- CON ĐƯỜNG SIÊU THẾ
- Thích Nữ Hương Nhũ
Gia tài siêu thế mà Đức Thế
Tôn đã trao lại cho La-hầu-la và tất cả những người con mang dòng họ
Thích. Đó là cuộc sống thoát ly thế gian đầy phiền não, giữ hạnh chơn
thật, giữ thân khẩu ý hằng thanh tịnh, thu thúc lục căn, xa lánh dục
tình, tu tập thiền quán và quán pháp vô ngã.
***
Thời thơ ấu tưởng chừng như thoáng
mây trôi trong kiếp người nhưng có một lúc nào hồi tưởng lại, mỗi chúng
ta đều có những kỷ niệm thật trong trẻo, đáng yêu. Trong quãng đời
êm ả ấy, làm sao quên được lời ru của mẹ, những câu chuyện cổ
tích của bà, những tiếng chuông chùa cuối hạ, nhẹ ngân nga qua đồng lúa
mù sương, những bài học vỡ lòng hay bài hát về chú chim non nho nhỏ …
Có gì đâu nhỉ, vậy mà rất nhẹ nhàng thấm dần vào tâm hồn bé thơ
hương hoa của tình người và những hạt mầm đạo đức… Để rồi một
ngày đẹp trời kia, chú bé nghịch ngợm vui lòng để cho thầy cạo đi mái
tóc tơ non mềm mại, chừa lại một chỏm tóc bằng chiếc vá múc canh chỉ
vì một lý do cỏn con nào đó: có lẽ vì chú bé thích cái mõ gia trì có
khắc hình cá hóa long với tiếng mõ trầm hùng, dặt dìu mà siêu thoát
theo lời kinh tiếng kệ, hay chú chẳng thể nào quên những mâm hoa quả chưng
cúng rất cân đối đẹp đẽ đặt hai bên bàn Phật ngạt ngào trầm hương,
những chén chè ngọt lịm mà sư ông thưởng cho chú mỗi lúc theo bà đi lễ
Phật, chú cũng thích cả những chú cá lia thia bơi lội tung tăng trong hồ
sen trước chùa bên tượng Đức Quan Thế Âm với bình tịnh thủy… Lý do
nào đưa chú về với cảnh Thiền để từ nay chú sẽ không còn sống bên
mẹ,bên cha,bên những người thân yêu nữa…Đại sự xuất thế ư? Làm
sao chú bé hiểu được một con đường mới đang bắt đầu và sẽ làm
thay đổi cả kiếp nhân sinh trước khi chú đủ lớn khôn để có thể hiểu
được điều vi diệu ấy. Có chăng là nhân lành từ muôn kiếp đã đủ
duyên, sớm đưa chú về sống cạnh đức ân sư từ ái.
Nhớ lại ngày xưa, thái tử Tất-đạt-đa
từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con xinh với quyền uy cao cả để
dấn thân vào một cuộc hành trình vô tiền khoáng hậu quyết tìm ra phương
thuốc cứu khổ cho nhân loại. Sự thoát ly của ngài vì thế là một đại
sự xuất thế vẻ vang. Rồi Ngài lại khổ công tham kiến, tầm tu để tìm
cho ra sự thật cuộc đời. Nhưng Chân lý đã không được tìm thấy trong
thánh điển của Bà-la-môn cũng không tìm thấy trong các lễ nghi dâng hiến
ở các đền thờ, và cũng không có trong những pháp tu hành hạ xác thân…
Cuối cùng, Ngài nhìn vào nội tâm của chính mình để tìm ra Sự thật bằng
con đường Thiền quán. Ngài đã tận diệt mọi uế nhiễm, vô minh và chứng
ngộ thực tướng của vạn pháp, trở thành một vị Phật, một đấng Chánh
Biến Tri, bậc Toàn Giác duy nhất trên đời.
Cuộc viễn ly vĩ đại của Ngài đã
không hoài công vô ích. Trong khi nhiều tôn giáo khác của thời Ấn Độ cổ
đại lần lượt quên lãng với thời gian thì lời dạy của Ngài vẫn là
niềm tin bất diệt của nhân lọai. Giờ đây, Những ai muốn chấm dứt sự
khổ đau đè nặng kiếp người … đều tìm đến giác lộ của Đức Thế
Tôn vì chỉ có Ngài mới thực sự chứng nghiệm hạnh phúc của sự giải
thoát tối thượng.
Thế hệ Tăng Ni trẻ ngày nay, nếu
không có được "đại sự xuất thế"vẻ vang như Ngài thì chúng
ta cũng được xuất gia trong tinh thần trí- dũng cầu giải thoát, hoặc từ
một duyên lành của những kiếp xa xưa … đưa ta về chốn thiền môn. Nhưng
còn sự chứng ngộ tự thân? Điều ấy có thể xảy ra đối với một tỳ-kheo
trẻ tuổi hay chí đến một chú sa-di không, khi con đường đi đến chân
lý tối thượng không phải khổ công tìm kiếm nữa, vì con đuờng siêu thế
đã được hiển bày từ hơn 2500 năm trước bởi Đấng Đại hùng Đại lực
của chúng ta?
