với lục trần dẫn
tới lục thức, nên tạo thành cảnh.Cảnh nhận biết: Nhản thức, nhĩ thức,
tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.trong đó 5 thức đầu nhận
biết phân biệt là sắc ,thinh ,hương vị, xúc .Ở đây chỉ có ý thức
là 2 phân biệt rõ ràng chổ không giống nhau nên gọi là Biệt Pháp.
-Nhất thiết Pháp
Ý thức không chỉ biết được Biệt pháp mà mọi thứ
các giác quan mắt, tai,muĩ, lưỡi, thân và ý mà Ý thức có thể nhận biết
được.Cho nên tất cả đều là Pháp, gọi chung là nhất thiết Pháp.
-Y quy Pháp
Pháp phương pháp giúp cho người học Phật nương nơi đó
để tu tập, không câu nệ ở văn từ vì đây chỉ là dấu vết cuả Phật
Pháp, có thể chia làm 3 loại: Chân đế pháp, Trung đạo pháp và
giải thoát pháp.
III) TĂNG BẢO
Tiếng Phạn là Sangha,Trung hoa dịch âm là Tăng già, có nghĩa
là một đoàn thể hòa hợp, thanh tịnh, từ 4 vị Tỳ Kheo trở lên, cùng
chung một lý tưởng hướng đến qủa vị giác ngộ, giải thoát.
1-Tăng phải thể hiện qua năm điều
a-Tăng luân(Tăng đoàn): Xác định lý tưởng của
người xuất gia.
b-Tăng thể: Thể của Tăng là : Trí huệ, Giải
thoát, Thanh tịnh và Hoà蠨ợp.
c-Tăng hành: Là một vị Tăng phải thực hành Chánh
pháp thể hiện qua thân hành (tứ oai nghi:Đi, đứng, nằm, ngồi)
và tâm hành thực hành pháp có một đời sống tâm linh.
d-Tăng đức: nếp sống đạo hạnh của một người
xuất gia có những đức tính cao thượng đầy Phật chất qua thân, khẩu,
ý.
g-Tăng qủa: là qủa vị của một vị tăng sau khi tu
tập.
2-Tại sao chúng ta gọi là ba ngôi
báu?
- "Chân bảo thế hi hữu,
- Minh tịnh cập thế lực
- Năng trang nghiêm thế gian,
- Tối thắng bất biến đẳng".
Tạm dịch:
- Cái qúi chơn thật trong thế gian hiếm có,
- Sáng suốt không có gì làm hư hoại,
- Làm chế trang nghiêm thế gian,
- Đó là pháp tối thắng không thay đổi.
Chú thích
- -Thế hi hữu: trên đời này hiếm có.
- -Minh tịnh: là sáng suốt trong sạch.
- -Thế lực: không gì có thể làm hư hoại.
- -Trang nghiêm: làm cho ba cỏi được an vui.
- -Tối thắng: không có gì bằng.
- -Bất biến: không gì làm mờ phai lưu chuyển.
C. TINH THẦN TRỌNG YẾU CỦA TĂNG
Muốn xây dựng một đoàn thể gia đình vững mạnh việc
trước tiên phải thể hiện tinh thần đoàn kết và hoà hợp. Chính vì thế
mà từ lúc thành lập Giáo đoàn đức Phật đã chế ra phương cách để
duy trì phát triển Tăng già làm cho Phật Pháp vững mạnh. Do đó nếu
không có Tăng đoàn hoà họp thanh tịnh thì khó có thể truyền bá Phật
Pháp .Đức Phật đã đưa ra 6 phép hoà kính.
Sáu phép hòa kính
Lục hoàcòn gọi là sáu phép hoà kính, một phương thức xây
dựng tổ chức đoàn thể làm hệ thống tổ chức được vững mạnh, đáp
ứng được yêu cầu của xã hội.Lục hòa còn giúp cho đoàn thể Tăng già
phát triển với những nhân tố tích cực,hoá giải những xung đột có thể
xảy ra trong nội bộ đễ đi đến thống nhất, hoà hợp và thanh tịnh.
