...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG DUY THỨC
Thích Phước Năng
A.
Lời mở
Duy
Thức là một bộ môn khó học, khó vì tư tưởng cao, lại thêm nhiều từ chuyên
môn lắt léo. Đối với cánh cửa Duy Thức, nhiều người không biết bắt đầu tìm
vào từ đâu.
Vừa học Duy Thức, người viết
được giới thiệu quyển “Đại thừa Bách Pháp Minh Môn luận”, kế là quyển
“Duy Thức Tam Thập luận”. Đọc hai quyển đó, lại đọc những bản chú giải
của hai quyển đó, lòng người viết vẫn không thỏa mãn lắm, vì những thắc
mắc chính còn đọng lại: “Tư tưởng Duy Thức bắt đầu từ đâu? Tư tưởng ấy
chuyển biến thế nào theo thời gian? Hoàn cảnh nào trong lịch sử Ấn Độ mà
Duy Thức ra đời và thành công? ”.
Sau, người viết đọc được quyển
“Ấn Độ chi Phật giáo” (Phật giáo tại Ấn Độ) của HT.Ấn Thuận, thấy Hòa
Thượng có nói tới điểm này. Tự nghĩ, nếu mình soạn ra một quyển nhỏ để
giùới thiệu cho những người mới học Duy Thức, có lẽ sẽ có lợi ích. Bèn
không ngại sự chê cười của các bậc hiểu biết, lựa thêm một số tài liệu
nữa, viết ra.
Tập
sách nhỏ này sẽ giới thiệu cho người đọc một cái nhìn về sự hình thành tư
tưởng Duy Thức.
Mục lục:
I. Giới thiệu chung
II. Đức Phật và Vô Ngã
1.
Tại sao Phật nói Vô Ngã?
a. Đạo của Phật.
b.
Mục đích Phật đi tu.
c.
Sự mâu thuẫn trong Giáo Lý và pháp tu của đạo Bà la môn.
*
Thần linh, bốn giai cấp, cúng tế, vòng luân hồi.
*
Tiểu Ngã, Đại Ngã và pháp tu giải thoát.
d.
Đúc kết.
2.
Vấn đề nảy sinh.
a.
Đặc trưng của Đạo Phật.
b.
Vấn đề nảy sinh.
III. Phật giáo Bộ phái
và Bổ Đặc Già La.
1.
Tình hình xã hội và tôn giáo Ấn Độ trong thời kỳ Bộ phái Phật giáo.
a.
Tình hình xã hội và tôn giáo Ấn Độ.
b.
Bộ phái phân chia.
*
bốn hệ thống chính
*
các bộ về sau
2.
Bổ Đặc
Già La.
a.
Bổ Đặc Già La của các Bộ phái
*.
Bổ Đặc Già La của Thuyết Nhất Thiết Hữu – Độc Tử
*.
Bổ Đặc Già La của Đại Chúng –Phân Biệt Thuyết
*.
Bổ Đặc Già La của phái Kinh Lượng:
b.
Sự rối rắm của Bộ phái:
IV. Long Thọ và Tính Không.
1.
Nội dung Tính Không.
2.
Sự thành công của Bồ tát Long Thọ.
V. Ba vị tổ và tư tưởng Duy
Thức.
1.
Di Lặc.
2.
Vô Trước.
3.
Thế Thân.
VI -Tổng Kết.
C. Lời kết.
Thư mục tham khảo:
1.
Lịch sử Văn minh Ấn Độ, tg Will Durant, dg Nguyễn Hiến Lê, viết tắt “Lê
dịch”.
2. Ấn Độ chi Phật giáo, tg ht. Ấn Thuận, bản chữ
Hán, viết tắt “Ấn".
3.
Tính Không học tham nguyên, tg ht. Ấn Thuận, bản chữ Hán, viết tắt “Tính
Không”.
4.
Nhiếp Đại thừa luận giảng ký, tg ht. Ấn Thuận, bản chữ Hán, viết tắt
“Nhiếp”.
5. Phật tại nhân gian, tg ht. Ấn Thuận, bản chữ
Hán, viết tắt “Phật”.
6.
Dĩ Phật pháp nghiên cứu Phật pháp, tg ht. Ấn Thuận, bản chữ Hán, viết tắt
“Dĩ”.
7.
Trung Quán luận tụng giảng ký, tg ht. Ấn Thuận, bản chữ Hán, viết tắt
“Trung”.
8.
Đức Phật và Phật pháp, tg Narada Thera, dg Phạm Kim Khánh.
Và
một vài tài liệu khác.
B. Nội dung
I. Giới thiệu chung:
Trước Công nguyên khoảng 1600 năm[1],
dân tộc du mục hung hãn Aryan thuộc hệ dân Ấn Âu từ trên biên giới phía
Tây Bắc tràn vào Ấn Độ, chiếm cứ lãnh thổ và cai trị xã hội đã phồn vinh
của người Naga và người Dravidien[1].
Rồi để đuổi đánh những người Dravidien kháng chiến và chinh phục những
vùng đất còn lại của những dân tộc khác, người Aryan dần dần chiếm xuống
Đông Nam Ấn Độ. Để đồng hoá dân bản xứ hầu bảo vệ nền thống trị, dân
Aryan đưa Đạo Bà la môn vào. Quá trình xâm lăng và đồng hoá này, diễn ra
tương đối chậm, dằng dai giữa binh lực và văn hoá của hai bên, nên mãi
đến hơn 1000 năm sau, khi đức Phật Thích Ca ra đời, quá trình còn tiếp
diễn.
Khi
đức Phật ra đời, trong toàn cõi ấn, một vài vùng đất còn tự do đang chuẩn
bị quân lực để kháng chiến chống Aryan. Còn trong những vùng đã bị Aryan
chiếm, tùy theo thời gian mà các cuộc kháng chiến lụi dần, dân Aryan chia
đất cho nhau mà các cứ. Về sau, vì quyền lợi, các vương triều của họ lại
đánh nhau. Trong mỗi một quốc gia lớn, triều đình (dân xâm lăng ) chia
vương quốc thành các khu tự trị nhỏ, cho các thủ lĩnh người bản xứ cai trị
người bản xứ, nộp thuế[1].
Binh lực của một triều đình tự trị nằm trong tay một nguyên soái, tất cả
nguyên soái hợp thành một hội đồng, chủ tịch hội đồng nguyên soái chính là
vị vua của “thiên triều”.
Giai cấp thống trị lợi dụng Đạo Bà la môn để tuyên truyền tư tưởng Ngã (
Thượng đế, linh hồn). Nội dung đầu tiên của tư tưởng Ngã là “trời” định xã
hội làm 4 giai cấp. Và thực ra, từ xưa cho đến lúc Phật ra đời thì giai
cấp cao nhất là giai cấp vua chúa (chiến sĩ, Kshatriya)[1].
Nội dung này khiến người bị cai trị không còn tư tưởng muốn lật đổ triều
đình nữa. Nội dung kế của tư tưởng Ngã là nghiệp trong luân hồi[1],
nó giải thích cho người bị cai trị hiểu rằng không phải họ khổ do trời
định ra giai cấp rồi nhét họ vào trong, mà chính những tội lỗi họ đã tạo
đời trước khiến họ khổ đời này (bị nô lệ, áp bức). Nhờ Đạo Bà la môn, dân
cai trị lái sự phản ứng cuồn cuộn vì sống khổ của dân bị trị đi chệch
hướng, thay vì lo võ bị để đòi hạnh phúc thì lại liều mạng (quên mình) mà
tu tập đức hạnh (để đời sau sướng hoặc không tái sinh) hay là “vắt nước
cốt” công sức tiền của để nhờ thầy Bà la môn cúng thần cầu thoát khổ.
Với
sự cai trị khắc nghiệt của thiên triều, người bị trị đã phản ứng lại bằng
nhiều cách, kháng chiến bằng binh lực hay công kích tư tưởng Bà la môn,
cũng có loại người quá tuyệt vọng với cuộc sống, chủ trương tự tử là thoát
khổ. Về kháng chiến, những khu tự trị lăm le độc lập. Vài điển hình cho
thấy, các thiên triều đã xóa sổ những khu chống đối. Như vua Tỳ Lưu Ly
nước kiều tát la (Kosala) xoá sổ khu tự trị Ca Tỳ La Vệ[1]
(quê hương Phật), vua Ba Tư Nặc cho đại thần hỏi ý kiến Phật để tiêu diệt
khu tự trị có xu hướng chống đối của người Vajjian[1].
Và vua A xà thế, sau khi Phật mất một thời gian, đã đem quân tiêu diệt
một dân tộc tự trị ở phía Bắc[1].
Về sự chống đối tư tưởng, mặc dù giai cấp Bà la môn đã có một thời gian
dài có uy tín do được nắm các chức năng tôn giáo và giáo dục trong xã hội,
đến mức họ hợm hĩnh cho rằng mình cao hơn cả giai cấp Sát đế lợi, cho rằng
các bộ Veda do thần tối cao nói, và dự cúng bái do thầy Bà la môn chủ trì
là vạn năng, nhưng thực tế đối với số đông người thuộc dân bị trị thì sự
quy định của Bà la môn hẳn chẳng có uy quyền gì. Thậm chí, có người thuộc
giai cấp Sát đế lợi ( có lẽ là cấp cao của khu tự trị ) cho rằng : “Tu sĩ
Bà la môn bẻm mép”[1].
Có những nhà hiền triết tuyên bố : “ Không có Thần Ngã, không có thiên
đường, không có địa ngục, không có luân hồi, các kinh Veda cùng các triết
lý về vũ trụ, về thần thánh đều là láo toét, là sản phẩm của bọn điên
khùng, bọn chúng dùng lý lẽ đẹp đẽ mê hoặc người dân đen để vinh thân phì
gia. ï Có những nhà hiền triết còn chế nhạo, ví các tu sĩ Bà la môn như
một đoàn chó, xếp hàng nghiêm túc đòi ăn[1].
Còn về những người quá khổ mà tuyệt vọng, với tư tưởng chán đời, họ lập
thành cả một giáo phái tu hành, giáo phái này lấy sự tự tử làm giải thoát
cứu cánh, cha mẹ của giáo chủ Đạo Loã Thể ( Ni kiền tử) là tín đồ phái
này[1].
Thế rồi từ đó, vào khoảng 700-500 BC (BC : trước Công nguyên), một loạt
các Đạo phái nổi lên, làm tiêu tan sự uy vọng của tư tưởng Bà la môn, làm
cho giáo phái Bà la môn điêu đứng, điển hình theo thứ tự thời gian là phái
duy vật ( Charvaka), Đạo Loã Thể (Jain) và Đạo Phật.[1]
Đạo
Phật đã xuất hiện trong giai đoạn lịch sử Ấn Độ như vậy.
Đức
Phật, vì thương con người khổ nói chung, và những người bị áp bức nói
riêng, bỏ ngôi Thái tử đi tu, tìm ra Đạo- con đường thoát khổ- cho con
người, đặc biệt là cho những người cùng khổ bị cai trị.
Đi
giảng Đạo, Ngài tuyên bố “không có Thần Ngã”. Do vậy, vị trí giữa con
người với nhau là bình đẳng, mọi sự đau khổ, cũng như sự diệt sacïh đau
khổ , đạt đến an vui của mỗi người đều do chính bản thân mỗi người quyết
định.
Ngài thành công rực rỡ. Đồ chúng qui tụ theo Ngài rất đông, và trong thời
gian đầu, khi vua chúa chưa đua nhau ủng hộ Ngài,lợi dưỡng chưa chen vào
Tăng đoàn, thì đệ tử Ngài phần lớn là cao thủ. Người tin và tu hết mình
theo Bà la môn tìm thấy ở Đạo Ngài lời giải đáp cho sự cùng đường của họ –
không có Ngã. Người nghèo khổ mạt hạng tìm thấy ở Đạo Ngài tình thương
người bao la và sự đối xử bình đẳng không giai cấp. Người bi quan chán đời
tìm thấy ở Đạo Ngài niềm tin vô biên vào bản thân, để có thể tự cải đổi
đời mình.
Và
tất nhiên, dù không muốn, giáo lý của Đạo Ngài đánh bạt giáo lý của Đạo
khác, làm giảm uy tín và lợi dưỡng của các Đạo ấy. Vô Ngã đánh bạt Thần
Ngã, bình đẳng lật đổ giai cấp, tình thương trêu ngươi áp bức, nghiệp xóa
sổ áp bức cúng tế : Bà la môn và các Đạo khác như lá mùa thu trong cơn
bão Thích Ca. Do vậy, đức Phật dần trở thành trung tâm điểm cho mọi khen
chê, thương ghét của xã hội. Các Đạo khác nghiên cứu giáo lý Ngài, tìm sơ
hở tấn công.
Cái
giáo lý đưa đức Phật thành công là Vô Ngã. Cũng chính nơi quan điểm Vô Ngã
này, các Đạo khác tìm thấy chỗ hở. Đức Phật đứng trên phương diện thực tế,
vì cứu con người đang đau khổ, nên dùng lý luận bẻ Thần Ngã, kéo con người
từ cõi mông lung cầu xin và lý luận vô bổ về thực tế cuộc sống, để thực sự
sống một đời tự lực tự cường, thương nhau giúp nhau trong Đạo hạnh. Ý Ngài
rằng “ Cần gì biết những thứ xa xôi, cho dù nó có hay không, hãy nhổ ngay
mũi tên độc đã gắm vào và đang giết dần mình. Nếu không nhổ ra ngay, đợi
nghe cho hết những tin tức xa xôi về mũi tên, mình sẽ uổng mạng”. Do vậy,
Ngài không hề bàn về đời trước đời sau, về thế giới thành hoại có không to
nhỏ, không đi sâu vào lý luận bản thể hiện tượng. Nắm điểm yếu đó, các Đạo
khác bẻ lại, kéo con người trở lại cõi miền mông lung suy tưởng ngày xưa.
Họ bảo “Muốn sống theo một lối nào đó, thì trước phải rõ biết lối cái sống
đó có đúng hay không. Nay ở một kiếp người ngắn ngủi trong chuỗi sống vô
tận này, khi chưa biết cái chuỗi sống đó ra sao thì làm sao biết cái lối
sống của Ngài là đúng ? sao chắc cúng tế là vô ích ?...” Hẳn nhiên, khi đả
phá Đạo Phật, các Đạo nọ đã tranh thủ lượm những cái hay của Đạo Phật mà
chuyển thể thành của Đạo mình rồi.
Đức
Phật vẫn kiên trì với Vô Ngã, với mục tiêu đầu tiên và duy nhất của Ngài -
cứu khổ hiện đời - dẫu có lúc Ngài cũng không chịu nỗi cái buồn, than :
“Đời tranh với ta, ta đâu có tranh với đời. Người trí trong đời nói có, ta
cũng nói có; người trí trong đời nói không có, ta cũng nói không có
[1].
Có những lúc gặp người nêu nghi vấn thuộc loại ấy (loại Ngài cho là không
đáng bận tâm), Ngài làm thinh không buồn nói.
Nhưng đệ tử Phật thì không hoàn toàn như vậy . Ở xã hội Ấn Độ, gần 300 năm
trước khi Phật ra đời , với vị trí quốc giáo, tư tưởng Bà la môn đã ảnh
hưởng rất nhiều đến tư duy của người dân, dù là dân cai trị hay dân bị
trị. Dù một số nhà hiền triết chống phá một số tư tưởng(dân bị trị chống
phá giai cấp), song rất nhiều niềm tin của Bà la môn đã in sâu vào lòng
dân chúng , điển hình là vấn đề có Ngã. Cũng từ gần 300 năm trước Phật khi
xuất hiện, sự chống phá tư tưởng Bà la môn đã khiến xã hội triết lí Ấn Độ
bắt đầu rơi vào vòng xoáy tranh luận của các vấn đề “có, không”
,”giả,thật”. Vòng xoáy này có tuổi thọ khá dài, nó sống suốt từ đó đến tận
bây giờ (2005), chi phối và can thiệp vào tư tưởng nhiều hệ phái xuất hiện
sau này. Phật là một đại triết nhân, có tinh thần thực dụng ; thấy sự bất
cập của lí thuyết có Ngã, sự lầm lẫn tệ hại của các hành giả tự tính theo
đó, cũng như của dân thường trong cúng tế thần linh, mà tuyên bố Vô Ngã
(Không có Ngã). Nhưng chủ trương Vô Ngã này chỉ các triết nhân mới đồng
tình ,còn dân thường làm sao chấp nhận nổi! “Tôi là không có”, “Không có
tôi”, họ không sao chấp nhận nổi! Bình dân Ấn Độ vốn tự nhiên tin tưởng đa
thần giáo, họ là dân Naga và Dravidien. Với họ, cây cỏ sông núi... đều có
thần. Nay cả đến tôi(mình) còn không có, thì sống ra sao? Đệ tử Phật bèn
lấp khoảng trống này, tìm cách nói thế nào để dân không hoang mang mà vẫn
đạt mục tiêu “giảng Đạo -thoát- khổ”, lại không trái lời Thầy tuyên bố.
Thế là một cái Ngã giả, hay Ngã bất khả thuỵết, mà đều là Vô Ngã ra đời.
Khi
Phật còn sống, xu thế Ngã giả đã hình thành, nhưng chưa lạm phát. Đệ tử
Phật tiềm tàng hai xu hướng “có,không”, “ giả ,thật”, nên giữa họ đã có
những cuộc tranh luận với nhau. Từ khi Phật mất , trong khoảng thời gian
200 năm, Phật giáo chia thành 18 Bộ phái chính thức và vài phái vô danh[1].
Tất cả Bộ phái đều chấp nhận có cái “Ngã Vô Ngã”, và phần lớn sự tranh
luận giữa họ là vấn đề Ngã có hay không, có như thế nào, giả có hay thực
có.
Vì
nói thẳng cái tình thức tinh minh, tồn tại trong mỗi người này là Ngã
(Atman) mà thầy mình đã phủ nhận thì không được, không nói tới nó thì khó
mà tồn tại và phát triển dưới sức ép của Đạo khác và sự khó tiếp thu của
dân thường, các Bộ phái Phật giáo bèn gọi cái tình thức đó là Bổ Đặc Già
La (Pudgala) . Bổ Đặc Già La, giải thích theo mặt có thì dễ đồng với Ngã
của Bà la môn, giải thích theo mặt không có như Phật lại không được , các
Bộ phái càng giải thích càng lúng túng, mãi tự sa lầy đến hơn 300 năm sau,
tức lúc Phật mất khoảng 600 năm, mới nhờ Bồ tát Long Thọ cứu thoát[1].
Long Thọ xuất hiện khoảng 600 năm sau khi Phật mất[1],
thấy sự sa lầy của các Bộ phái, bùng nhùng trong lý luận mà xao nhãng mục
đích ra đời của Đạo Phật, bèn dựa vào loại thư tịch được tất cả Bộ phái
tôn trọng là 4 bộ A Hàm (tương đương 5 bộ Nikaya) mà khôi phục lại lý
thuyết Vô Ngã và tinh thần thương người của Phật. Lý thuyết Vô Ngã của
Phật nay được dựng lại bằng một hệ thống lý luận vững vàng sắc bén, chặt
ngọt mọi mũi dùi xưa nay của Đạo khác, nhất là Bà la môn, hoàn toàn thuyết
phục và xoa dịu các tranh chấp của luận lý “có không, giả thật” về Ngã của
các Bộ phái Phật giáo. Lý thuyết này, giờ mang một cái tên khác là Tính
Không.
Phật muốn cứu khổ mà nói Vô Ngã, lí luận ít, thực hành nhiều. Bộ phái
Phật giáo vì tiếp nối sự nghiệp cứu khổ và gỡ rối cho Đạo Phật mà nói Bổ
Đặc Già La. Long Thọ dùng lí luận khôi phục Vô Ngã, thổi bùng Bồ tát hạnh,
vừa đúng Đạo lí và công hạnh của Bổn Sư, vừa gỡ rối cho Bộ phái, vừa chiết
phục Đạo khác, vừa đưa Đại thừa Phật pháp – là xu hướng chung của mọi Bộ
phái Phật giáo đương thời – lên đỉnh huy hoàng. Long Thọ Bồ tát được khen
là một vị tăng tự cổ chí kim ngoài Phật ra không ai bằng được. Mọi tông
phái Đại thừa đều tôn Ngài là Tổ.
Tuy vậy, Tính Không tức là Vô
Ngã. Phật và Long Thọ Bồ tát, xếp theo hệ thống triết học của xã hội Ấn
Độ, thì thuộc về phái Vô (không có bản thể), xét trong Phật giáo thì thuộc
phái Không (không có bản thể) , nên Không cũng là Vô. Nên tất nhiên , dù
Phật không chuộng lí luận , dù Long Thọ tuyệt vời lí luận, các triết phái
về Hữu (có bản thể) của cả ngoại Đạo lẫn trong Phật giáo vẫn không hề tâm
phục khẩu phục . Phật đã bị công kích suốt quãng đời truyền Đạo, Long Thọ
đã phải tranh luận không ngừng ; ngay trong nội bộ Phật giáo , Phật cũng
bị một số đệ tử làm phiền, các bọâ phái theo triết Hữu -vốn bị chê là Tiểu
thừa- thì không phục Long Thọ .
Hơn
nữa , mặc dù trong hành động là ngập tràn từ bi, nhưng trong tư tưởng thì
cuộc đời với muôn màu muôn vẻ này chỉ là mong manh sương khói, nay vầy mai
khác, vui ít khổ nhiều, rồi đằng sau cái hiện tượng đáng chán mong manh
kia lại không có cái bản thể nào tốt đẹp cả, hoàn toàn không có , tất cánh
không, trụi lũi không. Cuộc đời này , với mọi thứ vui vui buồn, mọi thứ ta
người, phức tạp thế... mà vẫn chỉ là giả tạm, không thật, phù du, ngoài
cái phù du ra không còn cái gì nữa hết. Ta người đang sống đây vậy mà lại
là giả tạm không thật, chỉ là duyên hợp đất nước gió lửa (thân) và cái
được tạo bởi đất nước gió lửa ( tâm), ngoài cái hiện tượng giả có này ra,
không còn cái gì nữa cả. Tiếp xúc với cái Đạo mà sự thực hành và lý thuyết
như vậy, với những người đang quá đau khổ thì không nói, còn những bình
dân đang sống yên ổn sung sướng thì bảo sao họ không rùng mình dỡn óc?