Để trả lời câu hỏi này, hãy
cùng nhau nhớ đến La-hầu-la, người con duy nhất của thái tử Sĩ-đạt-đa
và công chúa Da-du-đà-la, sinh ra vào đúng ngày thái tử Sĩ-đạt-đa quyết
định thoát ly thế tục. La-hầu-la trưởng thành trong sự bảo dưỡng của
vua Tịnh Phạn và công chúa Da-du-đà-la. Ngày Đức Phật trở về Ca-tỳ-la-vệ
lần đầu tiên lúc La-hầu-la tròn 7 tuổi. Khi Đức Phật vào đến hoàng
cung, công chúa Da-du-đà-la ăn mặc chỉnh tề cho con rồi chỉ Đức Phật và
nói: "Này con, nhìn xem kìa, vị sa môn đắp y vàng trông như một vị
Phạm thiên kia là cha của con và Ngài là một kho tàng vô cùng vĩ đại. Này
La-hầu-la, hãy đến bên người và xin Ngài trao lại cho con phần di sản của
con." Hoàng tử La-hầu-la làm theo lời mẹ dạy,đến gần đức Phật và
kính cẩn bạch rằng: "Qủa thật cái bóng của Ngài làm cho con mát mẻ,
an vui." Khi độ ngọ xong, Đức Phật rời hoàng cung; La-hầu-la theo
chân Ngài và bạch: "Xin Ngài trao lại gia tài cho con." Đức Phật
nghĩ: "Nó muốn gia tài của cha nhưng tài sản trong thế gian quả thật
đầy phiền não. Như Lai sẽ ban cho nó gia tài cao thượng gồm 7 phần mà
Như Lai đã thâu đạt được dưới cội bồ đề. Như Lai sẽ giúp La-hầu-la
trở thành sở hữu của một gia tài siêu thế."
Đức Phật gọi ngài Xá-lợi-Phất
dạy làm lễ xuất gia cho La-hầu-la. Dù chưa có một khái niệm gì về sự
tu tập giác ngộ, nhưng cậu bé La-hầu-la đã ngoan ngoãn vâng lời Đức Thế
Tôn và bắt đầu cuộc sống cao thượng của bậc xuất gia. Hình ảnh La-hầu-la
phải chăng là hình ảnh của các chú điệu hồn nhiên trong chiếc áo lam
theo thầy tụng kinh, niệm Phật và quét lá đa trước sân chùa? Tuy còn bé
nhưng sa-di La-hầu-la vừa thông minh, vừa tôn trọng giới luật và rất
chuyên cần tu học. Mỗi sáng chú dậy thật sớm, ra ngoài bốc lên tay một
nắm cát, tung ra và cầu nguyện: "Mong rằng ngày hôm nay ta học được
như bao nhiêu cát đây."
Một trong những bài pháp đầu tiên
mà La-hầu-la được nghe là hạnh chơn thật. Đức Phật đã dạy La-hầu-la
bằng hình ảnh chậu nước sau khi Ngài đã rửa chân. Chừa lại một ít nước
trong thau, Ngài hỏi: "La-hầu-la, con thấy còn lại một chút nước dơ
trong thau không?"
- Bạch Đức Thế Tôn, có.
- Cũng thế,La-hầu-la, đời sa môn
quả thật không có nghĩa lý gì nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn.
Rồi Đức Thế Tôn đổ hết nước trong thau ra và dạy: "Đời sa môn
quả thật như bỏ đi nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn." Rồi
Đức Thế Tôn lật úp cái thau xuống và dạy: "Đời sa môn quả thật
bị đảo lộn nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn." Rồi Đức
Thế Tôn lật ngửa cái thau ấy và bảo rằng: "Đời sa môn quả thật
trống không và vô vị nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn."
Nhấn mạnh tầm quan trọng của hạnh
chơn thật, Đức Thế Tôn còn dùng hình tượng con voi của nhà vua, có ngà
dài như một cán cày, to lớn, khéo luyện, thường có mặt ở chiến trường.
Khi lâm trận, con voi này dùng hai chân trước, dùng hai chân sau, dùng phần
thân trước, dùng phần thân sau, dùng đầu, dùng tai, dùng ngà, dùng đuôi
nhưng nó luôn bảo vệ cai頶òi. Con voi này
không quăng bỏ mạng sống của nó. Nhưng nếu con voi ấy khi lâm trận
dùng hết các chi phần trong thân thể nóvà dùng cả vòi thì coi như nó đã
quăng bỏ mạng sống của mình.
