- GIÁ TRỊ THẪM MỸ
- TRONG GIÁO LÝ VÔ THƯỜNG-VÔ NGÃ
- Thích nữ Liên Dung
Toàn bộ giáo lý Đạo
Phật không ngoài Tứ Diệu Đế. Nhận chân được thế giới vô thường,
nhân sinh vô ngã là đã thấu triệt được hai phạm trù đầu tiên là khổ
đế và tập đế. Hai phạm trù này thuộc cái bi thẩm mỹ. Từ đó, định
ra cho mình một cách sống tích cực đễ đạt được bản lĩnh tự tại,
an nhiên, lạc quan trong cuộc sống. Điều này cũng có nghĩa hành giả đã
chuyển hóa cái bi ấy thành cái đẹp, cao cả để thực thi một quá trình
"sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình."
***
Xuân, Hạ, Thu, Đông lần lượt
dắt nhau qua lòng tạo vật, dòng sống vẫn tuôn trào bất tận. Tuổi xuân
phải nhường chỗ cho tuổi già và vẻ tươi mát của sương mai, biến mất
trước vừng hồng rực rỡ. Đó là quy luật tự nhiên và cuộc sống vận
hành là thế. Chúng ta không thể thay đổi bản chất của chúng mà chỉ
có thể thay đổi quan điểm của mình về cuộc sống. Khổ, vui từ nơi nhận
thức mà có. Người đời sống trong lo toan, chết trong sợ hãi vì ngộ nhận;
người đạt đến giác ngộ, an vui tự tại nhờ trí Bát-nhã, quán sát bản
chất như thật của vạn pháp.
Bát-nhã là trí tuệ, thuật ngữ Phật
học dùng đễ chỉ trạng thái tâm linh siêu việt của con người mà ta có
thể xem là phạm trù "trác tuyệt" của mỹ học Phật Giáo. Con
đường đạt đến trí tuệ cao cả này là con đường thuần lý tánh, được
chuyển hóa từ "có" đến "không," từ "thường"
đến "vô thường," từ cái "ngã" đến "vô ngã."
Chúng ta có thể đi lần vào vùng sâu thẩm của ý thức, thầm lặng nhưng
hùng tráng, đơn sơ mà trác tuyệt của các Thiền Sư đễ hiểu rõ hơn tư
tưởng thẩm mỹ trong vô thường, vô ngã của Phật Giáo. Đối tượng thẩm
mỹ của chủ thể thẩm mỹ là các Thiền Sư được cảm nhận như một
khoảng thời gian ngắn ngủi trong vòng quay vô tận của vũ trụ. Chỉ một
khoảng nhỏ ấy thôi bao hàm cả sự sống. Dưới mắt Thiền Sư Mãn Giác:
- "Xuân khứ bách hoa lạc
- Xuân đáo bách hoa khai"
- (Xuân đi hoa úa nhuỵ tàn
- Xuân về hoa nở dọc ngang đất trời)
Đó là quy luật muôn thuở của tự
nhiên. Như vậy, với thiền sư Mãn Giác "vô thường" mới thật là
"chơn thường."
Thế giới quan của người liễu đạﯠlà
vậy, nhân sinh quan của các vị ấy thì sao? Hai câu thơ tiếp: "Sự trục
nhãn tiền quá / Lão đầu tùng thượng lai" nói lên cuộc sống con người
cũng thay đổi trong từng sát na sanh diệt. Nơi con người, không có một
cái ngã thường hằng. Như vậy, với tuệ nhãn, người kiến tánh thấy
rõ " vô ngã" đích thực là " chơn ngã."
Thấu triệt "vô thường,"
"vô ngã," các vị thiền sư có một cách thế sống tuyệt vời, hiện
thân của cái đẹp toàn diện.
Đẹp trước hết là sự thật.
Cái đẹp chân chánh chỉ xuất hiện trên cơ sở sự thật. Người ta gọi
là thật khi nhận thức của chúng ta phù hợp với thự tại khách quan. Đó
là sự đồng điệu giữa ta và vũ tru,ài hòa như một nhạc khúc. Nắm
chắc sự vận hành của qui luật và sống đúng theo qui luật ấy, con người
sẽ đạt được an lạc, đó là đẹp. Trên tinh thần ấy, con người hành
xử đúng theo chiều hướng phát triển của lịch sử, và xã hội góp phần
thúc đẩy xã hội tiến bộ, sáng tạo ra lịch sử làm cho cuộc sống trở
nên sinh động. Nơi nào có cuộc sống đang dạt dào, dù ở hiện tượng
hay còn tiềm ẩn nơi bản chất, nơi ấy cho ta khái niệm đẹp.
Tiếp nữa, đẹp theo tinh thần Phật
Giáo là cơ chế thăng bằng, thăng bằng với môi trường đễ hòa vào
thiên nhiên tuyệt mỹ, thăng bằng với nội tâm để có một bản lĩnh tự
tại. Trong cơ chế thăng bằng đó, các thiền sư đã chuyển giáo lý
"vô thường, "vô ngã" thâm nhập hoàn toàn vào những áng văn
chương lấp lánh đầy màu sắc triết học, mỹ học, thiền học, thiên
nhiên và con người. Trần Nhân Tông đã thấu triệt quy luật vận hành của
vũ trụ:
- " Chúa xuân nay bị ta khám phá
- Chiếu trải giừơng thiền ngắm cảnh hồng"
Thiền sư Pháp Loa thì "đã hết
duyên trần thong tay đi."