Ngay nơi cái Đạo theo triết lý Không Vô này, phát huy Bồ tát hạnh với tình
thương bao la và dồn chú ý vào cuộc sống thực tế trong từng phút giây hiện
tại ( thiền tập), sống đời với Đạo đức và trí tuệ thực dụng, không đuổi
theo lý luận xa xôi, như đức Phật và Ngài Long Thọ thì còn được, nhưng Đạo
Phật muốn phát triển thì phải phát huy lý luận, mà Đại thừa Phật giáo càng
lý luận thì tư tưởng càng phải vươn cao, riết rồi công hạnh không theo kịp
lý luận, vả lại Đạo lý Không Vô nếu càng bàn luận là càng tiến sâu vào
mông lung. Cho nên khi Bồ tát Long Thọ và đệ tử là Đề Bà mất đi, học giả
Đại thừa dần dần kẹt vào lý Không. Đại thừa vốn giới luật không nghiêm
(không có luật tạng), nay Đạo hạnh không kịp lý luận, tư tưởng kẹt Không
ắt ngôn hành thiếu cẩn trọng. Đó là lý do 200 năm sau khi long thọ mất,
một nhánh của triết hệ Hữu thuộc Phật giáo ra đời, sửa đổi cách hiểu về
Tính Không, thành công rực rỡ, phái đó là Duy Thức.
Phái Duy Thức đầu tiên không phải là Duy Thức, cũng không phải Đại thừa.
Tư tưởng nó được mở đầu bởi Bồ tát Di Lặc – một danh tăng của phái Hoá Địa
(Tát Bà Đa) thuộc hệ thống Phân Biệt Thuyết[1].
Di Lặc thuộc hệ thống Phân Biệt Thuyết, nhưng chấp nhận tư tưởng Có (Hữu)
của phái Kinh Lượng (thuộc hệ thống Thuyết Nhất Thiết Hữu). Ngài viết luận
Du Già Sư Địa với tư cách một học giả Bộ phái Hữu - bị cho là tiểu thừa-
chống lại tư tưởng Không của Đại thừa. Đến khi Vô Trước, đệ tử Ngài, viết
luận Nhiếp Đại thừa, thì phái Duy Thức mói có tên là Duy Thức, và tự xưng
mình thuộc hệ thống Đại thừa. Tư tưởng Duy Thức của Vô Trước bắt nguồn từ
Ngài Di Lặc, song tư tưởng ông khác tư tưởng của Ngài. Tổng hợp tư tưởng
của Vô Trước và Di Lặc là Thế Thân, em ruột Vô Trước. Duy Thức của Thế
Thân hoá ra lại khác Duy Thức của Vô Trước, và Duy Thức của Thế Thân là
Duy Thức học ngày nay.
Đó
là diễn tiến bốn giai đoạn lịch sử của Phật giáo Ấn Độ, từ Vô Ngã của
Phật, đến Bổ Đặc Già La của Bộ phái, qua Tính Không của Long Thọ và Duy
Thức của Vô Trước, Thế Thân.
Để
tiện việc theo dõi nội dung các phần sau, xin xem thêm biểu đồ:
a. Biểu đồ phân chia Bộ phái
THỜI GIAN
HÌNH DẠNG PHẬT GIÁO
Phật vừa mất (388 BC)
Tăng đoàn một khối
Phật mất 100 năm
Thượng
tọa Đại chúng
(288 BC)
Phân biệt thuyết Thượng toạ Đại chúng
Phật mất
100-130 năm Phân biệt thuyết Độc tử Thuyết
nhất thiết hữu Đại chúng
(258-248 BC)
Phật mất 160-200 năm Hóa
địa Thuyết kinh
(248-188 BC) Aúm
quang (Thuyết chuyển)
Pháp tạng
Lục sơn
Đồng
diệp Đa văn
Lục thành Đa văn phân
biệt
Hiền đạo
Kê dẫn
Pháp thắng Nhất
thuyết
Chính
lượng Thuyết xuất thế
b.
Biểu đồ tư tưởng Có Không (bản thể)
THỜI
GIAN Có
Không
Đức
Phật (468-388 BC) Bà la môn (xưa nay)
Đức Phật
Phật mất 100-600 năm, Hai hệ thống Độc tử và
Hai hệ thống Đại chúng và
(tức 288 BC– 388AC) Thuyết nhất thuyết
hữu. Phân biệt thuyết.
Phật mất 600 -800 năm,
(tức 388- 588
AC)
Tính Không Đại thừa
Phật mất 800-1000 năm,
(tức 588-788 AC) Duy Thức Đại thừa
II. Đức Phật và Vô Ngã
1. Tại sao Phật nói Vô Ngã?
a.
Đạo của Phật.
Đức
Phật, khi trở lại vườn Nai với tuyên bố đã tìm ra Đạo, bài pháp đầu tiên
Ngài giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như là bài Tứ Đế, nói về những cái khổ ở
đời (Khổ), nguyên nhân dẫn đến có cái khổ đó (Tập), rồi nói về sự bình an
vắng bóng khổ đau (Diệt) và phương pháp để đạt được sự bình an ấy (Đạo).
Đạo, con đường, phương pháp đạt được bình an này là Bát chánh Đạo. Phật
còn nói Bát chánh Đạo chính là Trung Đạo, con đường duy nhất đưa đến Niết
Bàn[1]
.Như vậy, bài pháp đầu tiên đức Phật gởi đến thế gian là phương pháp để
con người sống không còn đau khổ.
Ngày hôm sau, Phật nói bài pháp thứ hai cho 5 anh em, là bài Vô Ngã Tướng
(không có Ngã). Ngài phân tích vũ trụ, trong đó có con người, ra làm 5
nhóm (Uẩn). Trong 5 nhóm đó, Ngài trình bày cho thấy không có cái gì kêu
là “cái này của tôi, đây là tôi, đây là tự Ngã của tôi”[1].
Hai
bài pháp của hai ngày đầu tiên ấy, là nội dung của Đạo mà Phật tìm ra. Kể
từ ngày thứ ba trở đi, đến cuối đời, mọi bài pháp của Phật đều xoay quanh
hai nội dung ấy. Bát Chánh Đạo (phương pháp sống thoát khổ ) là mặt hành
động của Đạo Phật. Vô Ngã (không có tự Ngã, linh hồn, thượng đế) là mặt lý
luận của Đạo Phật. Đạo - cách sống thoát khổ, con đường hạnh phúc – Phật
đã tìm ra, là thế.
Trong suốt cuộc đời truyền Đạo, đức Phật luôn giữ vững hai lập trường ấy,
như hai cánh không thể thiếu của một con chim, dù rằng Ngài gặp rất nhiều
phiền toái vì luận lí Vô Ngã. Đức Phật thường nói “ta nói duyên khởi” để
chỉ sự khác biệt của Đạo Phật với Đạo khác[1]
, mà duyên khởi thì Vô Ngã. Vô Ngã như là đặc Tính Không thể thiếu của Đạo
mà Ngài truyền bá. Vì lý do gì đức Phật giữ mãi luận lý Vô Ngã ? Muốn có
câu trả lời, hãy trở về tìm xem mục đích đi tu của Phật là gì.
b.
Mục đích Phật đi tu.
Ai
cũng biết, mục đích Phật đi tu là cứu khổ cho con người. Đành vậy, nhưng
tại sao với cương vị Thái tử của vương quốc Xá Di (kinh đô là Ca Tỳ La
Vệ- kapilavartu) ,Ngài không lên ngôi và chinh phục thiên hạ để làm Chuyển
Luân Vương, dùng quyền lực cứu khổ dễ hơn, lại chọn làm bậc Nhất Thiết
Trí, đề rồi bị khá nhiều gian truân do dân chúng gây ra?
Xét
theo lịch sử bấy giờ, dân du mục Aryan thống trị hầu hết Ấn Độ. Họ chia
khu đất chiếm được ra thành nhiều nước lớn, mỗi nước lớn có nhiều khu tự
trị nhỏ, trong ấy dân bản xứ cai trị dân bản xứ. Bấy giờ, chính trị hà
khắc, xã hội phân cách nghiêm trọng, dân thống trị Aryan càng giàu thì dân
bị trị càng khổ, những bậc yêu nước thương dân của các khu tự trị càng đau
lòng. Sự mâu thuẫn giai cấp, dòng tộc, và mầm mống chiến tranh xuất hiện
mọi nơi[1].
Thái tử Tất đạt đa, ngay ý nghĩa cái tên đã thấy Tịnh Phạn vương kì vọng
vào con như thế nào rồi, vốn được tuyên đoán sẽ thành bá chủ hoàn cầu nếu
ở đời và là chúa tể trí tuệ vũ trụ nếu đi tu, thái tử hẳn đã ưu tư đến mức
nào khi thấy dân mình bị áp bức thống khổ, và chắc chắn lời tuyên đoán của
đại tiên A tư đà rất được thái tử tin theo. Trong nhiều năm tháng, từ khi
biết suy tư đến lúc bỏ cung điện đi tu, hẳn Ngài đã buồn bã như thế nào
khi khoanh tay đứng nhìn tiểu quốc Xá Di (trong đó có kinh thành Ca tỳ la
vệ) với toàn diện tích chưa đầy trăm dặm đất (60 km2), lại là thuộc địa
liền kề của vương triều Kiều tát la( kosala)[1],
nạn diệt tộc lăm le, cái mộng làm bá chủ hoàn cầu để đem hạnh phúc cho
nhân loại, nhất là cho người cùng khổ, gần như vô vọng. Những thú vui vàng
son cá nhân không làm vơi nỗi sầu của Ngài. Một bậc trí dũng song toàn
nhìn xa trông rộng như Ngài hằng ngày thấy dân mình khổ nhục, vận nước
mong manh, không thể liên lạc bàn tính với các khu tự trị khác, thì vợ đẹp
con ngoan ba cung điện hoàng son ngôi vua nhỏ bé có yên ổn bền chắc gì
đâu!
Có
lẽ không phải chỉ vì thấy mình vô phương cứu dân khổ bằng con đường vũ lực
mà Thái tử buồn chọn phương pháp đi tu, hẳn còn vì Ngài thấy con đường vũ
lực là không đáng, bởi Ngài thấy cả sự khổ sở của những người thống trị.
Ngài thấy sự vô nghĩa và đáng thương của kiếp người khi cứ mãi ăn nuốt
nhau, chà đạp nhau. Nhất định là các trào lưu tư tưởng veda và phản veda
xưa nay đã định hướng cho cách nhìn đời của Ngài, như sự chán đời của nhóm
người cùng khổ, sự thương sinh vật của luạât Ahimsa (bất tổn sinh), sự
bình đẳng không khác biệt của bản thân mình và mọi người (vì chỉ là những
thành phần tứ đại kết hợp) của triết phái Số luận. Và cũng không hẳn là
chỉ khi ra dạo 4 cửa thành, thấy cảnh khổ của già bệnh chết và cảnh an vui
tự tại ở đời của một tu sĩ không nhà (không phải Đạo Phật) mà thái tử mới
phát khởi ý định đi tu. Chắc chắn là từ khi có tầm nhìn chiến lược về thời
cuộc cho đến năm 29 tuổi đi tu, sau quá trình buồn vì thấy mình không thể
chuyển xoay thời cuộc bằng vũ lực(Chuyển Luân vương) Ngài đã lại buồn vì
không biết nên đi tu theo phái nào để mới có thể cứu khổ cho mình và nhân
loại, bởi chẳng những Ngài đã làu thông 4 bộ veda và các chú giải veda
(upanishad) mà còn thấy rõ những bất cập của hệ thống triết lý và tu hành
của veda nữa. Mặc dù có biết bao triết thuyết thuộc hai nhóm veda và phản
veda, đại diện là 62 triết thuyết, tất cả tạo thành một xã hội sôi nổi lý
luận, vẽ ra rất nhiều con đường dẫn đến Niết bàn-họ cho là vậy-nhưng Thái
tử lại chưa thấy con đường nào khả thi cả. Nhìn dân tình, xét lại mình,
buồn. Muốn đi tu, chưa biết theo ai, do dự. Gặp hình bóng giải thoát an
nhiên của vị tu sĩ, Thái tử quyết định ra đi tìm thầy học Đạo. Chắc rằng
còn đâu đó giữa chốn rừng xanh, một vài vị A la han(arhat) cư trần bất
luỵ.
*
phụ thích.
Trước nay, nghiên cứu về sự xuất thân xủa Phật, có hai ý kiến:
1.
Phật là người Aryan, dòng Sát đế lợi, vì thương con người đau khổ, nhất là
người bần cùng mà quay lại chỉ trích Đạo Bà la môn , từ bỏ ngôi vị để tìm
hạnh phúc cho mọi người. Luận cứ của ý kiến này có rất nhiều, điển hình
như dân tộc Thích Ca (Shakya)hiện còn tại tiểu quốc Nepan là giống người
cao to ,mũi cao, giống như dân tộc Aán Âu (Aryan). Rồi cũng chính Phật
trong một vài kinh A hàm, xác nhận mình là giai cấp Sát đế lợi người
Aryan.
2.
Phật là vương tử của một tiểu quốc bị cai trị, thuộc dân du mục Mông Cổ da
vàng đã nông điền hóa ( bỏ chăn nuôi lang thang, định cư trồng lúa). Luận
cứ của một nhà nghiên cứu thuộc nhóm này có vài điểm như sau:
-
theo quyển Tây Vực kí của tam tạng Huyền Trang, dòng họ Thích ngoài nước
Xá Di với kinh đô là thành Ca tỳ la vệ, còn 4 nước khác :a. Phạm diễn na[1],
nằm trong Tuyết sơn, nay[1]
là bờ phía tây của dãy núi Hưng đô khố tư. b. Tứ ma đản la, nằm dưới chân
Tuyết sơn, nay là phía nam của núi Ba đạt khắc. c. Thương di. , nằm về
phía nam núi Thông Lĩnh, nay là biên giới Ấn Độ và A phú hãn
(Afganishtan). d. Ô trượng na, nay là vùng phía bắc của các tỉnh thuộc
biên giới phía bắc của Aán, cố đô khu này nằm sát chân núi Thông Lĩnh. Bốn
khu này đều không phải người Aryan.
-
kinh Tạp A hàm số 102, quyển IV, chép: có lần Phật định vào nhà một Bà la
môn, bị xua đuổi và bị mắng là “lĩnh quần đặc”(tầng lớp ti tiện). Nếu Phật
là người Aryan , chắc không xảy ra chuyện đó.
-
vua Ba tư nặc của vương triều Kiều tát la (Kosala), vốn người Aryan, muốn
cưới một công chúa của dòng họ Thích. Dòng họ Thích không chịu, nhưng
không dám trái , phải lấy một con hầu giả làm công chúa. Rõ ràng là do
dòng tộc khác nhau.
-
khảo sát theo sự phân bố địa lí, dòng họ Thích là dân tộc sống ở vùng rừng
núi phía bắc Ấn Độ. Dòng họ Thích nhờ dũng mãnh thiêïn chiến mà có tên
Shakya. Nước láng giềng phía đông của các nước dòng họ thích, là Câu thi
na, được gọi là nơi sản sinh ra lực sĩ. Như vậy, dòng họ Thích của nước Xá
Di , với đô thành Ca tỳ la vệ, là một bộ phận trong các dân tộc du mục
trong vùng Tuyết sơn đã tràn xuống đồng bằng và đã được nông nghiệp hóa.
-
các cụm dân cư từ núi Thông Lĩnh tràn xuống phía đông, phân bố dọc theo
Tuyết sơn, hình thành các nước , như Tây Tạng, Ni bạc nhĩ, Bất đan, và
tỉnh A tát mật của nước Ấn Độ bây giờ[1],
toàn là dân da vàng. Dòng họ Thích nằêm trong cụm dân cư này, là da vàng
không nghi gì nữa.
-
dân tộc lập ra nước Tỳ xá ly (Vesali) là dân Ly xa tử. Nước Ma kiệt đà
(Maghada) , là dân Aryan, vì muốn thu phục nước Tỳ xá ly nên kết làm thông
gia. Mà theo tam tạng Huyền Trang, dân tộc Ly xa tử chính là dân tộc Ni
bạc nhĩ da vàng. Sau khi Phật mất, nhóm tỳ kheo ở vùng Bạt kỳ thuộc nước
Tỳ xá ly , trong khi kêu gọi các bậc kỳ túc ủng hộ họ trong cuộc tranh
luận với nhóm trưởng lão tỳ kheo ở nước Ba lợi , tại Tây Ấn Độ, họ có nói
: “Các vị đại đức ! Tỳ kheo hai nước Ba di na và Ba lợi cải nhau. Đức Thế
tôn là người nước Ba di na, xin đại đức trợ giúp Tỳ kheo Ba di na.”[1]Ba
di na là một tiểu quốc của khu vực Tỳ xá ly. Một dãi các nước quanh Tỳ xá
ly đều có quan hệ huyết thống với Tỳ xá ly, nước Xá Di với kinh thành Ca
tỳ la vệ của Phâït là một trong những nước đó[1].
c. Sự mâu thuẫn trong giáo lí và pháp tu của đạo Bà la môn.
*
thần linh, bốn giai cấp, cúng tế, vòng luân hồi.
Theo chân đoàn di dân Aryan xâm chiến Ấn Độ năm 1600 BC (trước khi Phật
mất 1200 năm), đến 1000 năm BC (trước khi Phật mất 600 năm) thì các kinh
Veda xuất hiện, Bà la môn dần xướng các chủ thuyết “xã hội 4 giai cấp”,
“kinh Veda do thần tối cao nói”, “cúng vái các vị thần linh là việc làm
vạn năng, có thể tiêu tội nghiệp, lên thiên đường, giải thoát luân hồi
khổ. Tất nhiên mọi người dân, mọi sắc tộc bị cai trị sẽ chấp nhận thản
nhiên 3 qui tắc đó nếu nó đem đến cho họ hạnh phúc. Nhưng không, từ khi
được xem là quốc giáo, nắm quyền về giáo dục và tôn giáo[1],
Bà la môn dần xem mình cao hơn giai cấp Sát đế lợi (Kshatriya)
[1],
rồi hạch sánh nhũng nhiễu dân chúng, trong từng buổi cúng thần, tiền bao
nhiêu thì Thần mới linh[1].
Đến nỗi họ giàu sụ ra, đất bao la, tiền vàng đầy kho[1],
trong khi dân thường bị hai cái tròng Ba la môn (Brahmane) và Sát đế lợi
(Kshatriya) mà ngày càng khốn khổ.
Tuy
nhiên, những Bà la môn chân chính không phải không còn. Họ đúng là những
bậc đức cao vọng trọng trong xã hội. Họ chỉ ra những lỗi sai của giai
cấp mình hầu giữ gìn nét cao quý. Họ bảo tồn những cái hay của lí thuyết
Bà la môn , đồng thời bảo tồn cả những ý kiến chống đối cái tệ của Bà la
môn của họ hay của giai cấp khác nữa, bảo tồn trong những bộ Veda và chú
giải Veda (Upanishad). Mặc dù họ vẫn cho giai cấp Bà la môn là cao quý,
dẫu không bằng Kshatriya. Ngoài ra, không phải dân bị trị là dốt, vẫn có
những hiền giả những phú gia hay vua quan khu tự trị thông suốt các triết
lý Veda và trông thấy rõ sự mâu thuẫn tràn ngập về lối sống của bọn Bà la
môn xấu và cả sự mâu thuẫn của lí thuyết và hành động của toàn bộ hệ thống
Bà la môn nữa, sự mâu thuẫn ấy nằm ngay trong các bộ Thánh kinh của Bà la
môn là Veda và Upanishad (chú giải Veda).
Chính các bộ Veda cho người ta biết, các thần linh trong giáo lí Bà la
môn đã lần lượt được con người nặn ra như thế nào, mới đầu chỉ một vài vị,
sau đầy cả vũ trụ , mây gió lá hoa,...cái gì cũng có thần trong đó[1].
Những thần linh người tạo thì làm sao cứu khổ trở lại cho người ?
Số
phận vị thần tối cao sáng tạo vũ trụ cũng được đổi ngôi liên tục trong
Veda. Đầu tiên là thần lửa Agni với nguồn sống nóng hổi, tinh thần của vũ
trụ. Kế là thần giông tố mưa bão Indra , vì mưa quí hơn cả nắng, đối với
dân Aán Aryan[1].
Rồi là thần Soura, thần Prajapati, thần Brama .. Mà thần tối cao này là vị
nói ra 4 bộ thánh kinh Veda (chính xác là 3, còn bộ thứ tư là A thát bà
Phệ đà-Atharva veda- thì xuất hiện sau), và 4 giai cấp của xã hội lại đẻ
ra từ thân thể vị này !
Thuyết luân hồi cũng dần dần hoàn thiện theo các kinh trong Veda. Nhờ
Veda, người ta biết rằng trước khi Veda xuất hiện, ngay dân Aryan cũng
chưa tin rằng có sinh tử luân hồi, tôn giáo thời đó chỉ thờ các hiện tượng
tự nhiên, chưa hề nói về giải thoát sinh tử[1].
Ngay cả khi Veda đã hình thành năm 1000 BC, thì trong giai đoạn Upanishad
hình thành để giải thích kinh Veda (800-500 BC, Phật ra đời khoảng 500
BC), chính Upanishad cho biết, người dân lúc ấy vẫn chưa hoàn toàn tin vào
thuyết luân hồi[1].
Từ khoảng 800 BC, các tư tưởng hoài nghi về luân hồi, hay chỉ trích luân
hồi một cách thẳng thắn đã xuất hiện. Một trong những câu triết gia phái
Hoài nghi đã hỏi là “Nếu luân hồi có, người đi tái sinh qua cảnh khác, sao
họ không nhớ nhung mà trở về thăm ?”[1].
Thời Veda, 1000-800 BC , luân hồi chỉ mới đơn giản là hết đời này linh hồn
con người sẽ theo nghiệp (Karma) thiện ác của mình mà lên trời sống sướng
hay xuống địa ngục sống khổ, mãi mãi[1].Thời
Upanishad (800-500 BC) , nội dung luân hồi khá hơn với tất cả động vật đều
là phân thân – đực và cái, hai nữa thân mình- của thần tối cao Prajapati[1].
Linh hồn con người sau khi chết, có thể nhập vào con vật hay con người,
hình thành một đời sống khác[1].
Trong Bà la môn , luân hồi (Moksha) và nghiệp (Karma) là hai khái niệm đi
liền nhau. Trong cuộc sống gay gắt vì bất công giai cấp, lí thuyết nghiệp
(Karma) đã xoá nhoà rất nhiều nỗi tuyệt vọng của người nghèo, giúp tầng
lớp cai trị ổn định xã hội một cách không phí sức[1].