Đức Thế Tôn dùng hình ảnh con
voi – một con vật to lớn, đẹp đẽ, hiên ngang với đầy sức mạnh
nhưng khi lâm trận không biết bảo vệ cái vòi thì cũng chỉ là một con vật
không có trí tuệ. Cũng như một vị sa môn đường đường tăng tướng,họat
bát, thông minh, nhưng vị ấy cứ tiếp tục nói dối không biết hổ thẹn
thì đời sa môn quả thật không có giá trị gì nữa. Rồi Đức Thế Tôn
kết luận:
_"Cũng vậy này La-hầu-la, đối
với ai biết mà nói láo, không có tàm quý, thời ta nói rằng người ấy
không có việc ác gì mà không dám làm. Do vậy, này La-hầu-la, Ta quyết
không nói láo, dù nói để mà chơi."
Như vậy hạnh chơn thật là một
trong những đức tính căn bản nhất để hình thành nhân cách xứng đáng
của một Sa-di hay một Tỳ-kheo trẻ tuổi trên lộ trình giải thóat.Chính
các nhà giáo dục thời đại cũng khẳng định rằng: "Dối trá lẫn
nhau lòai người làm mất hết lòng tin lẫn nhau và làm hư hỏng một
phương tiện trao đổi rất quý giá của nhân loại"
Sau khi dạy La-hầu-la về hạnh chơn
thật, Đức Thế Tôn tiếp tục giải thích cho Sa-di La-hầu-la giá trị của
đức hạnh trong sạch bằng hình ảnh chiếc gương. Nếu chiếc gương là vật
để phản chiếu hình ảnh thì đời Sa môn cũng phải tự phản tỉnh nhiều
lần. Trong khi hành thân nghiệp,khẩu nghiệp và ý nghiệp cần tự phản tỉnh
xem thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có thể đưa đến tự hại, có
thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai, thời thân, khẩu,
ý nghiệp ấy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem lại quả báo đau khổ
và những hành động như thế nhất định phải tránh xa và không nên làm.
Nếu trong khi phản tỉnh, ta biết
được thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp của ta không thể đưa đến tự
hại, không thể đưa đến hại người, không thể đưa đến hại cả hai,
thời thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc
và đem lại quả báo an lạc. Với những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp
như thế ta nên làm và tiếp tục làm.
Nếu trong khi phản tỉnh ta biết
được những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp ta đã làm là bất thiện,
đem lại quả báo phiền não và đau khổ thời ta cần phải thưa lên, phải
tỏ lộ, phải trình bày trước các vị Đạo sư, hay các vị đồng phạm
hạnh có trí. Sau khi đã sám hối, cần phải chừa bỏ và phòng hộ trong tương
lai, không còn tái phạm nữa. Đức Thế Tôn giảng giải rất kỹ lưỡng rằng,
muốn giữ tâm trong sạch, điều chánh yếu là phải luôn suy nghĩ và quán
chiếu về những hành động đã làm, đang làm và sẽ làm rồi Ngài kết
thúc bài pháp như sau:
"Như thế ấy, La-hầu-la, con phải
cố gắng luyện tập, luôn luôn suy luận để giữ trong sạch mọi hành động
bằng thân, khẩu, ý."
Đức Phật thường nhắc nhiều lần
sa-di La-hầu-la bài kệ chánh yếu, cần thiết cho đời sống người xuất
gia:
Hãy từ bỏ năm thành phần của lạc
thú – vừa êm dịu vừa khắn khít. Và với niềm tin vững chắc, hãy từ
bỏ nhà cửa để chấm dứt mọi phiền não. Chọn bạn hữu xứng đáng;
tìm nơi thanh vắng, xa xôi và yên tịnh; tri túc trong vật thực, y, bát, bốn
vật cần thiết và giường ngủ.
Không nên luyến ái những vật ấy,
hãy để nó trở về với cát bụi. Nghiêm trì Giới luật thu thúc lục căn.
Hãy thận trọng căn chừng nhục dục –hãy nhàm chán thế gian. Hãy rời bỏ
cái hào nhóang bề ngòai của sự vật. Hãy rời bỏ nơi nào mà dục tình
ngự trị. Hãy luyện tâm, chăm chú vững chắc và vắng lặng. Phát triển
những gì không nuôi dưỡng bề ngòai (Sutta Nipàta).
Để dẹp đi tư tưởng luyến ái
phát sanh Đức Phật đã dạy La-hầu-la một bài pháp thâm diệu như sau:
"Này La Hầu La, bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, vị lai, hiện tại nội
hay ngọai, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả sắc pháp phải
được quán sát như thật với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của
ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta."
Và Đức Phật daỵ rằng không chỉ riêng sắc mà thôi mà cả thọ, tưởng,
hành và thức.