Không tự giam hãm mình trong bến tướng
sanh, già, bệnh, chết. Thiền sư Mãn Giác cùng một cách thế như vậy đã
tạo cho mình sức cân bằng nội tại đến mức cao nhất. Đứng trước vực
thẳm của sanh tử, như cuộc du hành tự tại trước một mùa xuân thanh
bình. Trong phong thái đó, với một cành mai, một mùa xuân, một mái đầu,
thiền sư Mãn Giác cho ta thấy sự đến, đi của con người trước cuộc sống
êm đềm như sự đi qua và trở lại của một mùa xuân. Xuân này đến,
hoa nở, hoa nở để rồi tàn. Xuân sau về, hoa lại nở thôi. Tất cả đều
mong manh như trò chơi của tạo hóa nhưng bao giờ mất đi trong chuổi dài
sanh diệt, diệt sanh. Do đó, co,頫hông, còn,
mất, sống, chết, thịnh, suy v.v. . . là những phạm trù đối đãi bất tận
của con người và cả thế giới trần gian này.
- "Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi,
- đễ mai tôi trở về cát bụi…"
Phạm trù đẹp còn biểu hiện ở
sự nhận thức một cách biện chứng về cuộc sống đang vận động và
phát triển. Trong ý nghĩa đó, thiền sư Mãn Giác rất lạc quan:
- "Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
- Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"
- (Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
- Đêm qua sân trước một cành mai).
Thế giới thực chất là sự sinh
sôi nảy nở. Cành mai nở tung ra trong đêm cuối xuân, chứng tỏ điều gì,
nếu không hàm chứa ý nghĩa tiến hóa sâu xa của cuộc sống qua cái nhìn
biện chứng của thiền, cái mới hình thành ngay trong lòng cái cũ, vận động
và phát triển theo quy luật đó là cái đẹp. Cái đẹp là bạn đồng hành
với cuộc sống đang vươn lên và ở đâu tìm thấy cái đẹp, ở đó biểu
hiện những xu hướng cao cả nhất của cuộc sống. Ở đây, thiền sư Mãn
Giác là biểu tượng của con người đẹp qua sự an tịnh, bình thản của
Ngài. Chủ thể thẩm mỹ ở đây vượt khỏi cái bi, bi kịch, bi hài. Tất
cả những phạm trù ấy đã chuyen堨óa, thăng
bằng chỉ còn một dấu ấn duy nhất, cái đẹp, cái trác tuyệt lồng lộng.
Đó là ý chí, cách thế sống của một con ngừơi đại đạo, một con
người đẹp, con người đã thực sự hoàn chỉnh trong lối sống của
mình.
Cuối cùng, mức độ cao nhất trong
phạm trù cái đẹp là lòng vị tha. Đây là cái đẹp đến độ viên mãn,
cái đẹp vong thân, chỉ cống hiến mà không hưởng thụ, thể hiện đầy
đủ chất nhân văn của chủ nghĩa nhân đạo trong hệ thống Phật học.
Nhiều thiền sư đời Lý-Trần đã hy sinh trọn vẹn cuộc đời cho Đạo
pháp và Dân tộc gần như quên mình. Cả một đời lo cho nước cho dân và
phụng sự Đạo pháp đến lúc viên mãn. Suốt cuộc đời hoằng hóa độ
sanh cũng là một quá trình chuyển hóa tâm thức tu hành đễ rồi có được
trạng thái quân bình tuyệt mỹ. Sự cân bằng đối vơi môi trường và sự
cân bằng nội tại.
Con người chứng ngộ đượm nhuần
chất thiền của giáo lý vô thường, vô ngã ấy đầy đủ nghị lực, ý
chí để có thể tự tại trước bao biến thiên của cuộc sống. Cân bằng
với môi trường và đạt đến bản lĩnh tự tại là thể hiện mặt
"tịch" của cái thể tánh chơn như, giác ngộ. Từ đó thực hành
một nếp sống vị tha, biết đem cái vô thường của bản thân, để phục
vụ tha nhân đến mức quên mình, cống hiến cho dòng chảy thường của cuộc
sống. Nếp sống vị tha vong kỷ như cánh nhạn lướt trên trời không vô
ảnh, vô trung. Ấy là diệu dụng về phương diện "chiếu" của thể
tánh bát-nhã. Đến đây, giá trị thẩm mỹ, cái đẹp hoàn thiện của con
người, của triết lý sống tỏa lên ngời sáng bao hàm cả chơn và thiện.
Thiết tưởng không còn giá trị thẩm mỹ đẹp và trác tuyệt hơn?
Toàn bộ giáo lý Đạo Phật không
ngoài Tứ Diệu Đế. Nhận chân được thế giới vô thường, nhân sinh vô
ngã là đã thấu triệt được hai phạm trù đầu tiên là khổ đế và tập
đế. Hai phạm trù này thuộc cái bi thẩm mỹ. Từ đó, định ra cho mình một
cách sống tích cực đễ đạt được bản lĩnh tự tại, an nhiên, lạc
quan trong cuộc sống. Điều này cũng có nghĩa hành giả đã chuyển hóa
cái bi ấy thành cái đẹp, cao cả để thực thi một quá trình "sống
là cho, đâu chỉ nhận riêng mình." Bản chất của cái đẹp thật
trong sáng và lành mạnh. Vì vậy, thật vô cùng tuyệt đẹp trong định hướng
sống, và tuyệt đẹp trước lẽ có-không.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/123-thammy.htm