Để thoát khỏi vĩnh viễn sự cùng khổ do ác nghiệp mình đã gieo từ biết bao
đời trước, kết quả ở đời này và sẽ còn kéo dài mãi biết bao đời nữa nếu
mình không tu, người bị trị chỉ còn một cách là hết sức tu tập khổ hạnh
hay yoga (thiền định). Đến khi linh hồn mình (tiểu Ngã-Atman) không còn bị
trói buộc bởi những nhận thức sai lầm( ảo tưởng-Maya) về bản thân và
những ước mong ích kỉ riêng tư, hoà tan hoàn toàn vào với bản thể , là
linh hồn của vũ trụ (đại Ngã-Braman) .
Trừ
người không tin Veda và không tiếp xúc được với Veda (tiện dân), những
người tin theo Veda, trong đó người Bà la môn , đều siêng năng cúng bái
thần linh, xuất gia tu tập khổ hạnh và yoga. Mặc dầu thấy bọn Bà la môn
xấu đang dùng giáo lí để làm giàu trên xương máu người dân, mặc dầu thấy
cúng vái tu tập qua thời gian bao lớp người vẫn chưa thấy ai được Thần cứu
rỗi hoặc đạt đến toàn tri toàn giác, thoát li luân hồi, mặc dầu cũng chịu
ảnh hưởng của những tưởng phủ nhận Veda, nhưng chính những giáo phái
nghịch Veda vẫn chẳng vẽ ra con đường nào thuyết phục dẫn đến giải thoát
khổ đau, mặc dù cảm thấy sự không thỏa đáng của chính cái mấu chốt giải
thoát sinh tử của Bà la môn là Tiểu Ngã và Đại Ngã, nhưng chính vì toàn
cõi Ấn Độ chỉ có một tôn giáo nắm quyền về giáo dục lèo lái tri thức Ấn
Độ, nên những bậc trí tuệ thời đó vẫn phải miệt mài trong khổ hạnh và
thiền định (yoga), hầu hoà Tiểu Ngã vào Đại Ngã để giải thoát.
* Tiểu Ngã, Đại Ngã và pháp tu giải thoát.
Nhưng Atman (Tiểu Ngã, linh hồn con người) và Braman ( Đại Ngã, Phạm thể,
bản thể vũ trụ) là như thế nào? Và phương pháp giúp Atman hoà tan vào
Braman khả thi như thế nào ?
Linh hồn con người mang tên Atman ở thời Upanishad , còn ở thời Veda nó
chưa có tên. Thời Veda, người ta chỉ tin rằng có linh hồn bất diệt[1].
Sau khi Veda thịnh hành ,bắt đầu có những bài chú giải về ý nghĩa trong
Veda, đó là Upanishad , người ta bắt đầu thắc mắc về sự hình thành của vũ
trụ và con người, về sự tồn tại của con người sau kiếp sống này, con người
làm sao để không tái sinh trong cõi đời vô nghĩa đầy khổ đau này nữa. Và
thế là luận lí về Tiểu Ngã, Đại Ngã và pháp tu ra đời.
Ngã(Atman, tiểu Ngã) là linh hồn con người , là cái tinh thần bất diệt,
nằm trong con người nhưng là đằng sau sinh lí (thân) và tâm lí (tư tưởng,
tình cảm..) . Thân này là tứ đại, giả, không phải Ngã. Tâm này với suy
tính, nhận biết, tự cho đó là tôi (mình), cũng là sản phẩm của tứ đại,
giả, không phải Ngã. Nói tóm, thân tâm đang là của con người đây- mọi thứ-
chỉ là giả (Maya ; ảo tưởng), phù phiếm không thật, vô thường biến hoại và
đau khổ. Trong tư tưởng Bà la môn , Ngã không phải là cái thân xác và tinh
thần đang là này của con người.
Không thể nhìn thấy Ngã bằng lí trí, suy luận, chỉ có thể nhận thấy bằng
sự tri giác tuyệt cao, trực tiếp, đốn ngộ. Vừa nhìn vào nội tâm, không thể
thấy liền Ngã. Cái nhìn phải sâu, xuyên qua mọi cảm giác, mọi hiểu biết,
tính toán, suy tư, xuyên qua cả cái mà mình tự cho đó là mình; với trạng
thái tâm bình tĩnh, hoàn toàn an ổn , không còn thấy có(bản thân) mình, và
khi cái nhìn ấy biến mất, hoà tan hoàn toàn vào một cái Duy Nhất , tức là
cái thực thể mênh mông vô hình vô sắc bàng bạc khắp nơi của tinh thần, thì
cái Duy Nhất ấy là Ngã[1].
Ngã
là linh hồn của mọi con người , không phải của một người. Thường ngày, con
người tự cho thân là mình, tâm (suy tưởng) là mình, không phải. Thân tâm
đó chỉ là ảo ảnh (Maya) , không thật, không phải là mình. Mình (cái Ta)
thật thì không khác với cái “mình” của người khác, vì trong cái Ngã không
có mình người. Tất cả động vật (loài hữu tình) chỉ là một, duy nhất , đó
là linh hồn bất diệt, mọi hình thức sai khác của mình người chỉ là ảo
ảnh. Tất cả khổ vui buồn giận...(tâm lí) , tay chân mắt mũi...( sinh lí)
chỉ là ảo ảnh, chúng vận động và bị chi phối trong vòng quay của ảo ảnh (
moksha-luân hồi).
Ngã
này thường còn bất biến, chân thật bất hư. Không có đau khổ (vì không cảm
giác) nên là vui, không có dơ nên là sạch, không có quấy nhiễu nên là tĩnh
lặng. Mặc dù vui sạch tĩnh lặng cũng vốn không có trong Ngã, vì những thứ
đó cũng là Maya, nhưng vì Ngã là chỗ cùng tột của sự hi vọng nương về của
con người nên Bà la môn lấy nó làm ý nghĩa của Ngã.
Ngã
là bản thể, là Niết Bàn (chân hạnh phúc- hạnh phúc vĩnh cửu). Thân tâm
chúng sinh (hữu tình) và tất cả những phụ thuộc vào thân tâm chúng sinh,
như nghiệp (karma), khổ (dukkha), vòng luân hồi (moksha)... chỉ là hiện
tượng, là Maya (ảo ảnh) không thật , là ảo hoá, huyễn hoá, giả tạm, là vô
thường, là sinh tử. Ngã (Atman) như nước muôn trùng bao la, luân hồi sinh
tử (tất cả những cái liên quan đến con người) như một giọt nước trên đầu
ngọn sóng hay là những ngọn sóng, ...[1].
Tóm
lại, Ngã (Atman) là cái tôi (mình, ta) đích thực, không phải là thể chất
(thân), không phải là tinh thần bình thường trong con người (tâm), cũng
không hề là một cái tôi cá nhân, nó là một cái gì sâu thâm thẳm, vô hình
vô thanh trong nội tâm con người[1].
Nếu thực sự mình (con người) là
Ngã, thì mình vốn đã tồn tại từ muôn đời trước và còn mãi trong Niết bàn
đến vạn đời sau (điều này nghe ra có phần an ủi cho người nào ham sống).
Và như vậy, hiện nay mình đang còn ở trong Niết bàn, và cái mà mình cho là
mình đây lại không phải là mình, cả cái “mình” để mà “cho là” cũng không
phải (điều này thì hơi khó hiểu). Thế nhưng tại sao mình đang Niết bàn,
mình lại không biết, mà thực tế cuộc sống vốn chỉ là Maya kia lại quá
nhiều đau khổ? Từ lúc nào mình ở Niết bàn mà lại lọt ra cái vòng luân hồi
khổ, trong đó cái đang bị khổ lại không phải là mình? Và vốn chỉ là duy
nhất một mình, nay sao lại thấy có rất nhiều chúng sinh (động vật)? Cuối
cùng, làm thế nào để trở lại cái Niết bàn – mình – duy nhất miên trường?
Rắc
rối nảy sinh ở chỗ này. Bà la môn giải thích, thực ra là chúng sinh đang ở
trong Niết bàn, vì chính chúng sinh là Niết bàn. Còn tất cả thân tâm mọi
chúng sinh đây, vui buồn sướng khổ, theo nghiệp luân hồi... đều không phải
là chúng sinh. Cái ta đang là đây không phải thật là ta, mọi thứ hiện
tượng của cuộc đời chúng ta chỉ là Maya (ảo ảnh), không có thật. Không có
thật, nhưng nó “có trong cảnh Maya”. Đã là Maya, nên vốn chỉ là một nên
thấy có nhiều, vốn đồng mà thấy sai khác, vốn bất động mà thấy có xuống
lên luân hồi, có khổ vui thành bại. Còn thời gian nào Maya xuất hiện, vì
sao Ngã lại đẻ ra Maya, thì không ai biết được, bảo là từ vô thỉ (từ rất
lâu về trước). Tất nhiên, Maya phải nảy sinh từ Atman, nhưng không ai biết
vì sao! Chỉ biết là nếu Maya không từ Atman sinh ra thì không biết làm sao
đưa con người từ sinh tử khổ Maya về Niết bàn vui Atman, và lý thuyết về
linh hồn bất diệt không có chỗ đứng. Tất nhiên là Atman không thể trực
tiếp đẻ ra Maya, vì Niết bàn làm sao đẻ ra sinh tử được và nếu quả đúng có
đẻ ra, thì sau khi tu về tới cõi Niết bàn, chừng nào ta mới bị lọt lại
sinh tử. Tất nhiên là Atman và Maya không thể cùng có từ vô thỉ, vì cùng
có thì không thể nào biến mất Maya để trở về Atman. (Xin nhắc với người
đọc rằng, người đọc đang được giới thiệu sơ lược về triết lý và pháp tu
của Bà la môn giáo). Bà la môn bảo rằng, không cần lý trí và lý luận lô
gích trong vấn đề này, cái cần có là sự sâu sắc, là cái khả năng nhân ra
đâu là bản thể (Atman) mà thôi[1].
Đây
là lý do để những người không tin thoải mái chê cười, và các tu sĩ tin
theo lại quên mình hiến thân cho tu tập. Song làm thế nào rủ bỏ cái Maya
khổ mà trở về cái Atman vui, tu tập theo phương pháp nào? Bà la môn nói,
tuy không biết Maya có mặt từ khi nào, song cũng từ rất lâu, con người
chúng ta không hiểu rằng chúng ta là Maya, vì bị một cái kêu là vô minh
(Avidya) trói buộc sự hiểu biết. Vô minh (avidya) trong nhận thức, ảo ảnh
(Maya) ngoài hiệntượng, hai cái này kết hợp làm cho chúng ta – một phần
rất nhỏ trong Maya – ngỡ rằng chúng ta là thật, khác biệt nhau[1].
Từ đó, chúng ta tính toán vị kỷ hơn thua, rồi đi luân hồi, khổ. Nếu ai đó
thao thức muốn thoát luân hồi sinh tử (moksha), muốn thoát sự trói buộc
của vô minh (avidya), phải bỏ cái ý thức rằng mình và mọi chúng sinh khác
nhau, quên đi những ích kỷ cá nhân phù du[1],
thực hành những phương pháp trầm tư (yoga – thiền định) và khổ hạnh đầu đà
hầu đạt được sự hoà tan vào Atman. Đối với riêng người đó, khi hoà tan vào
Atman, Maya chấm dứt.
Nếu
như lý thuyết về Ngã hình thành bắt đầu từ ý nghĩ con người là còn hoài
không mất, rồi tìm xem con người từ đâu xuất hiện trong đời và sẽ đi về
đâu, thì lý thuyết về Phạm (Brahman – Đại Ngã) bắt đầu từ câu hỏi vũ trụ
này từ đâu có, cách thức tồn tại (Có ) như thế nào.
Vết
tích đầu tiên của người Bà la môn khi tìm hiểu về Brahman (phạm thể) – bản
thể vũ trụ, là “bài thánh ca về sự sáng tạo vũ trụ” trong Lê câu phệ đà
(Rig – veda)[1].
Trong bài thánh cảnh đó, có một cái Nhất, cái Độc Nhất có sức sống, nhưng
không biết nó là cái gì, không thể lấy cái gì để hình dung nó, vì bấy giờ
vũ trụ chưa có gì hết. Từ cái Độc Nhất đó, phát ra một tia sáng cực nóng
bao hàm trong nó một tình thương, tia sáng đó tạo ra tất cả. Trời đất có
trước, muôn vật có sau, và thần linh ra sau nữa.
Tác
giả bài thánh ca ấy, khi đã cho rằng vũ trụ được sáng tạo như vậy rồi, lại
tự hỏi sự sáng tạo đó từ đâu mà có. Từ Rig – veda qua Upanishad, người ta
có rất nhiều lý giải. Có người cho rằng sự sáng tạo này do Đấng tối cao
làm, vì tuy các thần linh nhỏ sinh ra sau nhưng Đấng tối cao đã có từ bao
đời và tồn tại mãi. Lại có người cho rằng, vũ trụ có ra là do một sự lầm
lẫn của Đấng tối cao[1].
Từ đó, tên đầu tiên của Đấng tối cao là Agni (thần lửa). Sau, có người
bảo, không phải, cái có mặt đầu tiên trước khi vũ trụ ra đời chỉ là cái
Độc Nhất thôi, không có thần gì khác. Cái Độc Nhất đó có sức sống, nhưng
vô hình vô thanh, đã hình thành nên vũ trụ và điều khiển mọi hoạt động
sinh diệt của vũ trụ xuyên suốt mọi thời gian. Thế là cái Độc nhật ấy được
mệnh danh là Prajapati – năng lực sống vô hình – và dần trở thành vị thần
sáng tạo vũ trụ[1].
Thần Prajapati, sau bị đổi tên là Brahma (Phạm thiên), là vị không có hình
dạng, vô thể, trùm khắp, có mặt trong từng cá thể li ti nhất của vũ trụ,
và điều khiển vũ trụ.
Cái Độc Nhất ấy, cuối cùng, được đồng ý là bản thể của vũ trụ,
tức là Phạm thể (Brahman). Khi xem cái Độc Nhất với tính cách một thần
linh sáng tạo vũ trụ, người ta gọi vị thần linh đó là Phạm thiên
(Brahma). Sau này, vị Brahma được đổi tên là Ishvara (Thượng đế).
Một điều thú vị là mặc dù khi phần đông đều chấp nhận Brahman
là Phạm thể (bản thể), từ đó sinh ra vũ trụ (hiện tượng), thì vẫn có một
niềm tin len lõi trong nhân gian, là mọi hiện tượng vật chất (vũ trụ) được
sinh ra từ yếu tố tinh thần (purusha), do vậy Đấng tối cao vô thể chính là
Purusha chứ không phải Phạm thiên (Brahma), mặc dù Brahma là vị thần cao
nhất trong các vị thần. Người đại diện tư tưởng này – không cho Thượng đế
là đấng sáng tạo vũ trụ- là Kapila của triết phái Số luận[1].
Mặc dù Kapila chỉ cho purusha là bản thể vũ trụ, không chấp nhận purusha
là vị thần tối cao, nhưng dân chúng thì lại cho là vậy. Thú vị ở chỗ,
purusha lại có tính chất của Atman (linh hồn con người).
Như
vậy, cuối cùng, linh hồn con người là Atman (tiểu Ngã), linh hồn vũ trụ là
Brahman (đại Ngã), Atman và Brahman là một, tư tưởng này là chính yếu
trong dòng tư tưởng Bà la môn thời Upanishad[1].
Đây cũng là nền tảng lý luận để hình thành những phương pháp tu tập thoát
ly luân hồi khổ.
d. Đúc kết.
Đạo
của Phật là Đạo cứu khổ, như Phật tuyên bố ngày đầu giảng Đạo, và Đạo tức
là con đường dẫn đến Niết bàn – hạnh phúc chân thật. Đạo Phật chú trong
hoá giải đau khổ đời này, đau khổ của con người, không quan tâm đến đời
trước đời sau, hay của các loại chúng sinh khác.
Với
động lực đi tu là tìm Đạo cứu khổ cho con người, nhất là người bị trị, sau
một thời gian lâu đắn đo chọn lối tu, không thấy tính khả thi trong việc
cứu khổ mình và người của các phái Số luận , Duy vật, Hoài nghi, Hư vô,
Nguỵ biện.. đang thịnh hành, Phật quyết định thí nghiệm tìm Đạo trong yoga
(thiền định) và khổ hạnh của Bà la môn , dù biết rằng nền tảng lý luận để
hình thành pháp tu của họ là không thuyết phục lắm.
Theo lời Phật, Ngài đã đạt đỉnh của yoga (chứng thiền phi phi tưởng) và
khổ hạnh, song vẫn không thấy Đạo – tức lối sống thoát khổ cho mọi người,
nhất là dân nghèo, ở hiện đời và đời sau. Thế rồi, chắc chắn là khi thấy
khổ hạnh vô ích, thọ nhận sữa bò của nàng thiếu nữ xong, trong 49 ngày suy
tư, đức Phật đã nhìn lại; nhìn lại cuộc đời, nhìn thời thế, nhìn pháp tu,
nhìn lại mình, rồi nhào trộn tất cả lại vào mục đích cứu khổ con người.
Nhờ 49 ngày nhìn lại ấy, Phật đã tìm ra Đạo.
Lý
thuyết của Đạo Ngài là Vô Ngã. Không có Ngã, thì vũ trụ không có Thượng
đế, con người không có linh hồn, cuộc đời này là sự hợp tan tạm thời của
muôn vàn điều kiện. Hợp thì còn, tan thì hết. Không có Ngã, thì xã hội với
bốn giai cấp không phải là trời định, chỉ là sự phân công lao động giữa
những con người. Không có Ngã, thì Veda không phải do trời nói ra, cúng
vái thần linh không thể làm người hết khổ. Không có Ngã, thì mọi con người
là bình đẳng, vì chỉ là duyên hợp, Bà la môn cũng như tiện dân, hoặc cũng
chỉ như người không có tập cấp[1].
Không có Ngã thì không có Maya, làm gì có chuyện luân hồi nặng trĩu trên
vai và Niết bàn xa xôi huyền hoặc.
Cuộc đời này với khổ vui buồn giận.... không hề là Maya, mà có thật hoàn
toàn, dù rằng nó vô thường, vô nghĩa và nhiều đau khổ.
Do
vậy, pháp tu của Đạo Ngài là Bát chánh. Bao gồm rèn luyện đạo đức (chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng: giới), thực tập sự an trụ tâm hồn trong đời
thường, trong mỗi ngày, trong từng giây phút (chánh niệm, chánh định:
định), phát huy học vấn và suy tư để hiểu được bộ mặt thật của cuộc đời
(chánh kiến, chánh tư duy: tuệ). Và quan trọng là phải phấn đấu vươn lên
bỏ xấu làm lành, khắc phục khuyết điểm trong cuộc sống (chánh tinh tấn).
Có
đạo đức thì có lợi cho người và an ổn cho mình, có an trụ tâm trong đời
thường thì mới vững vàng và vui vẻ mà sống, có hiểu rõ cuộc đời là không
có Ngã, là mong manh và tham là khổ thì tinh thần mới thong dong, và quan
trọng, có khắc phục cái dở, phát triển cái hay thì cuộc sống mới không trì
trệ tụt hậu.
Đạo
Phật xuất hiện, những người bế tắt tư tưởng được khai thông, những người
khổ nhục được gia nhập tăng đoàn mà ngang hàng với những người cao quí và
được sống trong tình thương, những người bình thường được biết mình khổ
phần lớn do mình mong muốn quá. Khi Bà la môn bế tắt trong giải thoát
sinhtử, khi các phái phản Veda không ích lợi cho người đời, Đạo Phật ra
đời đúng lúc. Vô Ngã gỡ cái ách luân hồi mênh mang cho bao tu sĩ thiết tha
cầu thoát Maya, Bát chánh đạo xây dựng một cuộc sống bình đẳng, tự lực tự
cường, thong dong an trụ từng phút giây cuộc sống, đối xử nhau với tình
thương bao la, thiết thực hiện tại. Đạo Phật thành công rực rỡ.
2. Vấn đề nảy sinh
a.
Đặc trưng của Đạo Phật.
Đặc
trưng pháp tu Đạo Phật là Bát chánh đạo, đặc trưng giáo lý Đạo Phật là Vô
Ngã. Từ Bát chánh và Vô Ngã nảy sinh vài nét phụ như sau:
-
thiết thực hiện tại: luôn tìm cách vận dụng lý thuyết vào thực tế sao cho
đạt hiệu quả. Không bàn quá những cái quá xa thực tế như đời trước đời
sau, thế giới hình thành hoặc hoại diệt thế nào[1].
-
không dựa uy quyền thần linh: Phật luôn dặn người nghe đừng tin vội những
gì Ngài nói, hãy suy nghĩ trước, vận dụng thử, thấy kết quả tốt rồi hãy
tin. Ngài không hề buộc người ta phải tin với lý do rằng đấy là lời thần
linh nói[1]
-
xem trọng con người và tình thương giữa những con người.
-
bình đẳng giữa nhưng con người: không có giai cấp trong máu cùng đỏ và
nước mắt cùng mặn[1].
-
con người tự làm chủ đời mình.
b.
Vấn đề nảy sinh.
Mục
đích duy nhất của Phật là cứu người khổ. Thực tế trước mặt, con người quá
khổ vì xã hội bất công (giai cấp), vì lầm cho có linh hồn (thần linh) sáng
tạo vũ trụ, rồi coi thường cuộc sống thực đang xảy ra mà dồn sức ráo riết
trong bức xúc muốn thoát ly sinh tử vào các pháp tu không khả thi chút nào
so với mục đích giải thoát, cho nên Phật mới tuyên bố Vô Ngã. Vô Ngã kéo
con người trở lại đời thường, xây dựng đời thường bằng sự phấn đấu gây tạo
của bản thân và thương yêu đồng loại. Với những bậc tri thức thâm sâu,
lòng trần bặt dứt, ngày đêm trầm tư về con đường dẫn đến Niết bàn vô sinh
(không tái sinh, không sinh tử), thao thức không biết làm sao đột phá luân
hồi, trên người như luôn mang gánh nặng ngàn cân, đức Phật chỉ cần vài câu
khơi mở- trường hợp Xá lợi phất, với A thị thuyết – hoặc bàn luận hoặc chỉ
bàn luận đôi điều – trường hợp người anh cả trong ba anh em Ca Diếp thờ
thần lửa Agni – là họ bừng sáng, đất trời sụp đổ, gánh nặng ngàn đời vụt
bay.
Nhưng thời gian sau, khi Đạo Phật phát triển rộng, người xuất gia do hiểu
mà theo thì ít, do thiùch nhất thời, do lợi dưỡng và do phá hoại nữa, thì
nhiều. Bắt đầu có người không hiểu nổi lời Phật, hoặc hiểu sai lời. Rồi
dân chúng, phần đông đều tin có Ngã, nhất là tin có luân hồi, Niết bàn.