Vâng lời dạy khuyên của đức Phật
và Ngài Xá-lợi-phất, La-hầu-la cần chuyên tu tập niệm hơi thở vô, hơi
thở ra, làm cho sung mãn, được quả lớn được lợi ích lớn theo các đề
mục thuộc nội thân, thuộc hư không giới, lòng từ. . để trừ diệt mọi
xan tham cấu uế…
Đến khi La-hầu-la đã thuần thục
những pháp đưa đến giải thóat, Đức Phật lại huấn luyện cho La-hầu-la
hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc. Quán vạn pháp là vô thường
vị đa văn Thánh đệ tử yếm ly các pháp được khởi lên. Do yểm ly vị
ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thóat. Trong sự giải thoát là sự hiểu
biết: "Ta đã được giải thoát." Và vị ấy biết: "Sanh đã
tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui lại
trạng thái này nữa." Ngay sau khi nghe bài Kinh này Tôn giả La-hầu-la
được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ. Không bao
lâu, Ngài đắc quả –la-hán.
Mười bốn năm sau khi Đức Phật
thành đạo, sa-di La-hầu-la thọ cụ túc giới. Ngài viên tịch trước Đức
Phật và Đức Xá-lợi-phất. Tôn giả La-hầu-la là một trong thập đại
đệ tử của Phật nổi tiếng về mật hạnh đệ nhất.
Từ câu chuyện cuộc đời tu hành
của Tôn giả La-hầu-la, chúng ta có thể nhận được gia tài siêu thế mà
Đức Thế Tôn đã trao lại cho La-hầu-la và tất cả những người con mang
dòng họ Thích. Đó là cuộc sống thoát ly thế gian đầy phiền não, giữ
hạnh chơn thật, giữ thân khẩu ý hằng thanh tịnh, thu thúc lục căn, xa lánh
dục tình, tu tập thiền quán và quán pháp vô ngã.
Tuổi thơ của La-hầu-la sớm được
huân tập trong giới pháp, công phu và thiền định, Diễm phúc được làm
con Đức Phật, người đã chứng ngộ chân lý, La-hầu-la đã không ngừng
cần chuyên tu tập để cuối cùng cắt đứt và phá vỡ mọi thằng thức,
tận diệt mọi tham ái và đạt được mục đích cao thượng. La-hầu-la thực
sự trở thành người chủ của gia tài siêu thế và cũng là tấm gương sáng
cho các thê hệ Tăng Ni trẻ.
…Nếu ngày xưa, La-hầu-la là vị
sa-di trẻ tuổi nhất được Đức Phật và Tăng Đòan dìu dắt từng bước
tu tập giác ngộ thì ngày nay các vị sa-di và chư vị Tỳ-kheo cũng được
chư vị tôn đức và giáo hội quan tâm, tạo mọi điều kiện để được
học tập về cả hai phương diện đạo học và thế học. Tăng Ni trẻ
cũng rất thông minh, nhạy bén với các kiến thức mới, thành thạo trong
các kỹ năng xử dụng khoa học kỹ thuật… Nhưng giữa rừng kiến thức
mênh mông Đông, Tây, kim, cổ…tất cả chúng ta đều không thể quên con
đường siêu thế của Đức Thế Tôn. Còn những gì đang giữ chân ta chậm
bước trên Đạo lộ giải thóat? Phải chăng là chút danh tiếng, lợi dưỡng,
chút vị kỷ, tham ái… vẫn còn rơi rớt trong từng chiều sâu tâm thức?
Kỷ niệm ngày Phật Thành Đạo
được tổ chức trang nghiêm và ý nghĩa tại Bồ-đề Đạo Tràng trong năm
đầu tiên của thiên niên kỷ mới, phải chăng là một dấu ấn mới mà
chư vị Tôn đức muốn khắc sâu vào tâm khảm chúng ta về con đường chứng
Đạo của Đức Bổn Sư Thích-ca-mâu-ni - con đường siêu thế Ngài đã vạch
rõ cho cho tất cả chúng ta với tình thương giải thóat. Đó là một đạo
lộ vững chắc trong cuộc chiến đấu chống lại cái ta, cái tham ái, cái
dục vọng, si mê…để cuối cùng là sự chiến thắng và sự chứng ngộ
vẻ vang. Những người con mang dòng họ Thích vẫn sẽ không ngừng thẳng
tiến trên Đạo lộ Giải thoát với tinh thần BI TRÍ DŨNG. Một điều chắc
chắn rằng: Không chỉ Bodhgaya mới có Bồ-đề Đạo Tràng mà trong mỗi
chúng ta Đạo Tràng Bổn Tâm kỳ diệu đang được thiết lập trở lại
trong khúc khải hòan ca của bản nhạc vô sanh bất diệt.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/117-sieuthe.htm