1/ Thân hoà đồng trú: Cùng sống chung với nhau phải
biết hoà thuận tạo mối giây thân thiện.Tuân thủ những quy định mà tổ
chức cộng đồng đưa ra đễ hướng đến mục đích chung,xoá bỏ những
khác biệt không đáng có trong đời sống.
2/ Khẩu hoà vô tranh: Phải biết nhường nhịn nhau,
nói với nhau bằng những lời dễ mến như cổ đức thường dạy: "Nói
năng như Chánh Pháp,im lặng như Chánh pháp"
3/ Ý hoà đồng duyệt: Còn gọi là ý từ hoà kính
hay Ý hoà đồng trao ,trong khi sống chung nhau mà không ai chấp nhận
ý kiến của ai thì đoàn thể phải tan rã,muốn thực hiện được tinh thần
nầy chúng ta phải thực hiện tinh thần Tứ vô lượng tâm.
4/ Giới hoà đồng tu: Những quy định giới luật của
Phật chế ra muốn cho mọi người phải chấp hành việc trước tiên là mọi
người phải có một lý tưởng chung. Đây chính là nền tảng cơ bản cho
việc sống chung trong một đoàn thể.
5/ Kiến hoà đồng giải: ( Đồng Kiến hoà kính)
Đây là phương cách mà chúng ta gọi là biết bày tỏ phân,vì đạo Phật
là đạo xây dựng con người trên tinh thần từ bi và trí tuệ. Người
theo đạo Phật khi học được và tu có kết qủa phải đem trình bày cho mọi
người cùng tu theo mình không ích kỷ che dấu.
6/ Lợi hoà đồn huân: Có phước cùng chia có khó khăn
cùng nhận là tinh thần của người học Phật.Theo quan niện xưa nay của
con người là hẹp hòi vị kỷ thì đối với người học Phật phải luôn
luôn vì tinh thần lợi tha hay mở rộng lòng từ.
Qua 6 phép hoà kính cho chúng ta nhận thức không chỉ có đoàn
thể Tăng già mà mọi gia đìng trong cộng đồng xã hội biết vận dụng một
cách linh hoạt tinh thần nầy sẽ tạo được một gia đình hạnh phúc.
Còn đối với Tăng Ni nó là kim chỉ nam giúp cho Giáo Hội được vũng mạnh,
hệ thống tổ chức có hướng hoàn chỉnh.Nó cũng là gương tốt cho mọi
người muốn quy hướng về Phật giáo.
D. TAM BẢO CÓ BA BỰC
I. Đồng Thể Tam Bảo (Tự Tánh
Tam Bảo)
1) Đồng thể Phật Bảo: Chúng sanh đều có đủ
đức tính như Chư Phật không khác "ơ۠Thánh không tăng ở phàm
không giảm".
2) Đồng thể Pháp Bảo: Chúng sanh đều có đức tính từ
bi, bình đẳng...
3) Đồng thể Tăng Bảo: Chúng sanh đều có đức tánh
thanh tịnh, hoà hợp.
II. Xuất Thế Gian Tam Bảo
1)Xuất thế gian Phật bảo: Chỉ cho đức Phật trong 10
phương 3 đời (qúa khứ, hiện tại và vi lai).
2) Xuất thế gian Pháp bảo: Chỉ cho giáo Pháp của Đức
Phật có khả năng giúp cho chúng sanh thoát khỏi sự trói buộc của thế
gian.
3) Xuất thế gian Tăng bảo: Chỉ cho các vị thánh Tăng
đã giải thoát hết khổ đau như: Ca Diếp, Xá Lợi Phất.
III.Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo
1) Thế Gian Trụ Trì Phật Bảo: Chỉ cho những hình
tượng Phật, Xá Lợi mà chúng ta tôn thờ.
2) Thế Gian Trụ Trì Pháp Bảo: Chỉ cho tam Tạng
thánh điển được ghi lại trên giấy, lá buôn...
3)Thế Gian Trụ Trì Tăng Bảo: Chỉ cho những vị xuất
gia tu hành chân chính truyền thừa chánh pháp của Phật.
E. NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ
ĐỐI VỚI TAM BẢO
1) Xác lập về hình ảnh Phật Bảo (Đức
Phật)
a/ Đức Phật là một vị dẫn đường
(đạo sư)
Người Phật tử tìm đến với đạo Phật là muốn tìm đến
chân lý, ngõ hầu nhận ra được lẽ thực của cuộc đời qua hình ảnh của
Đức Phật cho chúng ta nhận thấy Ngài là một vị Đạo Sư như Ngài đã
dạy; "Như Lai chỉ là người chỉ đường,mỗi người phải tự đi
đến,không ai đi thế cho ai được".Ngài khuyên các đệ tử
: "Người là nơi nương tựa của chính mình,không ai khác có thể
làm nơi nương tựa" và Đức Phật kết luận : "Các người
nên làm công việc của mình,vì các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà
thôi".
b/ Đức Phật là một vị lương y
(đại Y vương)
Đức Phật thường khẳn định Ngài là một vị lương y "
Như Lai là một vị lương y biết bệnh mà cho thuốc,uống hay không tùy mỗi
người"
c/ Đức Phật không phải là đấng siêu
nhiên
Quan niệm của đạo Phật nhìn đức Phật chỉ là một người
thầy dẫn đường, một lương y, đức Phật không bao giờ cho mình có một
quyền năng ban phúc giáng họa cho ai. Ngài sanh ra là một con người ,sống
bình thường như một con người và từ giả cuộc đời như một con người.
Có một vị Bà La môn hỏi Ngài là ai? Đức Phật nói:
"Như Hoa sen đẹp đẻ và dễ thương, không ô nhiểm
bùn nhơ nước đục, giữa đám bụi trần ta không vướng chút bợn nhơ,
Như vậy ta là Phật"(Anguttara Nikaya).
2) Người Phật tử đối với Chánh
Pháp
Con người là chủ nhân ông có thể làm thay đổi đời
sống của chính mình chứ không ai có thể là ai khác. Cho nên người con Phật
là người phải nhắm vào mục đích chính của Đạo Phật mà đức Phật
thường dạy: " Nước của bốn biển chỉ có một vị duy nhất đó
là vị củ muốn, cũng vậy giáo Pháp của Như La cũng chỉ có một vị đó
là vị giải thoát".Đối với giáo lýcủa Phật dạy người Phật
tử phải xem đó như là thuốc chửa lành bệnh của mình.,như cổ đức
thường dạy: "Chúng sanh đa bệnh Phật Pháp đa phương".
3) Người Phật Tử đối với Tăng già
Trong Phật giáo thường đề cập:" tứ chúng đồng
tu" (Tỳ kheo,Tỳ kheo Ni, cận sự nam và cận sự nữ) mà chúng ta gọi
là tứ chúng.
Đối với chúng xuất gia thì nghiên cứu, ứng dụng thực
hành tu tập, truyền dạy giáo Pháp của Phật cho chúng tại gia, ngược lại
chúng tại gia có trách nhiệm ngoại hộ đễ cùng tu cùng tiến bộ trên
con đường giải thoát. Nhưng cả hai tại gia và xuấ鴍 gia đều là đệ tử Phật, chính mối tương quan trong
việc tu tập giúp cho cả hai có điều kiện đễ cùng tiến bộ về tâm
linh.
H. KẾT LUẬN
Bằng niềm tin chân chánh vào Tam Bảo với những đức tính
Giác Ngộ, giải thoát, từ bi , bình đẳng, thanh tịnh và hoà hợp, Tam bảo
là năng lực giúp cho mọi chúng sanh có một định hướng không bị những
thiên kiến, cố chấp mê lầm đưa vào con đường khổ đau.Vì thế cho
nên là Phật tử chúng ta phải có một nhận thức đúng về Tam bảo mà
chúng ta nương tựa. Có như vậy thực sự Phật, Pháp, Tăng mới có ích
cho cuộc đời và niềm tin Chánh tín mới có dịp tỏa sáng .
Đến với Tam Bảo là để học và đễ ứng dụng tu tập
nhằm tránh mọi sự sai lầm khi chúng tasống trong điều kiện cách Phật
xa tổ. Vì chỉ có con đường nhận được lẽ thực mới là con đường tạo
được niềm tin chân chánh "Đến đễ mà thấy không phải đến đễ
mà tin."
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/028-ttb-tambao.htm