Một điều rất khó khăn cho Phật là Ngài dùng lý thuyết nghiệp làm chính yếu
trong nội dung xây dựng đời sống thực tế (cũng như Vô Ngã là chính yếu
trong nội dung kéo con người trở về đời sống thực tế), mà nói tới nghiệp
là dân chúng nghĩ ngay tới luân hồi. Làm sao Phật có thể nói với thường
dân là luân hồi không có được? Dẫu rằng Ngài chỉ nói nghiệp trong phạm vi
một đời. Mục đích Phật là cứu khổ, với dân thường không bức xúc muốn thoát
khỏi sinh tử, không có trình độ lý luận, thì nói với họ luân hồi không có
mà chi? Mặc dù hết sức tránh, không bao giờ nói tới vấn đề nhạy cảm đó,
nhưng “không bác bỏ cũng là đồng tình”, thế là Phật bị “oan”. Đệ tử Phật
chia hai tư tưởng. Có khi Phật còn ngậm “bồ hòn” vì người ta chỉ trích là
Phật tự mâu thuẫn chính mình[1]:
“Đã nói Vô Ngã, sao còn chấp nhạân luân hồi? Vô Ngã thì có ai mà đi luân
hồi, có luân hồi đâu để mà đi?” . Có đệ tử còn vặn vẹo Ngài những điều mà
Ngài cho là hí luận.
Phật bị oan là người giỏi biện luận, nhưng tự mâu thuẫn. Nguồn cơn là như
vậy.
III.Phật giáo Bộ phái và Bổ Đặc Già La .
1. Tình hình xã hội và tôn giáo Aán Độ trong thời kỳ Bộ phái Phật giáo.
a. Tình hình xã hội và tôn giáo Ấn Độ.
Để
hiểu vì sao có sự phân chia Bộ phái trong hàng đệ tử Phật , và giáo lý mỗi
Bộ phái đều chấp nhận có một Bổ Đặc Già La (pudgala), một cái như là Ngã
mà không phải Ngã, là cái đi trong luân hồi của con người, tưởng cũng cần
biết khái quát về tình hình chung của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, vàtình
hình nội bộ Phật giáo trước và trong thời Bộ phái.
Thời Phật (468-388 BC), Ấn Độ không phải là một quốc gia thống nhất. Lúc
đó, nó là một đại lục với nhiều quốc gia nhỏ lớn thôn tính nhau, lệ thuộc
nhau như Trung quốc thời xưa. Nếu chia Ấn Độ làm năm phần Đông Tây Nam Bắc
Trung , thì phần Tây Bắc bị dân Aryan chiếm năm 1600 BC, đến thời Phật đã
hoàn toàn Aryan hóa. Phần này gồm năm nước lớn : Kiều tát la (kosala), Bà
sai, A bàn đề, Câu la, Ma thâu la (mathura), và các nước chư hầu của năm
nước này.[1]Phần
Đông Bắc có sáu nước: Xá Di ( của dòng tộc Thích ca), La ma ca (dòng tộc
Câu ly), Câu thi na, Ba tuần (đều dòng tộc Mạt la), Tỳ xá ly, Phất lộc thị
(đều dòng tộc Bạt kỳ). Sáu nước này đã chịu ảnh hưởng nhiều về chính trị,
tư tưởng từ các nước Tây Bắc, dù số dân lai Aryan chưa cao[1],
điển hình là trong xã hội họ cũng chia 4 giai cấp và một số tự xưng là
thuộc giống dân Aryan[1].
Phần Trung Ấn, khu vực này, trong kinh không nói tới các dòng tộc sinh
sống trong đó, chỉ nói chung là người Ma kiệt đà (Maghada) và người Ương
ca. và Ương ca, có lẽ đều là tên dòng tộc mà chuyển thành tên nước. Trong
đó, Ương ca là chư hầu của Ma kiệt đà (maghada). Các nước Trung Ấn lai
Aryan nặng hơn nhóm Đông Bắc[1].
Còn Nam Aán thì chưa thấy có tài liệu nào nói, tài liệu của đạo Phật và
đạo b chỉ chép những khu vực có liên quan đến đạo mình thôi. Thời Phật tại
thế (468-388), Phật giáo chỉ quanh quẩn lưu vực sông Hằng (miền Đông),
giáp đến sông Aán ( Indus – giữa miền Tây Bắc), tức Phật giáo được ủng hộ
mạnh bởi Ma kiệt đà, Ương ca , sáu nước Đông Bắc, hoạt động nhiều ở Kiều
tát la, liếm tới A bàn đề và Ma thâu la (Mathura). Đến thời vua A dục (
Asoka,273-232 BC), ta mới biết thêm một nước là Ca lăng (Kalinga) , do A
dục chinh phạt khi vua lên ngôi năm thứ chín , giết muốn hết dân nước đó,
năm đó vua quy y Phật giáo[1],
dẫu rằng nước Ca lăng đã có tên trong truyền thuyết từ xưa, là một trong 7
nước lớn ở miền Đông Ấn Độ trước khi dân Aryan tiến vào[1].
Sau khi A dục mất , ở Nam Aán lại được biết thêm một nước mạnh là An đạt
la, nổi dậy thoát thân phận lệ thuộc, vài mươi năm sau đã tiến ngược lên
Trung Ấn, đoạt ngôi vị của cháu nội A dục.
Như
vậy, ở Aán Độ với rất nhiều nước lớn nhỏ, ngôn ngữ hơn 100 thứ[1],
phong tục tập quán, văn hoá đa dạng, nước này kình địch nước kia, thì Đạo
Phật càng mở rộng , thành viên càng đông, sẽ càng chứa nhiều nguy cơ chia
rẽ. Một điển hình sự chia rẽ Đạo Phật về mặt này là 8 quốc gia sùng mộ Đức
Phật đã đem binh giành nhau Xá lợi khi thiêu Phật, tôn giả A nan khi nhập
diệt vì tránh tranh chấp cho hai phía Ma kiệt đà( Maghada, Trung Ấn) và Tỳ
xá ly( Vesali, Đông Bắc Aán) mà dùng lửa Tam muội tự thiêu trên không rồi
phân Xá lợi rải qua hai bờ sông Hằng cho hai nước. Tì kheo Bạt kỳ( Tỳ xá
ly) phương Đông và tì kheo Ba lợi phương Tây tranh nhau về lối sống (luật)
mà nảy sinh kì kết tập kinh điển lần 2. Sau kì kết tập kinh điển lần 3,
vua A dục phái các đoàn truyền pháp Phật giáo đi khắp nơi, ngoài nước Aán
thì Phật giáo hình thành các Phật giáo khác nhau ở các nước, trong nước
Aán thì rõ ràng từ 3 hệ thống chính là Thượng Toạ, Đại Chúng, Phân Biệt
Thuyết trở thành 18 phái.
Điển hình hẹp hơn trong phạm vi
nội bộ Tăng đoàn, những bậc cao đức thì có nhiều tư tưởng khác nhau do
xuất thân từ những nền văn hoá khác nhau. Tôn giả Ca Diếp, dòng Bà la môn
, trọng luật lệ khổ hạnh. Tôn giả A Nan dòng Sát đế lợi (thật ra là dòng
Thích ca), trọng đa văn, tuỳ duyên. Tôn giả Ca Chiên Diên, dòng Bà la môn
, trọng luận nghị. Tôn giả Phú Lâu Na, dòng Bà la môn ,trọng thiền định.
Dù các vị không muốn, Đạo Phật vẫn hình thành nhiều hướng đi ngày một xa
nhau từ dấu chân truyền Đạo của các vị.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, nếu như yếu tố văn hoá, quốc độ,
ngôn ngữ, con người của Ấn Độ làm Phật giáo chia rẽ thành các Bộ phái với
nhiều hình thức và nhiều triết lí khác nhau, thì yếu tố tôn giáo của Ấn Độ
lại làm cho hầu hết các Bộ phái Phật giáo đều có một cái chung, Bổ Đặc Già
La, như là Ngã mà không phải Ngã; tôn giáo, gồm Bà la môn và các đạo phái
phản Veda.
Khoảng 1000-800 BC, kinh Veda xuất hiện, dân Aryan đã chiếm xong vùng Ngũ
Hà (Indoustand, Tây Bắc), đang xây dựng kinh tế, ổn định chính trị và lấn
xuống Đông Nam Aán. Bà la môn cực thịnh với 3 tiêu chí “Kinh Veda do thần
tối cao nói”, “Bà la môn cao nhất trong 4 giai cấp”, “ cúng vái là việc
thù thắng để cầu thần linh cứu giúp”. Từ 800-500 BC, dân Aryan đã chiếm
xong Trung Ấn, tại đấy (Tây Bắc) văn hoá và chủng tộc hai sắc dân cũ và
mới đang trong quá trình lai nhau, đồng thời vùng Đông Bắc Aán cũng có một
số nước đã lệ thuộc hoặc bắt đầu lai căn theo Aryan. Tất nhiên khi phát
triển rộng, giáo phận mới sẽ có tư tưởng phát triển hơn so với tư tưởng
của giáo phận cũ, thời đại Upanishad (chú giải Veda) hình thành, với sự
đổi mới của chính một số đông nhân vật Bà la môn , với sự bùng nổ của
nhiều giáo đoàn Sa môn phản Veda (thời Phật 468-388 BC, có tất cả 95 đoàn
Sa môn, Phật gọi là ngoại đạo, nổi bậc nhất là 6 đoàn- Lục Sư Ngoại Đạo[1]).
Do vậy, ở giáo phận mới là Trung Ấn và Đông Bắc Aán, Bà la môn chính
thống với 3 tiêu chí bị hạ bệ, xem rẻ. Ngay ở miền Tây Bắc, đại bản doanh
của Bà la môn , Bà la môn cũng bị giảm giá trị, do chính trị kinh tế vùng
này lâm vào tình trạng bất ổn từ năm 518 BC, khi vua BaTư là Đạt lý sĩ từ
phương Bắc tràn xuống đánh chiếm một số nước trong khu vực này và tiếp tục
cai trị mấy mươi năm. Nước ròng rặt Bà la môn lúc đó là Câu La cũng chịu
trận, không có một vương triều nào hùng mạnh trong khảng Upanishad này
[1].
Đạo
Phật xuất hiện trong thời kì cuối của giai đoạn Upanishad, tuy thành công
lớn nhưng không phải có thể truyền Đạo trong tự tại và bình yên. Ởû Trung
Ấn và Đông Bắc Aán, Phật và các đệ tử phải chịu sức ép của 95 đạo phái
phản Veda, luôn luôn đặt vắn đề thoát luân hồi qua Thần Ngã, hay phủ nhận
Thần Ngã và sống một cách trụy lạc. Đó là chưa kể giai đoạn sau khi Đạo
Phật đã có lợi dưỡng và uy tín, người ta xuất gia không chỉ vì danh lợi mà
vì muốn phá Đạo Phật nữa.
Còn
ở miền Tây Bắc, địa phận của Bà la môn chính thống, tuy họ suy nhưng không
có nghĩa họ mất luôn. Nhờ vị thế quốc giáo và nắm quyền giáo dục nên Bà la
môn còn rất uy tín trong giới trí thức thời ấy. Các trường đại học của Bà
la môn như Đại học Benares (BaLaNại) thuộc nước Câu thi , chư hầu của
Kiều tát la (kosala) và Đại học Taxila, Ajanta,Ujjain của Ma thâu la, hay
của Kiều tát la (!?), vẫn là những trường đại học danh tiếng thời ấy[1].
Còn về tín ngưỡng cúng tế đời thường, đó là nếp sống của người dân Aán nói
chung, Bà la môn lại chuyên về cúng tế. Chính Phật cũng không hề bác bỏ
mọi việc cúng tế, Ngài chỉ bài bác một số tục cúng hơi tàn nhẫn, còn lại
vẫn khuyên dân cúng vái nhưng theo cách hiểu qua lời dạy của Ngài[1].
Cho nên về tín ngưỡng, Bà la môn vẫn còn cắm rễ rất sâu trong lòng dân
chúng . Hơn nữa, từ khi Veda được đưa vào trường học để dạy cho mọi người
( trừ tiện dân) , đặc quyền sử dụng Veda không còn nữa, Bà la môn đã nhanh
chóng chuyển thể chữ Sankrit bác học cầu kì trong Veda sang thể Prakrit
(phách lạp khách lợi, Nhã ngữ) cho phổ cập bình dân hơn[1].
Đồng thời, họ dựa vào Veda soạn những bộ sách về phát âm, đánh vần, ngữ
pháp cho Nhã ngữ , và chú giải những câu khó hiểu trong Veda. Nhã ngữ là
một ngôn ngữ được dân chúng ưa thích sử dụng. Viêïc phát triển Nhã ngữ này
bắt đầu từ thế kỉ thứ 5 BC đến thế kỉ thứ 4 BC thì hoàn thành
[1],
tức hoàn toàn trùng khớp với thời gian ra đời của Phật. Đồng thời, những
tác phẩm thi ca truyền khẩu cũng ra đời, như Trường ca
Ramayana,Mahabrahata hình thành từ 300 BC, đến 200 AC thì hoàn chỉnh[1],
những thi phẩm kể chuyện lịch sử, cổ tích, thần thoại (gọi chung là
Purana) cũng bắt đầu ra đời từ nhữnh năm 500 BC[1].
Như vậy, có thể thấy, trong suốt thời gian Phật giáo tung hoành trên mặt
trận tư tưởng , Bà la môn tuy mang tiếng là yếu đi, nhưng thật ra đó chỉ
là “nhường mặt nổi để giữ mặt chìm” mà thôi.
Cái
thế vững như bàn thạch của Bà la môn và sự châm chích của đạo phái khác
không chỉ ép Đạo Phật trong thời Đức Phật tại thế, nó còn kéo dài mãi ,
đến nỗi trở thành pháp nạn phá chùa giết tăng vào thế kỷ 2 BC. Đến cuối
thời Bộ phái Phật giáo, đầu thời Đại thừa Phật giáo, Long Thọ Bồ tát còn
phải tốn cả đời đi tranh luận.
Phật và Tăng đoàn đã sống trong thời và thế như vậy. Phật ngụ ở nước Ma
kiệt đà và Tỳ xá ly, cái việc thường xuyên xảy ra là tranh luận cùng các
tôn giáo mới về khổ hạnh và trụy lạc. Còn Phật ở nước Kiều tát la, kinh
thành Xá Vệ, thì cô gái Bà la môn Chiên xà độn bụng, cô gái Tôn đà lợi tự
tử để hại Phật, một người Bà la môn mắng Phật, trong kinh nhiều chỗ chép[1].
Ngoài đời sống dân gian, dân chúng thờ đa thần giáo, tin huyền diệu, các
Đạo phái khác đầy dẫy phố phường thôn xóm; trong tầng lớp trí thức,Bà la
môn nắm quyền về chính trị, văn hoá, ngôn ngữ, thơ ca, đệ tử Phật không
lung lay thì mới lạ. Có lẽ lời than này của Phật, được người sau xếp vào
giai đoạn Phật mới chứng Đạo không muốn truyền Đạo, cũng là có căn cứ lịch
sử: “Pháp của ta cao sâu quá, chúng sinh nghe ắt không tin, không tin thì
làm sao hiểu...Ta đã hết sức vất vả mới chứng được, sau này nói ra càng sẽ
khó khăn hơn ... Thôi ta đừng nói pháp, nhanh chóng nhập Niết Bàn”
[1].
Do
vậy, để bớt sức ép bên ngoài, để duy trì Phật pháp, để phát triển Đạo Phật
và có thể còn để dung nhiếp Đạo khác nữa, các đệ tử Phật đã lập ra một Bổ
Đặc Già La- cái đi luân hồi của con người, giống như Ngã mà không phải
Ngã. Từ thời Phật, xu thế này đã nảy mầm. Thời kết tập kinh điển thứ nhất
và thứ hai, chưa biết ra sao, vì không có tài liệu chép. Nhưng thời kết
tập kinh điển thứ 3 , thì 4 hệ thống Thượng Toạ, Đại Chúng, Phân Biệt
Thuyết , Độc Tử đều có lý giải cụ thể về nó rồi.
b.Bộ phái phân chia:
(Xem biểu đồ ở cuối I, Giới thiệu chung)
*
bốn hệ thống chính:
Tăng đoàn Phật giáo chính thức chia thành hai hệ thống vào khoảng 100 năm
sau khi Phật mất: Thượng Toạ và Đại Chúng . Đại diện hệ thống Thượng Toạ
là nước Ba lợi, chắc là một khu tự trị, một nước nhỏ ở thượng lưu sông
Hằng, tức vùng Tây Bắc Aán
[1].
Đại diện hệ thống Đại Chúng là nước Ba di na (Pacina), tức là nước Ba
tuần, một tiểu quốc thuộc huyết thống của nước Tỳ xá ly (Vesali), thuộc
Đông Bắc Aán, hạ lưu sông Hằng
[1].
Trong vòng 30 năm sau đó, từ hệ thống Thượng Toạ lại tách ra thêm một hệ
thống nữa: Phân Biệt Thuyết . Hệ thống Phân Biệt Thuyết tập trung ở Trung
Ấn, nước Ma kiệt đà (Maghada) tức trung lưu sông Hằng[1].
Khoảng vài năm sau đó nữa, hệ thống Thượng Toạ tan rã, thành
hai hệ thống mới là Thuyết Nhất Thiết Hữu và Độc Tử . Phật mất được 116
năm, vua A dục (Asoka) lên ngôi. Chín năm sau, tức Phật mất 125 năm, vua
quy y Phật giáo. Có lẽ là vào những năm Phật mất từ 130-140 năm (khoảng
137 năm
[1]
), nhân sự kiện của tôn giả Đại Thiên (Mahadeva) thuộc hệ thống Đại Chúng
, bốn hệ thống Phật giáo lúc ấy hợp nhau tại thành phố Hoa Thị
(Pataliputra)- kinh đô của đế quốc Mạo Lí ( Maurya), đế quốc có lãnh thổ
lớn nhất trong lịch sử Ấn Độ từ xưa đến nay[1]
(2005) , để luận bàn đúng sai và sau đó cùng kết tập kinh điển lần III
dưới sự giám sát của A dục. Bốn hệ thống chia thành hai phe, bởi vua ủng
hộ lí luận của phe Phân Biệt Thuyết –Đại Chúng nên Thuyết Nhất Thiết Hữu
giận bỏ đi thật xa, lên vùng biên giới Tây Bắc. Sau đó, tôn giả Đại Thiên
cũng dẫn hệ thống Đại Chúng lùi về tận miền Nam Aán. Hệ thống Phân Biệt
Thuyết vẫn ở nguyên tại Trung Ấn , thủ đô Hoa Thị ( xưa thuộc nước Ma kiệt
đà) , còn hệ thống Độc Tử thì sang định cư ở chỗ mà Đại Chúng đã bỏ đi ,
tức là miền Đông Bắc Aán, hạ lưu sông Hằng.
*
các bộ về sau :
Dưới thời vua A dục , sau cuộc kết tập kinh điển lần III tại thủ đô Hoa
Thị, Phật giáo bắt đầu vươn khỏi phạm vi truyền Đạo của Đức Phật- tức là
lưu vực sông Hằng- mà toả rộng ra hai miền Nam Bắc ( do hệ thống Đại Chúng
và Thuyết Nhất Thiết Hữu ). Vài năm sau, nhà vua quyết định dùng Phật giáo
là cầu nối hoà bình với các nước khác , nên lập ra chức quan Truyền Pháp
và phái nhiều đoàn Tăng tục truyền pháp đến các lân bang, như Tích Lan, Hy
Lạp, BaTư, Trung Quốc, Ai Cập...Phật giáo nhờ vậy trở thành quốc giáo Ấn
Độ và toả khắp các lục địa.
Được nhà vua ủng hộ, tín đồ tăng, nhu cầu hoá Đạo và dung nhiếp Đạo khác
tăng, nên lí luận Đạo Phật phát triển mạnh mẽ: Từ khoảng 137 năm sau khi
Phật mất (cuộc kết tập kinh điển lần III) đến 200 năm sau khi Phật mất
(tức trong vòng 60 năm), bốn hệ thống chia thành nhiều Bộ phái. Tất cả
kinh sách của 4 hệ thống, khi chép về Bộ phái, đều đồng ý với nhau là thời
đó Phật giáo có 18 Bộ phái, nhưng tên các Bộ phái trong các kinh của bốn
hệ thống lại khác nhau, và thật sự những Bộ phái có tên đó lại có thật và
khác nhau, nên hoá ra thời đó có hơn 18 Bộ phái. Tạm kể như là
[1]ø:
Hệ
thống Đại Chúng chia ra 11 bộ: Nhất Thuyết, Thuyết Xuất Thế, Kê Dẫn,
Thuyết Giả, Đa Văn, Thuyết Chế Đa, Tuyết Sơn, Đông Sơn , Tây Sơn, Vương
Sơn Và Nghĩa Thành Sơn.
Hệ
thống Phân Biệt Thuyết chia ra 4: Hoá Địa (còn gọi Tát bà đa), Aåm Quang,
Pháp Tạng , Hồng Y( còn gọi là Đồng Diệp) .
Hệ
thống Độc Tử chia thành 4: Lục Thành (còn gọi là Đại Sơn, Mật Lâm Sơn),
Hiền Đạo (còn gọi là Hiền Trụ), Pháp Thắng (còn gọi là Pháp Thượng) và
Chính Lượng.
Hệ
thống Thuyết Nhất Thiết Hữu chia ra 1: Thuyết Kinh( ban đầu gọi là Thuyết
Chuyển, về sau gọi là Kinh Lượng).
2. Bổ Đặc Già La :
a.
Bổ Đặc Già La của các Bộ phái
Bổ
Đặc Già La (pudgala), còn phiên âm là Phú Đặc Già La, Phất Già La, Phúc
Già La, là một tên khác của Ngã(Atman) . Dịch là người, chúng sinh, sát
thủ thú...,chỉ cho cái gọi là “con người” đi trong luân hồi
[1].
Các
bộ luận xưa của các Bộ phái hầu như đều có nói về Bổ Đặc Già La . Như luận
Dị Bộ Tông Luân của Thế Hữu, luận Hiển Tông (quên tên tác giả), luận Đại
Tỳ Bà Sa của các luận sư nước Ca Thấp Di La , luận Câu Xá của Thế Thân,
luận Thuận Chính Lí của Chúng Hiền, luận Thành Thật của Ha lợi bạt ma,
luận Đại Trí Độ của Long Thọ.
Không rõ thời Phật tại thế, các giáo đoàn đệ tử Phật có chủ trương Bổ Đặc
Già La chưa, nhưng xét theo tình hình lịch sử thì chắc chắn đã ấp ủ bên
trong một cái mầm. Thời kì kết tập kinh điển thứ nhất thứ hai chưa rõ. Đến
thời kết tập kinh điển thứ III, bốn hệ thống đã có chủ trương và lí luận
rõ ràng về Bổ Đặc Già La .
Độc
Tử và Thuyết Nhất Thiết Hữu dựa trên sự hoà hợp của thân tâm, tức sự hoà
hợp của 5 uẩn,12 xứ, 18 giới mà lập ra Bổ Đặc Già La. Đại Chúng và Phân
Biệt Thuyết dựa trên sự tiếp nối liên tục của tâm và tâm sở, lập ra Bổ Đặc
Già La[1].
Đức
Phật tuyên bố không có Ngã (Atman), nghĩa là phủ nhận sự có mặt một linh
hồn tồn tại bên trong con người, nằm đằng sau thân tâm con người. Nghĩa là
theo Phật, cái gọi là con người thật ra chỉ là sự hoà hợp tạm thời của 5
uẩn( tức tứ đại và tứ đại sở tạo), không có gì gọi là con người hết:
“Cái này không phải của tôi, đây không phải là tôi, cái này không phải là
tự Ngã của tôi”[1].
Phật đã phủ nhận rằng có một cái Ngã (bản thể) nằm sau cái thân tâm (hiện
tượng) này, các Bộ phái bèn lập ra cái Ngã ngay nơi thân tâm này. Tất
nhiên cái Ngã ở ngay nơi thân tâm này là Vô Ngã, vì nó hoàn toàn không
phải là cái Ngã nằm sau lưng thân tâm mà đức Bổn Sư bác bỏ.
* Bổ Đặc Già La của Thuyết Nhất Thiết Hữu – Độc Tử
Phật nói không có Ngã , chỉ có những yếu tố tạo nên
thân tâm con người; con người không có, chỉ có thân tâm tồn tại tạm thời
do duyên hợp. Vô tình, trong vòng phê phán có không , giả thật của triết
học Ấn Độ, người ta hiểu rằng Phật nói Ngã không có thật, pháp thì có thật
(pháp, yếu tố tạo nên thân tâm, tức 5 uẩn , 12 xứ, 18 giới). Ngã không có
thật, tức là con người không có linh hồn, không có bản thể. Pháp có thật,
tức là các yếu tố tạo nên con người – 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới – có bản thể.
Do
hiểu là pháp thật có, hệ thống Thuyết Nhất Thiết Hữu bèn chia pháp làm hai
mặt : thể và dụng, rồi lập thành hai cái Ngã : thâït Ngã, là bản thể của
pháp ( 5 uẩn...) và giả Ngã, là tác dụng của sự hòa hợp của các pháp (5
uẩn...)[1].
Thật Ngã của pháp, ở đây, phải hiểu Ngã theo ý nghĩa bản thể. Giả Ngã,
theo Thuyết Nhất Thiết Hữu , chính là cái mà con người ngộ nhận là mình (
Atman, linh hồn)
Do
vậy, Thuyết Nhất Thiết Hữu nói: khi những pháp có thật là 5 uẩn hoà hợp
với nhau, tác dụng của sự hoà hợp này tạo cho người thiếu sâu sắc một cảm
giác là có một cái Ngã thật (Atman) nằm trong đó, thật ra không phải, cái
tưởng là thật kia chỉ là giả thôi. Ví như đứng xa nhìn, tưởng chỉ có một
mặt nước đang gợn sóng, lại gần hoá ra mặt nước đó là sự kết hợp của nhiều
lượn sóng. Cái mặt nước đang gợn sóng kia là không có thật (không có Ngã),
nhưng những con sóng tạo thành mặt nước gợn sóng là có thật (có pháp) và
cái mặt nước gợn sóng này là có, giả có (giả Ngã)
[1].
Như một chiếc xe đạp, thật ra không có gì là chiếc xe đạp hết (không có
Ngã) , chỉ có những bộ phận hoà hợp làm nên chiếc xe đạp (có pháp) và
chiếc xe đạp đang là đó vẫn có, là giả có (giả Ngã). Như một con người,
thật ra không có gì kêu là con người (vì không có linh hồn), cái có thật
chỉ là 5 uẩn( có pháp) và cái mà con người thấy rõ ràng là mình đây chỉ là
giả, không thật, vì cái đó chỉ là cái tác dụng do 5 uẩn hòa hợp nhau tạo
thành mà thôi. Giả Ngã của Thuyết Nhất Thiết Hữu , chẳng qua sẽ chỉ là sự
diễn giải bình thường của Vô Ngã, nếu nó không nói rằng nó là cái đi trong
luân hồi.
Một
bộ phái tách ra từ Thuyết Nhất Thiết Hữu là Thuyết Chuyển, tách ra vì
không chấp nhận chủ trương hai cái Ngã của Thuyết Nhất Thiết Hữu . Thuyết
Chuyển, cái tên này có nghĩa “tuyên bố có cái gì đó di chuyển từ đời trước
qua đời sau”. Thuyết Chuyển nói, các yếu tố tạo nên thân tâm, tức là các
uẩn ( pháp) không thể có Ngã thật trong đó, tức là không thể có bản thể,
vì bản thân mỗi uẩn chẳng qua chỉ là sự kết hợp của nhiều thành viên có
chung một tính chất thôi. Ví dụ thọ uẩn, đâu thể trong thọ uẩn có Ngã
thật. Thọ uẩn không thể có bản thể, vì thọ uẩn chỉ là một nhóm các thành
viên có chung một tính chất cảm thọ. Do vậy, Thuyết Chuyển gọi cái Ngã
thật của pháp- tức là bản thể của năm uẩn- của Thuyết Nhất Thiết Hữu là
Nhất Vị uẩn( nhóm của những thành viên có chung một tính chất). Còn cái
Ngã giả, tức cái Bổ Đặc Già La của Thuyết Nhất Thiết Hữu , Thuyết Chuyển
gọi là Căn Biên Uẩn, tức là “ cái nhóm của những tác dụng của 5 uẩn”.
Chính sự tổng hợp của 2 thứ uẩn Nhất Vị và Căn Biên này, Thuyết Chuyển
nói, đó mới là Bổ Đặc Già La , là cái đi trong luân hồi của con người.
Thuyết Chuyển bảo, cái Bổ Đặc Già La là thắng nghĩa, tức là chân thật,
hoàn toàn có thật. Như vậy Thắng Nghĩa Bổ Đặc Già La hay Chân Ngã, cái đi
luân hồi, theo Thuyết Chuyển, chính là cả cái bản thể của 5 uẩn (pháp) lẫn
cái tác dụng của sự hòa hợp của 5 uẩn ( tác dụng của pháp- tức là cái mà
con người cho rằng nó thật sự là mình)
[1].
Mặc
dù sau này hệ thống Thuyết Nhất Thiết Hữu không chính thức chia ra những
phái khác nữa, song bản thân Thuyết Nhất Thiết Hữu lại nảy ra thêm hai
nhận định khác nhau về Bổ Đặc Già La .
Một
nhóm bảo, chỉ có bản thể của pháp (5 uẩn...), tức cái thật Ngã, là cái Bổ
Đặc Già La đi trong luân hồi. Ngoại đạo bảo Ngã nằm ngoài thân tâm này,
sai là phải. Còn cái giả Ngã kia, nó chỉ là cái bóng (tác dụng) của thân
tâm( năm uẩn) thì làm gì có thể tự đi trong luân hồi. Họ bảo, đi trong
luân hồi được chỉ là bản thể của pháp(năm uẩn...) mà thôi. Nghĩa là họ bảo
cái “Ngã thật của pháp” của Thuyết Nhất Thiết Hữu là cái đi trong luân
hồi, trong khi Thuyết Nhất Thiết Hữu chính tông không chấp nhận như vậy.
Nhóm khác bảo, chỉ có tác dụng của pháp( năm uẩn...) tức cái Ngã giả là
cái Bổ Đặc Già La đi trong luân hồi . Còn bản thể của pháp(năm uẩn...) là
từng cái rời rạc, không thể tìm ra sự liên tục nào giữa các bản thể rời
rạc ấy để có thể chứng minh bản thể của pháp kéo dài từ đời này sang đời
khác. Tuy nhiên, nội dung của cái Bổ Đặc Già La của nhóm này lại khác với
nội dung của Giả Ngã của Thuyết Nhất Thiết Hữu chiùnh tông, nên Thuyết
Nhất Thiết Hữu cũng không chấp nhận. Giả Ngã của Thuyết Nhất Thiết Hữu
chính tông tuy cũng là cái dụng của 5 uẩn, nhưng khi bản thể 5 uẩn vừa
khởi tác dụng , cái dụng đó chính là Giả Ngã, không cần phải đợi chính cái
tác dụng đó kéo dài ra và liên tục nhau theo thời gian mới gọi là Bổ Đặc
Già La như của nhóm này[1].
Nếu
như ngay cái sự hòa hợp của thân tâm, tức sự hòa hợp của pháp ( 5uẩn, 12
xứ, 18 giới), hệ thống Thuyết Nhất Thiết Hữu lập ra nhiều lọai Bổ Đặc Già
La : giả Ngã của Thuyết Nhất Thiết Hữu chính thống, chân Ngã của Thuyết
Chuyển, thật Ngã( bản thể pháp) của một nhóm không chính thống và giả Ngã
biến thể của nhóm phi chính thống khác; thì hệ thống Độc Tử tuy trước sau
chia thành 5 phái nhưng vẫn có chung một quan niệm về Bổ Đặc Già La, rằng
Bổ Đặc Già La – ngay nơi sự hoà hợp của 5 uẩn- là bất khả thuyết ( không
thể nói rõ), và Bổ Đặc Già La này là chân thật ( chân Ngã).
Bất
khả thuyết ( không thể nói rõ) nghĩa là không thể nói rõ cái Bổ Đặc Già La
này chính là 5 uẩn hay không phải là 5 uẩn, chỉ vì nương theo sự hoà hợp
của 5 uẩn mà ngay đó giả đặt ra[1].
Bất khả thuyết cũng có nghiã là không thể nói rõ cái Bổ Đặc Già La này là
còn hoài hay không còn hoài, là giả hay là thật...[1]
Bổ
Đặc Già La Bất khả thuyết của hệ thống Độc Tử ra đời từ sự không đồng
tình với nội dung cái Bổ Đặc Già La giả Ngã của hệ thống Thuyết Nhất Thiết
Hữu . Sau đó, Thuyết Nhất Thiết Hữu- thông qua luận Câu Xá, phẩm Phá
Ngãù-chỉ trích Độc Tử về chuyện Bất khả thuyết này, rằng đã nói là không
thể khẳng định là giả hay thật rồi, lại đi khẳng định nó là chân Ngã. Độc
Tử trả lời, cái vấn đề giả hay thật, và phân biệt rõ ràng bản thể với hiện
tượng của pháp ( 5 uẩn), trong Phật giáo chỉ có một mình Thuyết Nhất Thiết
Hữu chủ trương mà thôi. Cho nên, sự chỉ trích ấy là không đúng. Theo Độc
Tử , thể và dụng, giả và thật, không thể tách biệt rõ ràng như Thuyết Nhất
Thiết Hữu chủ trương. Tách biệt như vậy là không đúng, vì bản thể và hiện
tượng vốn không thể tách lìa, lìa thể không có cái gì gọi là dụng, lìa
dụng không có cái gì gọi là thể; không thể nói bản thể 5 uẩn là thật có,
rồi có thể chỉ ra bất kỳ cái tác dụng nào của 5 uẩn khi hoà hợp mà bảo đó
là giả được. Chính bản thân Thuyết Nhất Thiết Hữu cũng có lúc không phủ
nhận điều ấy, tác giả bộ luận Thuận Chính Lý- thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu
chính tông-ở quyển 55 nói, mối quan hệ giữa bản thể và tác dụng là không
một không khác.[1]
Năm
Bộ phái của Độc Tử và Thuyết Chuyển của Thuyết Nhất Thiết Hữu đều chủ
trương có môït Bổ Đặc Già La chân thật, tức có một chân Ngã. Chân Ngã này
không một không khác so với 5 uẩn, không phải chính là 5 uẩn cũng không
lià 5 uẩn mà tồn tại. Như vậy, so với Ngã (Aâtman, linh hồn) của Bà la môn
, không thấy ở nó có một cái gì sai khác.[1]
* Bổ Đặc Già La của Đại Chúng –Phân Biệt Thuyết
Để
lập ra một cái gọi là Bổ Đặc Già La ( pudgala), tức con người di chuyển từ
đời trước ra đời sau, không như hai hệ thống kia, dựa trên sự hoà hợp của
thân tâm, hai hệ thống Đại Chúng và Phân Biệt Thuyết chỉ dựa trên sự liên
tục của tâm và tâm sở, tức chỉ dựa trên tâm mà thôi.
Hồi
đầu tiên, sau khi Phật giáo chia hai, Đại Chúng ở phương Đông Bắc và
Thượng Toạ ở phương Tây Bắc. Kế đó, hệ thống Thượng Toạ lại chia hai, nhóm
chính thống vẫn ở Tây Bắc, nhóm kia tự xưng là Phân Biệt Thuyết rời Tây
Bắc Aán sang cư trú ở Trung Ấn, tại kinh đô Vương Xá nước Ma kiệt đà (
maghada), hình thành thế chân vạc cho Phật giáo thời đó quanh lưu vực sông
hằng (Ganga). Phân Biệt Thuyết tách khỏi Thượng Toạ là do chịu ảnh hưởng
của Đại Chúng : luật thì trọng căn bản, không phiền toái, hành sự thì chú
trọng độ tha.
Đến
kỳ kết tâïp kinh điển lần 3 tại thủ đô Hoa Thị (pataliputra) của vương
triều Mạo lý (maurya) thời vua A dục (asoka), rõ ràng Phân Biệt Thuyết bắt
tay với Đại Chúng mà tranh luận với nhóm Thượng Toạ bên Tây Bắc. Sau khi
A dục mất, đế quốc Mạo lý tan rã, con cháu A dục chỉ còn nắm quyền ở tiểu
quốc Ma kiệt đà (Maghada) ngày xưa, tức miền Trung Ấn. Con cháu A dục lại
ghét Đạo Phật : Phân Biệt Thuyết bị nạn. Cháu nội A dục bị giết, vương
triều Huân Ca ( Phật diệt 204-306) thành lập trong vùng Trung Ấn. Vua quan
của Huân Ca đều là Bà la môn , pháp nạn xảy ra : chùa bị đốt, tăng bị
giết. Tăng đoàn thuộc hệ Phân Biệt Thuyết tan rã, toả ra hai miền Nam Bắc
lánh nạn. Sau, vương quốc hùng mạnh phía nam là An đạt la (giáo phận của
Đại Chúng , quốc vương là Phật tử) tiến lên tiêu diệt vương triều Huân Ca,
Phật giáo tại Trung Ấn (Phân Biệt Thuyết ) được phục hưng[1].
Do
vậy, sau này Phân Biệt Thuyết có 2 bộ phái chịu ảnh hưởng đậm tư tưởng Đại
Chúng là Aåm Quang và Pháp Tạng( chắc do đã lánh nạn về Nam Aán), một bộ
phái chịu ảnh hưởng đậm từ Thuyết Nhất Thiết Hữu là Hoá Địa[1](
chắc do lánh nạn về Bắc Aán). Đó là 3 phái còn ở đại lục, một phái truyền
ra hải đảo (Tích Lan- Srilanka) là phái Đồng Diệp( tức là Hồng Y) thì
không bị ảnh hưởng pháp nạn. Nhưng sau này, do sự diễn biến tự nhiên của
tư tưởng( Đồng Diệp vốn bắt nguồn từ Phân Biệt Thuyết ban sơ, tư tưởng
của Đồng Diệp cũnh chính là tư tưởng của Phân Biệt Thuyết ban sơ), phái
Đồng Diệp cũng lập ra “Hữu phần thức” , tức là cái đi trong luân hồi như
hai hệ thống Đại Chúng và Phân Biệt Thuyết sau này.
Tóm
lại, trong hệ thống Phân Biệt Thuyết , riêng bộ phái Hoá Địa chủ trương
Giả Ngã đi trong luân hồi , như Thuyết Nhất Thiết Hữu , còn lại 3 bộ phái
đều giống với Đại Chúng , lập Bổ Đặc Già La dựa trên tâm thức.
Riêng về hệ thống Đại Chúng , không rõ từng bộ phái chủ trương Bổ Đặc Già
La như thế nào, nhưng chắc chắn một điều là có một số bộ phái (như Thuyết
Xuất Thế chẳng hạn) sau cuộc kết tập kinh điển lần III một thời gian, đã
chuyển hẳn thành hệ thống Đại thừa , vì gần 300 năm sau khi Phật mất, tức
còn trong thời gian của Bộ phái Phật giáo( Phật diệt 100-600 năm), tam
tạng kinh điển của Đại thừa đã thi nhau ra đời[1].
Các phái Đại thừa này có lẽ không bàn nhiều về Bổ Đặc Già La , vì các kinh
Đại thừa không thấy nói nhiều.
Các
Bộ phái thuộc hệ thống Đại Chúng thì thích viết kinh chứ không tạo luận,
giữa các phái hình như không có tạo luận để chỉ trích nhau, nên không rõ
các phái này chủ trương Bổ Đặc Già La như thế nào. Tuy nhiên, theo một vài
nhận định trong các bộ luận thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu , ta biết rằng hệ
thống Đại Chúng và 3 phái của Phân Biệt Thuyết chủ trương giống nhau về Bổ
Đặc Già La . Chủ trương đó như vầy:
Do
trong kinh, Phật hay nói “ Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ”, “làm chủ được tâm
mình thì giải thoát”, lại nói “ làm chủ được mình thì giải thoát”, Đại
Chúng và Phân Biệt Thuyết bèn đặt trọng tâm sinh tử luân hồi và giải thoát
luân hồi nơi tâm, tâm chính là “mình” đi trong luân hồi.
Theo kinh nghiệm tu tập , họ thấy trong sâu thẳm của tâm có “một thứ tâm
thường hằng, liên tục không mất, và thanh tịnh”. Mặc dù tâm sở có thiện có
ác,... tâm vương có nhãn thức , nhĩ thức...khác nhau, song xuyên suốt mọi
cái khác nhau đó của tâm , tâm sở là “ một cái biết thường hằng lặng lẽ” .
Họ gọi cái tâm này là “ Tâm
Chân (thật) Thường( hằng)”. Trong mỗi con người có một cái tâm như thế. Hễ
tâm này bị trói cột bởi các tâm sở tham sân si, rồi gây tạo nghiệp ác thì
chính tâm này bị dẫn đi luân hồi . Hễ tâm này lìa xa các tâm sở phiền não,
không còn tạo ác nghiệp thì chính nó được giải thoát luân hồi.
Đây
là nội dung cái Bổ Đặc Già La (Pudgala- con người đi luân hồi) dựa trên
tâm, tâm sở mà lập ra[1].
Nếu
người hiểu rằng Tiểu Ngã( Atman) trong triết hệ Bà la môn là cái chân thật
bất biến, tồn tại không lìa thân tâm, cũng không phải chính là thân tâm
con người, thì sẽ thấy cái tâm Chân Thường có mặt chỉ riêng trong tâm và
đằng sau tâm lý con người này không có vẻ xa xôi gì cho lắm.
* Bổ Đặc Già La của phái Kinh Lượng:
Nếu
như mọi Bộ phái chỉ đơn thuần chịu ảnh hưởng tư tưởng Bổ Đặc Già La của hệ
thống đẻ ra mình , thuộc hệ thống nào thì có chung hoặc hơi giống tư tưởng
Bổ Đặc Già La của hệ thống đó, trừ phái Hoá Địa thuộc Phân Biệt Thuyết
chịu ảnh hưởng Thuyết Nhất Thiết Hữu và một số phái thuộc Đại Chúng trở
thành Phật giáo Đại thừa, thì phái Kinh Lượng( hay Thuyết Kinh) lại khác.
Phái Kinh Lượng chủ động lựa chọn tư tưởng Bổ Đặc Già La của 4 hệ thống mà
xây dựng thành một loại Bổ Đặc Già La riêng biệt cho mình. Thật ra, phái
Kinh Lượng vốn chỉ là phái Thuyết Chuyển thay đổi tư tưởng mà thôi. Phái
Kinh Lượng lấy Giả Ngã của Thuyết Nhất Thiết Hữu , tổng hợp với tâm Chân
Thường của Đại Chúng – Phân Biệt Thuyết , làm thành một cái đi trong luân
hồi. Nghĩa là Kinh Lượng nói, cái đi trong luân hồi là một cái Ngã giả,
hình dáng cái Ngã giả ấy là hình dáng cái tâm Chân Thường bị phiền não
nhiễm ô, nếu tâm sạch phiền não, trở về dạng chân thường thanh tịnh ban
đầu thì Ngã giả được thoát luân hồi. Tuy nhiên, cái tâm Chân Thường của
Kinh Lượng lại không giống với cái tâm Chân Thường của Đại Chúng –Phân
Biệt Thuyết . Tâm Chân Thường của Đại Chúng – Phân Biệt Thuyết có tâm thể
là trọn vẹn thanh tịnh, có phiền não là khách trần nhiễm ô, phiền não che
tâm tịnh làm con người mê lầm và khổ, chứ phiền não và tâm tịnh là hai thể
riêng biệt không xen lẫn vào nhau, như mây che trăng, như vùn vấy nhơ
ngọc, như cái vỏ bao cái ruột. Tâm Chân Thường của Kinh Lượng lại mượn cái
thuyết “ Thể Dụng Giả Thật” của Thuyết Nhất Thiết Hữu , nên chính cái
phiền não là một phần bị nhiễm của tâm thể, tâm thể và phiền não không một
không khác, không chính là nhau mà không lìa nhau , khi tâm thể bị nhiễm ô
thì có nghĩa là chính một phần nào đó của tâm thể bị nhiễm ô, cái phiền
não nhiễm ô đó chính là một phần tâm thể.
Tóm
lại , hầu như tất cả Bộ phái đều lập ra một cái Bổ Đặc Già La , tức cái
con người đi trong luân hồi. Độc Tử-Thuyết Nhất Thiết Hữu dựa trên sự hoà
hợp của thân tâm mà lập. Đại Chúng –Phân Biệt Thuyết dựa trên sự liên tục
của tâm mà lập. Phái Kinh Lượng thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu tổng hợp hai
nhóm trên, mà lập
.
2. Sự rối rắm của Bộ phái:
Để
hiểu được sự rối rắm này, trước tiên cần nhìn lại vấn đề Ngã của Bà la môn
và Vô Ngã của Phật.
Với
Bà la môn , Ngã là linh hồn con người (Atman), cũng là bản thể của vũ trụ
vạn hữu ( Brahman), Atman và Brahman là một. Ngã bàng bạc khắp nơi, vô
hình vô thanh, không thể nhận biết được bằng cảm giác (sự cảm nhận của 5
giác quan và sự suy nghĩ của ý thức). Nó xuyên suốt mọi vật, là động lực
kích thích sinh ra và điều khiển mọi hoạt động của vạn vật
[1].
Cuộc đời này, mọi vật cùng sự chuyển biến của mọi vật, con người và mọi hí
kịch của kiếp người- kể cả nhiều kiếp người- đều là sản phẩm của Ngã, và
đều là ảo ảnh ảo hoá, không thật (maya).
Ta
phải hiểu rằng cái Ngã mà Bà la môn nói không phải là cái thân (sinh vật
lí) và cái tâm lí đang là của con người. Những tâm lí suy nghĩ , hiểu
biết, tính toán này mà triết lí Tây Phương cho là tôi-tôi nghĩ tức là tôi-
và Đức Phật cho là thọ tưởng hành thức, những thứ này Bà la môn không bảo
đó là Ngã, chỉ cho rằng đó thuộc về hiện tượng, là Maya.
Như
vậy, theo triết lí giả thật có không của triết học Ấn Độ , thì Bà la môn
chủ trương có ( bản thể): cuộc đời này là hiện tượng, là Maya giả có, Ngã
là bản thể, là thật có. Vì đời là khổ là giả, vì Ngã là thật là vui, nên
mọi nỗ lực của con người- theo Bà la môn - phải là bỏ khổ trở về vui, sẵn
sàng quăng bỏ mọi thứ đang có trong đời này để thực hành những điều hầu
đạt niềm vui vĩnh viễn.
Phật thì tuyên bố Vô Ngã, nghĩa là cuộc đời này tuy vô thường đó, tuy
duyên hợp đó, tuy mong manh và tạm bợ đó, tuy khổ nhiều vui ít đó nhưng
với con người thì cuộc đời là thật tất cả- thật một cách tương đối thôi.
Cuộc đời này là cái mà con người phải chăm chút, phải quan sát, phải xây
dựng, dù phải sẵn sàng chấp nhận từ bỏ, bởi vì cái Niết Bàn chỉ có thể
thực hiện được bởi chính bản thân con người ở ngay khi còn sống này với
tâm tư lìa tham luyến, bởi vì cái Niết Bàn vĩnh cửu kia- Phạm Thể ,Đại
Ngã- là hoàn toàn không có. Theo sự phân chia của triết học Ấn Độ, đức
Phật chủ trương không (bản thể) : cuộc đời là hiện tượng, thật có; Ngã là
banû thể, không co.ù
Đức
Phật muốn chú trọng cuộc sống hiện đời của con người, lí luận phá Ngã
(Atman) để kéo con người trở về an trụ trong đời thường, từ đó dựa vào
chính thân tâm mình mà xây dựng, cải rhiện cuộc đời mình. Cho nên cuộc đời
“thật” trong giáo lí của Phật là cái thật trong nhận thức bình thường,
không phải trong triết lý. Hiện tại có thật, quá khứ vị lai cũng có thật,
sắc (cảnh tướng vật thể) có thật, tâm cũng có thật
[1],
đau khổ có thật mà Niết Bàn cũng có thật (tất nhiên, Niết Bàn ở đây được
Phật định nghĩa là: cuộc sống hiện tại vắng mặt khổ đau, tâm không mê
luyến, không tham cầu).
Chắc là do hiểu lệch đi về chữ “Thật” , Thuyết Nhất Thiết Hữu và Độc Tử
cùng chủ triương “Tam Thế Thật Hữu”, có thật hết, có thật tất cả, thật cả
theo quan điểm triết học. Còn Đại Chúng và Phân Biệt Thuyết thì chủ trương
“Hiện Tại Thật Hữu” , hiện tại mới có thật thôi, quá khứ vị lai không có
thật. Chọn lựa ý nghĩa từ hai nhóm này, phái Kinh Lượng chủ trương hiện
tại có thật, nhưng lại giải thích sự có thật khác với Đại Chúng - Phân
Biệt Thuyết
[1].
Cả
một thời Bộ phái (Phật mất 100-600 năm), Phật giáo lạc vào vòng xoáy của
triết học Ấn Độ với có không giả thật, các Bộ phái càng lý luận , càng
phân tích chi li thì càng rối rắm[1].
Về sau, các Bộ phái bị Bồ tát Long Thọ trách là “Nghe Phật nói thế đế (tục
đế) mà ngỡ là đệ nhất nghĩa đế (chân đế)”[1].
Các
Bộ phái không chỉ tự ngắc ngứ trong lí luận giả thật có không về con người
và cuộc đời, lại còn hỗn độn trong sự bôi bác tranh luận nhau, các Bộ phái
tách ra nhiều cũng là vì đấy. Thượng Toạ, Đại Chúng chia hai vì sự nhận
định khác nhau về pháp và luật. Phân Biệt Thuyết không đồng ý Thượng Toạ
quá câu nệ mà tách ra. Trong Thượng Toạ lại tách ra Độc Tử vì không đồng ý
Thượng Toạ vấn đề có không giả thật. Thuyết Chuyển tách ra khỏi Thuyết
Nhất Thiết Hữu vì không đồng ý vấn đề Ngã... Rồi 4 hệ thống chính ai cũng
tự cho mình là đúng: Thuyết Nhất Thiết Hữu tự xưng là “căn bản” , Phân
Biệt Thuyết tự xưng “Thượng toạ”, Độc Tử xưng “ngưu vương”( trâu chúa) và
Đại Chúng xưng “Đại Chúng”( được số đông ủng hộ)[1].
Thời này, không chỉ Bộ phái tranh luận Bộ phái , mà Bộ phái còn tranh với
một hệ thống tự xưng là Đại thừa nữa[1].
Tóm
lại, thời đại Bộ phái Phật giáo ( Phật diệt 100-600 năm) là như vậy. Nhiều
phe phái , nhiều chủ trương , Vô Ngã và có Ngã, tự độ và lợi tha, trọng lí
luận và trọng thực hành[1].
Nhưng tất cả hệ thống Phật giáo có chung một hoàn cảnh, là càng ngày càng
tự thấy mình rối rắm.
1.
Nội dung Tính Không
Bồ
tát Long Thọ xuất hiện khoảng 600 năm sau khi Phật mất. Ngài là người đưa
luận lý Tính Không lên đỉnh thành công, song triết lý về Tính Không không
phải do Ngài mà có, vì bộ kinh Đại Bát Nhã nói về “nhất thiết pháp không”
(muôn pháp không có tự tính), tức bộ kinh chính làm luận cứ cho luận lý
Tính Không, đã xuất hiện trước Ngài hơn 300 năm[1].
Tính Không mà Ngài long thọ cực lực xiển dương là pháp môn chỉ có riêng
trong hệ Đại thừa Tính Không (Đại thừa bất cộng pháp), khác với Tính Không
của một số Bộ phái Phật giáo trước thời Ngài, khác với Tính Không của Duy
Thức và Như Lai Tàng, hai hệ thống Đại thừa thuộc triết phái Hữu sau thời
Ngài. Tính Không của Long Thọ chính là Vô Ngã của Phật, thuộc triết phái
Không ( vô).
Tính Không ở đây, không có nghĩa là “không có gì hết”, mà là “không có tự
tính” ( tự tính không). Tự tính, còn gọi là tự thể, bản thể, bản tính, là
“một cái không phải nhờ cái khác mà sinh ra”. Đã “không nhờ cái khác để
sinh ra”, thì phải là “có từ vô thỉ” và “tồn tại một mình”. Không nhờ cái
khác mà tự sinh ra , nên là “có thật”; có từ vô thỉ, nên là “thường còn”;
tồn tại một mình, nên là “ tự tại”[1].
Tóm lại, tự tính tức là Ngã (atman). Tính Không, không có tự tính, là
không có Ngã, Vô Ngã.
Phật nói muôn pháp Vô Ngã, vì muôn pháp là duyên sinh, mọi thứ nhờ những
thứ khác mà sinh ra hay mất đi : “Do cái này có nên cái kia có, do cái này
không có nên cái kia không có”. Muôn pháp do nhân duyên mà sinh ra và mất
đi, nên muôn pháp là không có tự tính. Muôn pháp là không có tự tính,
không có nghĩa là không có sự hiện diện, sự tồn tại của muôn pháp. Sự hiện
diện của muôn pháp, gọi là hiện tượng, còn tự tính thì là bản thể. Hiện
tương thì có, tạm gọi là có (giả danh hữu); bản thể thì không có, thật sự
không có( cứu cánh không).
Theo lý Vô Ngã của Phật, thì bản thể không có, hiện tượng là thật có. Theo
lý Tính Không, thì bản thể là không có, hiện tượng thì tạm gọi là có. Xét
về mặt hiện tượng, hai chủ trương có vẻ trái nhau, dù cùng dựa vào một
luận cứ là Duyên sinh. Thật ra, hiện tượng tạm gọi là có (giả danh hữu),
chính là sự phát triển đúng của Duyên sinh về mặt lý luận: Phật nói hiện
tượng có thật là Phật đứng trong cái thật của qui ước bình thường trong
nhận thức của con người, còn đi sâu vào triết lý phân tích thì rõ ràng hễ
muôn pháp duyên sinh thì muôn pháp (hiện tượng) làm gì có thật, vì bản thể
không có, nên nếu nói có thì chỉ là tạm gọi có mà thôi.
Tính Không, hệ phái Đại thừa Tính Không định nghĩa là“ không có tự tính”,
là Vô Ngã, và gọi Tính Không là Đại thừa bất cộng pháp (giáo lý đặc biệt
chỉ có trong hệ Đại thừa Tính Không ). Còn Phật giáo Bộ phái và Phật giáo
Đại thừa hệ thống Hữu sau này, nhìn Tính Không với một ý nghĩa khác, cũng
như xem Tính Không không phải là Vô Ngã.
Bộ
phái Hóa Địa vốn thuộc hệ thống Phân Biệt Thuyết, nhưng chịu ảnh hưởng của
phái Thuyết Nhất Thiết Hữu, luận Đại Tỳ bà sa, quyển 9, cho biết các hành
giả phái Hóa Địa bảo rằng tất cả pháp là Vô Ngã, nhưng không phải pháp nào
cũng là Không. Như vậy theo họ Không và Vô Ngã khác nhau. Họ cho rằng mọi
pháp đều có tự tính, trên một pháp có tự tính bất kì, nếu không có sự hiện
diện của tự tính của một pháp khác, thì dựa theo sự không có mặt của tự
tính của pháp khác đó, mà gọi cái pháp bất kì có tự tính này là Không;
Không, không phải là không có tự tính (bản thể),mà là không có tha tính
(không có bản thể của một pháp khác). Định nghĩa về Tính Không như vậy, là
do Hóa Địa và Thuyết Nhất Thiết Hữu dựa vào kinh Tiểu Không trong A hàm.
Trong kinh Tiểu Không, Tính Không chẳng phải là không có tự tính, mà là
không có tha tính. Kinh ví dụ: trong bào thai con nai không có con bò hay
con ngựa, gọi rằng bào thai con nai không có, như vậy không phải phủ nhận
sự tồn tại của cái bào thai của con nai, mà là cái bào thai con nai không
có con bò con ngựa.[1]
Bởi
định nghĩa về Tính Không như vậy nên Thế Hữu, một cao đức của hệ thống
Thuyết Nhất Thiết Hữu , trong Đại Tỳ bà sa quyển 9 nói, cái ý nghĩa Vô Ngã
là cái ý nghĩa chắc chắn-chắc chắn tất cả pháp là Vô Ngã-còn cái ý nghĩa
Không là cái ý nghĩa không chắc chắn-không thể nói chắc chắn rằng tất cả
pháp đều là Không.[1]
Thuyết Nhất Thiết Hữu là Bộ phái chủ trương giả Ngã của con người và thật
Ngã củapháp, tức là con người không có tự tính, mà các yếu tố cấu thành
con người-5 uẩn 12 xứ 18 giới, tức là pháp- đều có tự tính. Cần nhắc nhớ
rằng Thuyết Nhất Thiết Hữu chấp nhận Vô Ngã của Phật là đúng, con người là
Vô Ngã (không có linh hồn, không có tự tính). Nhưng lại cho rằng 5 uẩn là
có Ngã(có thật, có tự tính), song cái Ngã của 5 uẩn mà Thuyết Nhất Thiết
Hữu chủ trương là Có, chính là bản thể của 5 uẩn, chứ không phải là cái
Ngã linh hồn con người mà Phật đã bác bỏ. Sau này khi lí luận “thật Ngã
của pháp” bị công kích, rằng 5 uẩn (pháp) cũng là Vô Ngã, pháp vốn không
có tự tính, vì 5 uẩn thật ra cũng chính là 5 nhóm mà mỗi nhóm gồm nhiều
thành viên có chung một tính chất thì Thuyết Nhất Thiết Hữu cố bảo vệ lí
cũ, nói rằng thật Ngã của các pháp vẫn có, đó chính là tự tính của từng
thành viên vô cùng nhỏ (cực vi) của một trong 5 uẩn. Đây chính là chỗ mà
Thuyết Nhất Thiết Hữu kéo 4 hệ thống chính của Phật giáo sa vào vòng lẩn
quẩn của thể dụng giả thật thời Bộ phái[1].
Bởi thật ra vạn pháp là duyên sinh Vô Ngã, không thể có một cái nào dù là
vô cùng nhỏ mà có tự tính-hay còn gọi là thành phần ban đầu (nguyên tử)-để
từ đó hình thành nên vạn vật. Trước đây các nhà khoa học Tây phương công
bố đã tìm ra nguyên tử, tức là một cái pháp vô cùng nhỏ có tự tính, tự
thể, thường còn. Nhưng thời gian sau, với phương tiện hiện đại hơn, họ bắn
vỡ cái hạt tưởng là nguyên tử đó ra thành vài hạt nhỏ hơn. Sau, lại bắn vỡ
cái hạt nhỏ hơn kia, thành vài hạt nhỏ hơn nữa. Và họ dừng lại, không bắn
được nữa vì không còn phương tiện tân tiến hơn. Họ dừng lại với tuyên
đoán: “nếu phương tiện có khá hơn, chắc chắn sẽ lại bắn vỡ được nữa, không
thể có cái hạt (tức pháp vô cùng nhỏ) nào là nguyên tử được”. Cho nên, mọi
pháp là duyên sinh, không có tự tính.
Trong quyển 9 của luận Đại Tỳ
bà sa còn nhiều cách giải thích khác về Tính Không và Vô Ngã. Có một loại
giải thích mà sau này Thế Thân-tổ thứ 3 của Duy Thức và là người tổng hợp
thành công toàn bộ lí luận của Thuyết Nhất Thiết Hữu vào quyển luận Câu
Xá-dùng làm đặc trưng cho ý nghĩa Tính Không và Vô Ngã trong hệ thống
Thuyết Nhất Thiết Hữu, đồng thời Bộ phái Kinh Lượng-tách ra từ Thuyết Nhất
Thiết Hữu và là tiền thân của Duy Thức Đại thừa-cũng vận dụng. Đó là: “Ngã
(tự tính) không, gọi là Vô Ngã. Pháp (tha tính) không, gọi là Không”[1].
Ngài Ha lợi bạt ma, tổng hợp hai tư tưởng Kinh lượng và Đại Chúng –Phân
Biệt Thuyết , soạn ra quyển luận Thành Thật. Trong luận Thành Thật , quyển
16, lại cho rằng: Ngã không là Không, pháp không là Vô Ngã.
2. Sự thành công của Bồ tát
Long Thọ.
Long thọ trước khi xuất gia, là
một vị tài trí tuyệt vời, rất có sức khỏe, làu thông văn võ, các triết
thuyết của Ấn Độ, hẳn là Ngài không thể không thuần thục. Chỉ vì tài trí
và sức khỏe như vậy, có thể lại còn do chưa gặp một minh sư thoát tục nào,
nên suốt tuổi trẻ cách sống của Long Thọ là rèn luyện mọi khả năng hướng
về sự hưởng thụ dục lạc. Sau, giác ngộ dục lạc là nguyên nhân của đau khổ,
bèn đi tu.
Ngài xuất gia ở một ngôi chùa
tại miền Nam Aán, giáo phận của hệ thống Đại Chúng , nơi tràn ngập tư
tưởng Đại thừa. Phật giáo thời ấy, về Bộ phái thì tư tưởng ào ạt phát
triển, hơn thua bài xích nhau, kéo lôi nhau trong vòng có không giả thật
thể dụng, mà yếu đi cái bản hoài của Phật là từ bi cứu khổ; về Đại thừa
Tiểu thừa thì Đại thừa tách khỏi Phật giáo Bộ phái và mắng mỏ những người
bảo thủ cá nhân kia là “tiểu thừa”, “chó điên”, “bại hoại dòng giống Phật”[1].
Trong khi Phật giáo Bộ phái, nhất là hai hệ thống Thuyết Nhất Thiết Hữu và
Độc Tử , trả đũa những người tự xưng Đại thừa là “ngoại đạo”, trách tam
tạng kinh điển của Đại thừa là “ngụy tạo”, “không phải lời Phật dạy”.
Thật sự thì từ khi Phật qua đời
đến lúc Long Thọ xuất gia, trong hệ thống Đại Chúng vẫn còn một vài phái
giữ đúng tinh thần Vô Ngã của Phật , trong giáo lý, mà có lẽ trong thực tế
cuộc sống nữa (như đã biết lúc trước, là Phật giáo thật ra có hơn 18 Bộ
phái). Chứng cứ là, trong phẩm Tà Tụ của Tăng Nhất A hàm, bộ kinh được
các phái thuộc hệ thống Đại Chúng trì tụng, định nghĩa rằng Vô Ngã tức là
Ngã Không và Vô ngã sở tức là Pháp Không, như vậy Vô Ngã tức là Tự Tính
Không[1].
Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tư
tưởng các Bộ phái Phật giáo, cũng như tư tưởng của Đại thừa Phật giáo,
Long Thọ quyết định xiển dương Đại thừa Tính Không , có lẽ vì Ngài đã thấy
rõ mục đích Phật truyền Đạo, thấy rõ sự tiếp nối tư tưởng Vô Ngã của Phật
từ các Bộ phái Phật giáo thuộc hệ thống Đại Chúng đến Đại thừa Tính Không
. Ngài tham cứu hầu như tất cả kinh luận Phật giáo thời bấy giờ, viết ra
rất nhiều bộ luận, để xiển dương đạo pháp chính tông của Phật. Luận của
Ngài có thể chia làm hai loại, một xiển dương giáo lý duyên khởi Tính
Không và hai dựa trên Tính Không mà dựng nên Bồ tát hạnh. Loại một gồm
luận Trung Quán, luận Thất Thập Không Tính, luận Lục Thập Như Lý, luận Hồi
Tránh, luận Thập Nhị Môn...Loại hai như luận Đại Trí Độ(giải thích kinh
Đại Bát Nhã), luận Thập Trụ Tỳ bà sa (giải thích phẩm Thập Địa trong kinh
Hoa Nghiêm)[1].
Với loại luận một (xiển dương
giáo lý), nhất là bộ Trung Quán, Bồ tát gỡ mọi khó khăn và giảng hòa mọi
tranh chấp của các Bộ phái, rằng có không giả thật là không thành vấn đề;
rồi Ngài giảng hòa sự hơn thua của Đại thừa Tiểu thừa, bằng cách cùng khen
ngợi cai hay, cái cần thiết có mặt trong thực tế của cả hai phái; cuối
cùng, Ngài khéo léo biện luận, nhẹ nhàng bẽ gãy mọi quan điểm khác, đưa về
kết luận muôn pháp là duyên khởi, duyên khởi nên Tính Không. Các nhà
nghiên cứu Phật học khuyên rằng, muốn rõ tư tưởng Tính Không duyên khởi,
nên xem luận Trung Quán của Long Thọ và kinh Đại thừa Không tương ưng[1]
.
Với loại luận hai ( dựng nên Bồ
tát hạnh), Ngài dựa trên tư tưởng của Tính Không là vạn pháp Duy giả danh
Tự Tính Không (muôn pháp chỉ tạm gọi là có nhưng thật sự thì không có) mà
xây nên một mẫu người đức hạnh cao vời, luôn sống vì người và có những
hành động lợi tha đúng lúc đúng nơi và đúng tinh thần giải thoát.
Trong dòng chảy Đại thừa xưa
nay, Tính Không và Bồ tát hạnh tuy có được nói nhiều, nhưng chưa hề có hệ
thống lý luận vững chắc và cũng chưa từng được các Bộ phái Phật giáo nể
phục. Nay Long Thọ tuy dung hòa Tiểu Đại, không làm mích lòng Phật giáo Bộ
phái và giúp các Bộ phái gỡ rối, nhưng mọi công sức của Ngài là dồn cho
Duyên khởi Tính Không , nên Đại thừa Tính Không nhờ vậy mà vùng lên hưng
thịnh, Đại thừa Phật giáo nhờ đó mà át hẳn Bộ phái. Phật giáo Ấn Độ từ
đấy, hầu như cả Tiểu lẫn Đại, đều đặt Ngài lên vị trí đáng tôn kính của
tông phái mình.
Tính Không, là không có tự tính
hay không có bản tính, chứ không hề nói rằng các pháp duyên sinh (hiện
tượng) này là không có, không tồn tại. Tính Không chỉ có nghĩa rằng các
pháp hiện tượng này là không thường còn, không tự sinh ra, và bị chi phối
bởi các pháp khác, vì muôn pháp là không có tự tính ( tự thể, bản thể).
Tuy vậy , với nôïi dung là Giả danh hữu tất cánh không, Tính Không nếu
không đi kèm với Bồ tát hạnh thì vẫn là đáng lo ngại, bởi thật sự càng đi
sâu vào luận lý Không thì càng ít quan tâm tới việc tạo lập những tư tưởng
hành vi ích lợi thiết thực cho cuộc sống hiện tại[1].
Đấy là lý do mà khoảng 200 năm
sau, khi thiếu đi những vận dụng thật tế của Bồ tát hạnh, nhiều học giả
Đại thừa Tính Không phạm sai lầm, tạo cơ hội cho một phái nổi dậy phủ nhận
tư tưởng Tính Không Long Thọ , và phái này rất thành công, đó là phái Duy
Thức .
1. Di Lặc
Ngài được hai vị Vô Trước và Thế Thân tôn là Bồ tát Di Lặc ở cung trời Đâu
Suất . Có học giả nhận định, đó là hai vị muốn chứng tỏ Duy Thức là Đại
thừa Phật giáo và được khởi đầu bằng một vị Bồ tát có uy tín trong Đại
thừa . Chứ quả thật, hệ phái Tát bà đa ( Hóa Địa ) có một vị đại đức tên
là Di Lặc , xuất hiện sau Đề Bà, đệ tử Long Thọ , một thời gian, không
phải là Bồ tát Di Lặc đã xuất hiện trong kinh Đại thừa vài trăm năm trước[1].
Di
Lặc là thầy của Vô Trước , Vô Trước là thầy của Thế Thân, đấy là ba vị tổ
đầu tiên lập nên trường phái Duy Thức . Tuy vậy, thật ra, Di Lặc không hề
chủ trương Duy Thức . Duy Thức hình thành đầu tiên là do Vô Trước . Vô
Trước phát huy tư tưởng của Di Lặc mà thành, nội dung Duy Thức của Vô
Trước là Chủng tử thức biến. Người đưa tư tưởng Duy Thức của Vô Trước đến
mức hoàn thiện là Thế Thân . Nhưng nội dung Duy Thức của Thế Thân lại khác
Duy Thức của Vô Trước , do nó là sự kết hợp tư tưởng Duy Thức của Vô Trước
và tư tưởng của Di Lặc mà thành, nội dung Duy Thức của Thế Thân là Phân
biệt thức biến.
Di
Lặc truyền cho Vô Trước trước sau 5 bộ luận, theo lời Vô Trước nói :
1.
Du già sư địa
2.
Biện trung biên
3.
Đại thừa trang nghiêm kinh (luận)
4.
Phân biệt du già
5.
Kim cang bát nhã kinh ( luận)
Nhưng thật ra chỉ có luận Du Già Sư Địa là của Di Lặc , các nhà nghiên cứu
tin như vậy, còn 4 bộ luận kia là của Vô Trước . Hơn nữa, luận Du Già Sư
Địa hiện nay có hai phần: Bổn địa phần và Nhiếp quyết trạch phần, thì mọi
người cho rằng chỉ có Bổn địa phầøn(còn gọi là kinh Thập Thất Địa[1])
là của Di Lặc , còn Nhiếp quyết trạch phần , có người cho là của Vô Trước
[1],
có người cho là của Thế Thân viết thêm vào.
Đại
đức Di Lặc là người thuộc Bộ phái Hóa Địa của hệ thống Phân Biệt Thuyết ,
song vì phái Hóa Địa vốn rất thân với Thuyết Nhất Thiết Hữu – một hệ thống
nổi tiếng là chú trọng thiền định để trực nghiệm nội tâm- thiền định, Ấn
Độ gọi là Du già(yoga)- nên Di Lặc cũng chính là một danh đức của phái Du
già. Ngài là người đầu tiên của phái Du già dựa vào kinh nghiệm thiền định
mà soạn ra thành luận, đó là bộ luận Du Già Sư Địa (người tu thiền có chỗ
sở đắc, gọi là bậc thầy về thiền- thiền sư, du già sư. Cái chốn mà các bậc
thầy ấy an trụ tâm vào, gọi là du già sư địa)[1].
Phái Hóa Địa quan hệ mật thiết với Thuyết Nhất Thiết Hữu , nên tư tưởng
của Di Lặc là Có trong lĩnh vực Có Không . Trong Đạo Phật, ở bốn hệ thống
Bộ phái, tư tưởng của Thuyết Nhất Thiết Hữu và Độc Tử là Có (hữu), của Đại
Chúng và Phân Biệt Thuyết là Không Có(vô). Cần lưu ý rằng, hễ triết học Ấn
Độ nói Có Không là nói về bản thể có hay không có, chứ không phải nói tới
hiện tượng cuộc đời là có hay không có. Cuộc đời hiện tượng này, trừ đức
Phật nói là có thật, theo quan điểm bình dân, còn lại tất cả phái triết
học đều nói rằng nó là ảo ảnh, có mà không thật có.
Khi
Đại thừa Tính Không được nhà đại biện luận Long Thọ hoằng dương, các Bộ
phái thuộc triết Có (hữu) chưa phái nào trở thành Đại thừa . Đại thừa Duy
Thức thuộc triết Có (hữu) thì ra đời từ Vô Trước . Ngay cả Di Lặc , người
mớm chồi cho cây Đại thừa Duy Thức ra đời, vẫn là người của Phật giáo Bộ
phái ( Hóa Địa),và kinh điển y cứ của bộ luận Du Già Sư Địa (Bổn địa phần)
toàn là của Bộ phái Phật giáo triết Có (hữu), như kinh Chuyển Hữu, Nghĩa
Phẩm, kinh Tán Tha[1].
Tuy
bị lép vế khi Đại thừa Tính Không hưng khởi, song Bộ phái Phật giáo Có
chẳng phục, cũng không đổi tư tưởng . Bằng chứng là trước khi Long Thọ ra
đời một thời gian ngắn, các luận sư ở Ca Thấp Di La (Tây Bắc) đã cho ra
đời bộ luận danh tiếng Đại Tỳ bà sa, xiển dương giáo lý Có. Sau khi Long
Thọ mất một thời gian, tôn giả Đạt ma đa la đã gom ý tưởng của hai triết
hệ Có là Thuyết Nhất Thiết Hữu ở Tây Bắc và Độc Tử ở Đông Bắc , cho ra đời
quyển luận Tạp Tâm. Cũng thời điểm đó, tôn giả Ha lê bạt ma tập hợp tư
tưởng của phái Kinh Lượng ( phái đã tổng hợp tư tưởng của hai triết hệ Có
Không của 4 hệ thống chính, và nghiêng về Có ) cùng tư tưởng Không Vô của
hai hệ thống Đại Chúng – Phân Biệt Thuyết , tạo nên bộ luận Thành Thật.
Thành là hoàn chỉnh, trọn vẹn, thật là có thật, thật thể ; như vậy, luận
Thành Thật xiển dương giáo lý Có . Rồi bẵng đi một thời gian- suốt thời
gian này, Đại thừa Tính Không chìm lỉm- tôn giả Thất lợi đa la lại soạn bộ
luận Kinh bộ Tỳ bà sa, xiển dương giáo lý Kinh Lượng . Một thời gian sau
nữa, Bồ tát Di Lặc lại chọn lựa một số tư tưởng của phái Kinh Lượng , cho
ra đời luận Du Già Sư Địa
[1]
.
Không rõ các bộ luận trước đã có phản kháng gì với tư tưởng Tính Không –
không vô tự tính, không có bản thể- riêng luận Du Già Sư Địa thì hoàn toàn
phủ nhận ý nghĩa Tính Không trên, bằng cách nói rằng bản thể tâm là có (
chủng tử tâm) và bản thể pháp là có (ly ngôn tự tính); tâm và pháp tức là
muôn pháp (nhất thiết pháp). Du Già Sư Địa cũng định nghĩa về Không , về
Giả như Đại thừa Tính Không , nhưng với một ý nghĩa khác.
Qua
Bổn địa phần, tư tưởng của Ngài Di Lặc có thể tóm lại thành hai vấn đề
chính: chủng tử tâm và ly ngôn tự tính (bản thể) của pháp là có thật.
*
chủng tử tâm
Bồ
tát nói rằng luôn luôn trong cái thân vật chất con người có một thứ tinh
thần, một thứ duy nhất, luôn luôn tồn tại, gọi là Ý. Ý khi gặp cảnh (trần)
bèn phát sinh tác dụng nhận biết cảnh (trần), tác dụng này gọi là Thức.
Nương theo căn mà tạm gọi tên thức, Ý bên trong tỏa ra ngoài thân qua 5
cửa (5 căn), thành ra có 5 Thức : nhãn thức , nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức.
Khi
căn (cửa) mở ra là khi cảnh và ý gặp nhau, cảnh gieo vào ý một ấn tượng,
gọi là trần, tức là tướng trạng của cảnh. Dựa vào từng loại căn mà có từng
loại trần tương ứng, như vậy có 5 trần : sắc trần, thinh trần, hương
trần,vị trần, xúc trần.
Tuy
chia trần ra làm 5 thứ, chứ nó vốn chỉ là một loại trần : pháp trần- vì
cảnh chính là pháp. Tức là, sắc trần cũng vốn là pháp trần, thinh trần
cũng vốn là pháp trần...và xúc trần cũng vốn là pháp trần. Đối với 5 thức
cũng vậy, tuy gọi là 5 thức vì tùy theo 5 căn, chứ 5 thức vốn chỉ là một
loại : Ý thức (tác dụng nhận biết trần của Ý, gọi là Ý thức, thức nghĩa là
nhận biết). Pháp trần là đối tượng nhận biết của Ý thức, cũng như sắc trần
...là đối tượng của nhãn thức...
Và
“trần”, cái bóng của cảnh, vì tiềm tàng cái khả năng nảy sinh tác dụng nào
đó khi đủ duyên, nên được gọi là chủng tử (hạt giống). Ví dụ, khi ăn ngon
cảm thấy thích, việc ấy gieo vào tâm một ấn tượng, về sau khi có một món
ăn ngon để trước mắt, ấn tượng ấy sẽ phát sinh tác dụng , thôi thúc tay
lấy ăn, đó là chủng tử phát sinh tác dụng. Tập hợp tất cả các chủng tử đó,
gọi là tâm.
Tóm
lại, theo Di Lặc , trong con người có một thứ tinh thần duy nhất, là Ý.
Tác dụng nhận biết cảnh (trần) của Ý , là Thức. Tập hợp những chủng tử
trong cõi miền của Ý, là Tâm[1].
Trước đó, trong Phật giáo , phạm vi của tâm ý thức không chia biệt như
vậy.
Một
đặc điểm của chủng tử trong lý thuyết của Di Lặc , là những hạt chủng tử
này đã có từ vô thỉ (từ rất xưa), gọi tên là Bản hữu chủng tử- hạt giống
vốn có sẵn từ lâu. Như vậy , Chủng tử tâm (cái tâm là tập hợp tất cả hạt
giống) của con người là cái tâm đã có từ vô thỉ.
*
ly ngôn tự tính (bản thể) của pháp là có thật
Khi
Ý và cảnh tiếp xúc nhau, cảnh gieo vào Ý một ấn tượng , gọi là hành tướng
. Ý khởi tác dụng để nhận hiểu cái ấn tượng này; ngay chính cái tác dụng
ấy, gọi là Thức. Bản thân cái ấn tượng (hành tướng ) ngay lúc được nhận
biết, gọi là Nghĩa Tướng (hành tướng có mang một ý nghĩa); Nghĩa Tướng là
cái ấn tượng có mang một ý nghĩa, nhờ ý nghĩa đó người ta có thể hiểu được
cảnh bên ngoài là cái gì. Tuy nhiên, đừng vội cho rằng nhờ Nghĩa Tướng mà
ta có thể biết được sự thật về cảnh bên ngoài, vì Nghĩa Tướng này không có
thật, nó chỉ là cái bóng của Thức (lưu ý, không phải của Ý) mà thôi.
Ví
dụ khi ta buồn, cảnh trời chiều tắt nắng, mây bảng lảng trôi, ếch nhái
đong đưa, ta cho rằng cảnh buồn. Không phải vậy, cảnh vốn không phải buồn,
buồn chỉ là cái ý nghĩa mà sự nhận thức ( Thức) của ta đã chụp mũ cái ấn
tượng ( hành tướng ) mà thôi. Nghĩa Tướng ở đây, là cảnh chiều buồn, là
không thật.
Như vậy, Nghĩa Tướng là cái có
hai phần : một là cái ấn tượng ( hành tướng) đầu tiên, chưa có ý nghĩa và
hai là cái ý nghĩa mà Thức đã gán cho cái ấn tượng ấy . Cái ý nghĩa mà
Thức gán cho này, là không thật, vì nó không có tự tính ( tự thể, bản
thể). Cái ấn tượng ( hành tướng) ban đầu, nó là thật, vì nó có tự tính .
Chính cái Nghĩa Tướng là một chủng tử, và vì nó được đặt tên bởi Thức nên
nó được gọi là Danh ngôn chủng tử. Ngay trên một Danh ngôn chủng tử, Di
Lặc lập ra 2 loại tự tính : y ngôn tự tính , là bản thể của cái ý nghĩa mà
Thức gán cho (y ngôn: nương nhờ ssự nhận biết của thức mà có) và ly ngôn
tự tính, là bản thể của cái ấn tượng , tức là bản thân ấn tượng (hành
tướng ) (ly ngôn, vì bản thân sự hiện hữu của hành tướng không ăn nhập gì
với sự nhận biết của Thức). Y ngôn tự tính thì là không có thật, ly ngôn
tự tính là có thật.
Muôn pháp (cảnh) được nhận hiểu (thức) qua tác dụng của ý. Tuy cái ấn
tượng (hành tướng) của muôn pháp bị ý hiểu sai, nhưng nhất định cái hành
tướng đã gieo vào cõi miền của ý là có thật (đây là tư tưởng “cái giả
nương vào cái thật mà có” của phái Kinh Lượng). Hành tướng này phải là
thật, mới có thể làm nền tảng để cho ý hiểu (thức) sai mà tạo ra cái giả.
Hành tướng (tướng trạng của muôn pháp hữu vi) cùng với muôn pháp bên ngoài
là đồng một thể, tức là đồng có ly ngôn tự tính, tức thật sự có.
Long Thọ dùng duyên khởi để quan sát muôn pháp, thấy rằng muôn pháp là do
nhân duyên (điều kiện) mà thành hay hoại. Xé muôn pháp ra, để tìm bản
thể-cái hình thức ban đầu, nguyên nhân ban đầu, từ đó sinh ra muôn
pháp-tìm mãi không thấy, vì bất kì pháp nào cũng là nhân duyên hòa hợp.
Cho nên Long Thọ nói muôn pháp hiện tượng chỉ tạm gọi là có, còn bản thể
muôn pháp thì thật sự là không có (van pháp giả danh hữu tất cánh không).
Di
Lặc theo chủ trương bản thể là có. Ngài cũng dùng duyên khởi quan sát muôn
pháp, tức Ngài cũng chấp nhận muôn pháp hiện tượng là duyên khởi. Nhưng
cái nhìn về bản thể và hiện tượng của Ngài thì theo lăng kính của Kinh
Lượng : “hiện tượng giả, nhưng nhất định do nương vào một bản thể thật mà
phát sinh”.
Và
cách nhìn về bản thể hiện tượng của Di Lặc như vầy: muôn pháp (cảnh) ngoài
tâm là hiện tượng, hiện tượng là biểu hiện của bản thể. Con người chỉ có
thể nhận thức được hiện tượng, không thể biết được bản thể. Cho nên, cái
lối nhìn hiện tượng rồi nắm lấy hiện tượng xé ra để tìm bản thể như Long
Thọ là sai lầm, dù rằng bản thể và hiện tượng là không một không khác.
Tạm
lấy một ví dụ minh họa. Sợi dây là bản thể, con rắn là hiện tượng. Sợi dây
vốn không phải là con rắn, vì nhận thức sai lầm, con người thấy sợi dây là
con rắn, nên con rắn là không có thật, là hiện tượng giả. Nếu như ngay
trên sự cấu tạo của con rắn này, xé nó ra thành đầu, mình, vẩy... thì làm
sao thấy được bản thể là sợi dây?
Cho
nên, Di Lặc gọi các nhà Đại thừa Tính Không là “ác thủ không”-chấp kẹt vào
Tính Không một cách sai lầm-và Ngài định nghĩa lại về Không. Theo Ngài,
Không có hai nghĩa. Một là Tự Tính Không, vẫn có nghĩa là không có tự
tính, song cái Không này là chỉ cho cái tự tính y ngôn, y ngôn tự tính thì
không có là phải . Hai là Tha Tính Không, cái Không này là chỉ cho tự tính
ly ngôn- bản thể muôn pháp-tự tính ly ngôn này là có thật hoàn toàn ; chỉ
vì trong cái tự tính ly ngôn này không có sự tồn tại của sự nhận thức sai
lầm ( vọng thức ), nên gọi nó(ly ngôn tự tính ) là Tính Không[1]
.
Tóm
lại , tư tưởng Di Lặc là Có, thật có, tâm có (chủng tử tâm) và pháp có
(ly ngôn tự tính) ; tâm và pháp chính là muôn pháp. Chủng tử là Danh ngôn
chủng tử , nên tâm- tập hợp tất cả chủng tử – là vọng tâm; tuy chủng tử và
tâm đều là vọng, nhưng đều có thật thể ly ngôn. Bản thể ( tự tính ) muôn
pháp là thật có , do bản thể này không có sự vọng chấp của thức , nên gọi
bản thể này là Tính Không . Di Lặc tuy chưa hề nói muôn pháp (cảnh) là do
tâm thức biến hiện ra, nhưng hai chủ thuyết trên là điểm khởi đầu để Vô
Trước và Thế Thân sau này lập nên cái triết thuyết gọi là Hư vọng Duy Thức
.
2. Vô Trước
Vô
Trước xuất gia ở phái Thuyết Nhất Thiết Hữu , người em ruột kế là Thế Thân
và người em kế nữa là Sư Tử Giác (Tỷ lân trì bạt bà) cũng xuất gia theo
phái này.
Truyền thuyết kể rằng Vô Trước sau nhiều năm tu tập phương pháp quán về
Tính Không đang thịnh hành thời bấy giờ, có lẽ là Tính Không Long Thọ ,
không kết quả. Buồn, muốn tự tử. Trong một lần cắt thịt cho một con vật
sắp chết đói ăn, hành động này đã cảm động một danh tăng của phái Hóa Địa
thời ấy-phái thân cận với Thuyết Nhất Thiết Hữu- là Ngài Di Lặc . Di Lặc
bèn nhận Vô Trước làm học trò và truyền bộ luận Du Già Sư Địa cho[1].
Tuy
nhiên, như đã biết, Bổn địa phần trong Du Già Sư Địa mới là của Di Lặc ,
và Bổn địa phần không hề nói rằng “muôn pháp không có, chỉ có thức”( Duy
Thức). Bổn địa phần (còn gọi là kinh Thập Thất Địa) phủ nhận tư tưởng Tính
Không của Đại thừa Tính Không và xác nhận muôn pháp đều có thật thể. Tư
cách của Bổn địa phần chỉ là một bộ luận của Bộ phái Phật giáo triết Có mà
thôi. Dựa vào đó, Vô Trước viết luận Phân biệt Du già để xiển dương tư
tưởng Di Lặc , rồi viết luận Kim cang Bát nhã kinh (luận ), luận giải về
kinh Kim Cang-một bộ kinh đặc trưng của Đại thừa Tính Không , để cải chính
cách hiểu về Tính Không của Đại thừa . Rồi lại dựa vào Bổn địa phần soạn
ra luận Biện Trung Biên, Đại thừa Trang Nghiêm Kinh (Luận ) để trình bài
luận lí vạn pháp Duy Thức và cuối cùng là luận Nhiếp Đại thừa để hợp thức
hóa phái Duy Thức thành một phái của Phật giáo Đại thừa và vạch ra đường
lối tu chứng hẳn hoi của Đại thừa theo Duy Thức .
Duy
Thức của Vô Trước là Chủng tử thức biến.
Duy
Thức , nghĩa là chỉ có thức, cảnh không thức hữu- mọi thứ hiện tượng cuộc
đời đây là hoàn toàn không có thật, chỉ do cái thức biến hiện ra. Cuộc đời
với mọi thứ xảy ra này chỉ như là giấc mộng, tưởng có thật mà không thật,
người thức dậy rồi, mọi thứ trong mộng biến mất hết[1]
.
Di
Lặc khởi hành từ sự phân tích các họat động và nội dung các thức, để tiến
đến kết luận là vẻ nên bộ mặt của chủng tử tâm và sự thực có của bản thể
muôn pháp. Vô Trước chủ trương Duy Thức thì khởi hành ngược lại, từ sự
thật có của chủng tử tâm và bản thể muôn pháp ( Ly ngôn tự tính) đi trở về
sự họat động của các thức, để rồi kết luận muôn pháp ( cuộc đời thiên sai
vạn biệt) này là do vọng thức biến ra- vạn pháp Duy Thức.
Để
hiểu về vạn pháp Duy Thức , trước nhắc sơ về lộ trình của Bồ tát Di Lặc .
Khi cảnh và ý tiếp xúc nhau, cảnh gieo vào cõi miền ý một ấn tượng (hành
tướng ) . Aán tượng này là một cái gì đó, ta không thể biết nó là cái gì
và cũng đừng nên cho nó là cái gì. Nó có thật, vì nó có ly ngôn tự tính và
bản thân nó chính là cái ly ngôn tự tính .
Khi
ấy, ý khởi tác dụng (gọi là thức) nhận biết cái ấn tượng . Aán tượng bèn
khoác lên mình một cái ý nghĩa , ấn tượng có ý nghĩa (mà tâm hiểu được nó
là cái gì) này gọi là Nghĩa Tướng . Nghĩa Tướng là giả mà chúng ta cho
làthật, nên bị nó gạt[1].
Tại sao Nghĩa Tướng là giả? Vì nó là cái bóng của thức ( tác dụng của ý),
nó là sự phản ảnh của thức, thức như vật ở trước cái gương ( kính) còn nó
là bóng của thức ở trong cái gương. Nghiã Tướng là hoàn toàn không có,
nhưng không phải không có một cái bản thể để Nghĩa Tướng nương vào đó mà
giả hiện. Cái bản thể để Nghĩa Tướng nương vào chính là cái ấn tượng , là
Ly ngôn tự tính. Còn bản thân Nghĩa Tướng không có thật, vì nó không có
bản thể của chính nó, bản thể của chính nó là y ngôn tự tính.
Để
hiểu được hai lọai tự tính (bản thể) này, cũng đơn giản. Ngay chính cái ấn
tượng không có ý nghĩa gì này( hành tướng), Di Lặc lập ra hai bản thể. Hễ
có ý nghĩa của thức chụp vào, ấn tượng bèn trở thành Nghĩa Tướng; bản thể
của Nghĩa Tướng này là cái ý nghĩa ngôn tự tính, là hoàn toàn không có.
Nghĩa Tướng là không có, nhưng nhờ nương vào một cái có thật mà nó giả
hiện ra, cái có thật này chính là cái ấn tượng ( hành tướng) và chính cái
ấn tượng này chính là ly ngôn tự tính. Ví dụ, em bé này tên là Mai. Mai
là cái ý nghĩa mà ta đặt tên cho em. Thật ra, em không phải là Mai. Mai là
Nghĩa Tướng, Mai không có thật, không có cái gì cố định để được kêu là
Mai, tự tính của Mai-tức y ngôn tự tính- không có. Em Mai không có thật,
nhưng em Mai nương vào một cái thật để tồn tại. Cái có thật là một cái
thể, bằng xương bằng thịt, có sờ sờ ra đó, và không biết nó là cái gì- nó
là ly ngôn tự tính.
Nghĩa Tướng khi vừa trở thành Nghĩa Tướng , nó được gọi là Danh ngôn chủng
tử. Tập hợp tất cả chủng tử này , gọi là tâm, tâm chủng tử. Tâm này gọi là
vọng tâm, vì chủng tử là vọng ( danh ngôn). Vọng tâm là không thật, nhưng
vọng tâm nương nhờ một bản thể thật mà biểu hiện ra ; giả và thật không
lìa, một không phải một, khác không phải khác.
Cái
ly ngôn tự tính trong cõi miền ý, là đồng một thể với ly ngôn tự tính của
muôn pháp ở bên ngoài (cảnh). Do vậy, thế giới hiện tượng (cảnh) tuy theo
sự nhận biết của tâm là muôn vàn sai khác, nhưng thật ra thế giới hiện
tượng là không có, chỉ có một thứ có thật là bản thể ly ngôn của muôn
pháp.
Đây
chính là lộ trình của Di Lặc . Ngài nói, tâm và cảnh đều có bản thể rốt
ráo chân thật. Tâm chính là tập hợp những chủng tử, chủng tử là cảnh huân
tập (gieo) vào cõi miền ý, bị sự tác động nhận thức sai lầm của ý (nên nhớ
rằng ý ở đây không phải là thức thứ bảy của Duy Thức mà chỉ là tinh thần
nói chung của con người trong tư tưởng luận của Di Lặc ) .Tuy nhiên , tâm
và cảnh đều có hai thể khác nhau.
Tiếp nối, Vô Trước bèn xướng thuyết Duy Thức , tức Duy tâm. Chủng tử tâm
trở thành Alaya thức ( thức- kho- chủng tử ), vọng tâm trở thành vọng thức
. Lúc này, tâm và cảnh không là hai thể khác nhau nữa, mà cảnh là sự biến
hiện của tâm, chủng tử (là tâm) khởi hiện hành, thành cảnh ; thể của cảnh
chính là thể của tâm, là Alaya thức .
Tại
sao cảnh có thể do tâm biến ra? Cảnh do tâm biến ra là cảnh thế nào? Cảnh
là thế giới hiện tượng. Cảnh không phải là bản thể, dù hiện tượng và bản
thể không lìa nhau, không một không khác. Cảnh đã huân (gieo) chủng tử
(giống) vào tâm, khi chủng tử (giống) khởi hiện hành (nảy mầm phát triển)
thì tạo ra cảnh; như cây rớt hạt, hạt nảy mầm thành cây. Cảnh ở đây là
không thật, nhưng không lìa cái thật (bản thể ).
Chủng tử khi nào khởi ra hiện hành? Khi có duyên thì nó khởi ra hiện hành.
Duyên có thể là ấn tượng ngoài gieo vào, có thể là một chủng tử khác bên
trong.
Khi
cảnh ngoài gieo vào cõi miền ý một ấn tượng , Di Lặc cho rằng ý khởi tác
dụng nhận biết ấn tượng , tác dụng đó (không lìa ý) gọi là Thức . Vô Trước
thì nói cái khởi tác dụnghông phải là ý, mà là tâm, tức là chủng tử khởi
ra hiện hành ; khi chủng tử khởi ra hiện hành để nhận biết ấn tượng ,
chủng tử được gọi là Thức – còn gọi là năng phân biệt-và cái “ấn tượng có
ý nghĩa”(tức là Nghĩa Tướng ) được gọi là sở phân biệt. Sở phân biệt là
cảnh , là muôn pháp hiện tượng .
Sở
phân biệt (cảnh) là cái bóng của Thức , Thức là sự hiện hành của chủng tử
, tâm chính là tập hợp các chủng tử , cho nên nói tâm biến ra cảnh .Tâm
thì biến ra cảnh, tâm chủng tử nay là thức Alaya, nên Vô Trước tuyên bố
vạn pháp Duy Thức . Duy Thức có nghĩa là “không có cảnh , chỉ có thức” ;
cuộc đời thiên sai vạn biệt này hoàn toàn không có, nó chỉ là sự biến hiện
giả dối của thức mà thôi. Thức Có ở đây là hư vọng Alaya thức (hư vọng
nhất thiết chủng thức), vì thức này gồm toàn các chủng tử danh ngôn hư
vọng. Cảnh không có ở đây là cảnh như huyễn như mộng, ngỡ có mà thâït ra
là hoàn toàn không có.
Như
vậy, ở Di Lặc , tâm và cảnh tồn tại riêng nhau. Mối liên hệ giữa tâm và
cảnh là, cảnh huân chủng tử vào tâm. Tâm và cảnh đều là vọng là huyễn,
nhưng cả hai có một cái chung là đều có tự tính ly ngôn (bản thể ). Còn ở
Vô Trước , thì tâm thức đã vượt khỏi giới hạn cũ là nằm trong cơ thể con
người. Tâm thức bây giờ đã lớn bằng pháp giới, biến hiện ra vũ trụ muôn
màu. Ly ngôn tự tính của cả hai tâm cảnh bây giờ là của một- Alaya thức
–và nó mang tên mới là Viên thành thật tính. Thức Alaya sinh ra pháp giới,
nhưng Alaya là vọng thức , còn bản thể của Alaya, không tức không lìa,
không một không khác với Alaya, là Viên thành thật tính (tức ly ngôn tự
tính ).
Vô
Trước nói, khởi tác dụng nhận biết ấn tượng là tâm, không phải ý, vậy thì
Vô Trước định nghĩa ý như thế nào? Di Lặc nói, trong thân xác con người có
một dòng chảy tinh thần duy nhất, là ý; tác dụng nhận biết của ý là thức ,
tập hợp tất cả ấn tượng có ý nghĩa (chủng tử, Nghĩa Tướng) là tâm. Vô
Trước cũng chia tinh thần làm 3, tâm ý thức , nhưng không qui tinh thần về
ý mà qui về tâm, như sau: Thức tuy có 6, nhưng thật ra chỉ có 1, là thức,
do nương vào căn để gọi tên nên có 6 tên. Cái thức nương vào ý là ý thức ,
nương vào mắt là nhãn thức... Thức cũng là cái tác dụng nhận biết cảnh,
nhưng là tác dụng của tâm ... Ý là một dòng tinh thần không bao giờ ngừng
hoạt động. Nó là chỗ nương tựa của ý thức , nó luôn suy nghĩ toan tính cho
cá nhân nó và nó lầm lẫn cho rằng cái tâm (Alaya thức) chính là con người
thâït của nó. Ý là tác dụng chấp Ngã của tâm. Còn tâm là cái Tạng thức
(Alaya thức ), chứa tất cả hạt giống do ý và thức gởi vào, rồi chính những
hạt giống đó nảy mầm phát triển, thành sự hoạt động của ý và thức . Thức
nương ý mà hoạt động, thức và ý nương tâm mà hình thành.
Duy
Thức tức là vạn pháp (nhất thiết pháp) Duy Thức. Cuộc đời muôn trùng này
là không có, như cảnh chiêm bao, chỉ là sự biến hiện giả dối của thức
Alaya. Thức Alaya là một kho của những nhận thức (hiểu) hư vọng (sai lầm).
Cuộc đời muôn màu này được vẽ ra bởi những nhận thức sai lầm đó, nên nó
chỉ là hư ảo, hư ảo cả ba thời gian quá hiện vị lai, hư ảo cả mười phương
thế giới, hư ảo cả luân hồi sinh tử, nhưng trong cõi hư ảo thì tất cả cái
đó đều có.
Thức Alaya là cái biến hiện ra mọi thứ, trong đó có cả trò chơi luân hồi,
rồi chính Alaya lại bị chìm trôi theo dòng luân hồi đó. Mặc dù chỉ là giấc
mơ, nhưng trong giấc mơ thì cái nào cũng là như thật.
Pháp tu để thoát luân hồi khổ của Duy Thức , là nhận ra đâu là phần hư
vọng (y ngôn tự tính , còn gọi là biến kế sở chấp tính) của thức , đâu là
phần chân thật (ly ngôn tự tính , còn gọi là Viên Thành thật tính ) của
thức . Nhận ra vọng, không chạy theo; hiểu được chân, hòa nhập vào. Nhờ
vậy mà vọng thức (hiểu biết sai lầm) trở thành diệu trí (thấy biết một
cách linh diệu). Sinh tử luân hồi vốn là không có, chỉ là giấc mộng, do
chạy theo biến kế sở chấp mà chúng sinh tưởng như thật có; nay trở về với
chân, tỉnh giấc rồi, mọi thứ trong mộng tiêu tan, không phá mà tự mất,
hoàn toàn giải thoát.
Cái
luận lý tu tập này, nếu muốn được nghe giải thích một cách hoàn toàn logic
thì cực kỳ khó. Cái luận lý ấy vừa như rất dễ chấp nhận trên mặt lý
thuyết, vừa như rất khó thực hiện trong thực tế. Tuy vậy, ở một mặt khác,
nếu nhìn nó hơi khác đi một chút, không cần logic lắm về lý thuyết, thì
lại như rất có kết quả khi ứng dụng vào thực tế cuộc sống.
Từ
lý thuyết Duy Thức của Vô Trước nhìn về Ngã của Bà la môn , rồi Vô Ngã của
Phật, rồi Bổ Đặc Già La của Bộ phái , rồi Tính Không của Long Thọ ,nếu
không phân tích chi li cho lắm, sẽ thấy rằng Duy Thức thật hoàn bị về lý
luận , không còn bị kích bác từ một phía nào, cả trong Đạo Phật lẫn ngoài
Đạo Phật. Alaya đi trong luân hồi, nó cùng với thật tính (bản thể , Ngã,
niết bàn) không một không khác, nhưng nó là cái tạo ra vũ trụ muôn màu, và
nó hoàn toàn không phải là ý và thức – những yếu tố tinh thần của con
người. Như vậy, Alaya không chống trái với Ngã của Bà la môn , vì nó là
cái sinh ra vũ trụ ảo hóa này. Alaya lại cũng không trái với Vô Ngã của
Phật, vì nó không phải là Ngã của Bà la môn , nó không phải là bản thể .
Alaya là cái đi trong luân hồi, nó là cái mà con người tưởng là Ngã, thế
là Duy Thức hợp với dân chúng và Bộ phái Phật giáo . Vì cái mặt hư vọng
của Alaya (biến kế sở chấp tính , y ngôn tự tính ) là không có thật, là
Tính Không , nên Duy Thức nuốt luôn cả Tính Không Long Thọ vào lòng ( mặc
dù các học giả Đại thừa Tính Không không chịu).
Đó
là Đại thừa Duy Thức của Vô Trước .
3. Thế Thân
Ngài xuất gia ở phái Thuyết Nhất Thiết Hữu . Ngài đã gồm thâu tư tưởng
Thuyết Nhất Thiết Hữu mà soạn ra quyển luận Câu Xá. Tương truyền trước kia
Ngài bài bác Đại thừa , nhưng không hiểu Ngài bác cái gì. Vì nếu nói Ngài
bác Duy Thức Đại thừa thì tư tưởng Duy Thức Đại thừa rất gần với Thuyết
Nhất Thiết Hữu , còn nếu bác Tính Không Đại thừa thì Vô Trước cũng đang
“thanh lọc” tư tưởng Đại thừa Tính Không , có lý đâu Vô Trước cản em mình.
Lạ một điều, Thế Thân theo sang Đại thừa là do Vô Trước trong đêm trăng
ngâm cho Thế Thân nghe một bài kệ tụng, bài kệ chắc chắn là triết lý Duy
Thức . Nếu bảo Thế Thân bác Đại thừa vì Đại thừa chuyên lợi tha cũng không
phải, chính Thế Thân vì muốn dẹp yên những tranh chấp giáo lý trong nội bộ
phái Thuyết Nhất Thiết Hữu mà soạn ra luận Câu Xá. Có thể đoán, Ngài viết
luận chống Đại thừa vì Ngài chưa tiếp xúc được với những triết lý thâm sâu
của Đại thừa, nên tin rằng “Đại thừa là ngoại Đạo”- tư tưởng chính của Bộ
phái Phật giáo .
Theo học Duy Thức với anh, Thế Thân đã phát triển Duy Thức đến mức hoàn
bị. Có điều, khi Duy Thức đã hoàn bị, tư tưởng nó hơi khác với Duy Thức
của Vô Trước ban đầu, khác nhưng không hề chống trái. Duy Thức của Thế
Thân là Phân biệt thức biến.
Chữ
“phân biệt” ở đây được hiểu là lần lượt, chứ không phải là thức ( phân
biệt ), cũng không có nghĩa là chia biệt. “Phân biệt thức biến” nghĩa là
cái thức Alaya nó lần lượt biến ra.
Xuất phát từ Chủng tử thức biến của Vô Trước , Phân biệt thức biến giải
thích tường tận sự biến hiện của thức Alaya, sự khởi hiện hành từ chủng tử
của thức Alaya sang Ý và Thức, rồi ba thức (Alaya ,ý ,thức ) biến ra vũ
trụ muôn màu. Vô Trước chỉ nói chủng tử từ Alaya khởi hiện hành, thành ý
và thức ; bộ ba này chính là tâm của một con người. Và cũng chủng tử Alaya
khởi hiện hành thành vũ trụ vạn hữu, gồm thân xác của một người ấy, và
thân tâm của mọi người khác cùng với muôn vàn cảnh vật. Khi chủng tử gặp
duyên, khởi hiện hành thì chủng tử là Thức (năng), và đối tượng của Thức
trở thành hư vọng Nghĩa Tướng (sở); hư vọng Nghĩa Tướng tức là muôn pháp .
Như vậy, ý và thức, vốn do Alaya biến ra, có phải là hư vọng Nghĩa Tướng
không?... Duy Thức của Vô Trước còn tồn động rất nhiều câu hỏi.
Nội
dung Phân biệt thức biến (cái thức Alaya nó lần lượt biến ra) như sau:
Alaya thức biến ra manas thức (ý), Alaya thành thức năng biến, ý thành
cảnh sở biến. Thức manas quay lại, cho Alaya là cảnh (đối tượng) và chụp
vào Alaya một ý nghĩa “đó thật sự là mình”, manas thành năng và Alaya
thành sở. Rồi Alaya biến ra ý thức (6 thức), Alaya là năng, ý thức là sở.
Ý thức chụp mũ cảnh ngoài (hành tướng), ý thức là năng, cảnh là sở. Ý thức
nương vào ý để hoạt động. Tại sao ý thức (sở) không nương vào Alaya (năng)
để hoạt động mà lại nương vào ý? Ý thức (6 thức) biến ra cảnh vật bên
ngoài, chưa rõ ý thức lấy cái gì làm hành tướng, hay chủng tử làm duyên
ban đầu để biến ra năng sở, có lẽ là lấy chủng tử có sẳn bên trong của
Alaya? Câu hỏi này phải để những nhà hoằng truyền Duy Thức trả lời, người
viết cũng không biết tại sao.
Nói
tóm lại, do Thế Thân hoàn chỉnh Duy Thức của Vô Trước , nên người sau
truyền Duy Thức chính là truyền Phân biệt thức biến của Thế Thân , còn
Chủng tử thức biến của Vô Trước thì đã trở thành bộ sườn của cái nhà Duy
Thức rồi. Phân biệt thức biến thì có 3 cái thức khởi hiện hành, Alaya,
manas, Thức; Chủng tử thức biến thì chỉ có một, Alaya.
Tuy
nhiên, sau Thế Thân, Duy Thức thức lại chia thành hai tư tưởng lớn, do hai
vị đệ tử xuất sắc của Thế Thân là An Huệ và Trần Na. Hệ thống của An Huệ
theo đúng Duy Thức Phân biệt thức biến. Hệ thống Trần Na, nhất là đệ tử
Trần Na tên Hộ Pháp, dựa hoàn toàn vào bộ luận Du già sư địa (trọn cả 2
phần, có lẽ do Hộ Pháp cho rằng trọn bộ luận là của Di Lặc viết) để xiển
dương Duy Thức. Duy Thức loại này thì tương đối khác với Duy Thức của Thế
Thân và Vô Trước. Huyền Trang, sơ tổ Duy Thức tông của Trung quốc, chính
là học Duy Thức từ Hộ Pháp.
VI -Tổng
kết- Tóm lượt sự Phát triển.
Xem qua, chắc người cũng bớt được ít nhiều thắc mắc, Duy Thức từ đâu
có, hoàn cảnh nào ung đúc nên tư tưởng Duy Thức.
Hình thành trong hoàn cảnh lịch sử Ấn Độ phong phú về triết học, đa dạng
về dân tộc, văn hóa, tôn giáo, bất ổn về chính trị, để tồn tại và phát
triển, tư tưởng Đạo Phật đã phải nhiều phen thay đổi.
Đức
Phật muốn đổi lối sống mê tính bằng lối sống thiết thực hiện tại, nói Vô
Ngã và hành từ bi, sống đức hạnh và tịnh hóa tâm hồn.
Bộ
phái Phật giáo gỡ nguy cho Đạo Phật bằng cách tạo ra Bổ Đặc Già La, song
lại tranh chấp nhau, vì sự sinh tồn bản thân mà quên đi bản hoài cứu khổ
của Phật. Cùng lúc đó, vì quá khích trong việc cứu khổ và phát triển Đạo
pháp mà một số Bộ phái vượt qua nhiều nghi thức Phật giáo cần có trong đời
thường. Phật giáo Bộ phái rơi vào hỗn loạn.
Bồ
tát Long Thọ thổi bùng Duyên khởi Tính Không, vực dậy tinh thần và lối
sống vị tha của Phật dẹp yên thời cuộc hỗn độn, phát triển tình thương
nhân loại.
Duy
Thức gom ba chặng trước về một mối, đứng vào vị trí Đại thừa để tiếp nối
hạnh lợi tha, nuốt Tính Không Đại thừa và Bộ phái để hài hòa với tư tưởng
Bà la môn đang thịnh hành của Ấn Độ, và chọn lối giải thích thế nào để
không phạm lỗi với đức đại Đạo sư.
C. Lời cuối.
Thưa cùng người đọc,
Đạo
Phật chúng ta là một tôn giáo. Xem lịch sử, chúng ta thấy các tôn giáo
khác cũng biến đổi theo thời gian như Phật giáo mà thôi. Biến đổi, để tồn
tại, để phát triển, hoặc để dung nhiếp Đạo khác hầu chiếm địa vị độc tôn
trong dân gian. Chúng ta ngày nay nghiên cứu Đạo Phật không phải để tìm ra
cái dở để chê bai, cái không cần có trong hiện tại để trù dập, mà là để
hiểu đúng cái tinh thần của Đạo Phật, cái bản hoài của đức Phật và những
cái phương tiện tốt mà Đạo Phật đã dùng, để từ đó ta sống (tu tập) cho có
hạnh phúc.
Một
huynh học trò nói với người viết: “Tuy Luân hồi, Niết bàn, Chân Ngã là của
Bà la môn , nhưng biết đâu nó đúng và có thật, nên các tổ sư mới lấy vào,
trở thành Phật pháp. Chúng ta bây giờ đâu cần bàn nói những cái đó không
phải của Đạo Phật và không có thật? ”
Người viết đáp: “Đúng vậy. Phật pháp vốn là thế gian pháp, có cái gì riêng
kêu là Phật pháp đâu. Tôi không tuyên bố những cái đó không phải của Đạo
Phật và không có. Việc tôi đang làm chỉ là trình bày sự diễn tiến tư tưởng
của Đạo Phật theo thời gian mà thôi, mục đích để giới thiệu đôi nét về sự
hình thành tư tưởng của trường phái Duy Thức.
62
năm trước, năm 1943 (Trung hoa Dân quốc năm 31), Hòa thượng Aán Thuận viết
quyển “Ấn Độ chi Phật giáo” (Phật giáo ở Ấn Độ). Quyển này, dù chỉ vì đáp
ứng nhu cầu của người học lúc đó, song khi được lưu hành, nó cũng gây xôn
xao dư luận, người khen nhiều, người chê cũng lắm. Việc khen chê đó chắc
tác động khá mạnh đến Hòa thượng, nên cụ không muốn tái bản nó cho mãi đến
40 năm sau.
Khi
người viết đọc được quyển này, sung sướng quá, hào khí nổi lên, muốn dịch
ra để giới thiệu rộng rãi cho mọi người, và còn có ý hiềm “Quý thầy đi
trước sao không dịch ra, để đàn em như mình bao năm không có lối”. Thời
gian đẩy đưa, người viết có dịp lên lớp “gõ đầu trẻ”. Sẵn bầu nhiệt huyết,
nghĩ nếu mình đem những điều trong sách ấy ra trình bày chắc lợi ích lắm.
Không ngờ duyên lành chưa đủ, bị “phản ứng phụ”, thối chí, không còn muốn
biên dịch, và giật mình “Ờ, quý thầy trước cao xa thật”.
Khi
thu dọn hành trang chuẩn bị vào rừng ngắm trăng tiếp, vô tình gặp lại
những manh giấy thắc mắc của các sư em, giật mình nhớ lại, mình đã từng
gieo cho các sư em nhiều cái mới, nếu không chỉ đến cuối đường thì công
sức mình lâu nay đã như không mà các sư em còn vương thêm ngờ vực, âu cũng
là cái tội.
Thưa cùng người đọc.
Hơi
thẹn vì cho tài liệu ra đời quá sớm, thời gian hoàn thành chưa được 3
tháng, nên vấn đề tư liệu tham khảo và cách nhận định khách quan cũng chưa
được như ý muốn. Tập tài liệu này không hy vọng đem lại cho người đọc một
cái nhìn toàn diện về lịch sử hình thành tư tưởng Duy Thức, nó chỉ có thể
cung cấp một cái nhìn khái quát mà thôi.
Tất
nhiên, “tin hết vào sách thì thà đừng đọc sách”, nội dung tập tài liệu này
vốn được vẽ ra bởi một cái nhìn chưa đầy đủ của người viết , xin đừng bao
giờ tin trọn vào. Hy vọng nhận được nhiều lời chỉ giáo.
Thứ
ba, 25-01-2005, 16-12-Giáp Thân.
THÍCH PHƯỚC NĂNG
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/minhde&kinh.htm
|
|