Vừa qua, do đầy đủ
nhân duyên, tôi được đi Miến-Điện (Myanmar/ Burma) 3 tháng để tu tập
Thiền định tại trung tâm Pa-Auk. Miến-Điện là một nước Phật-giáo
Nam-Tông thuần thành. Ngày nay, ranh giới địa dư không còn cách trở như
xưa. Tây Tạng có phương pháp phát Bồ-Đề Tâm và Kim Cang Thừa cực mạnh,
có thể một đời thành Phật. Các nước Phật-Giáo Nam-Tông có Pháp môn thiền
Tứ-Niệm-Xứ, Vipassana (thiền Minh Sát) thanh lọc thân tâm, chứng đắc đạo
quả, ngộ nhập Niết-Bàn một cách dễ dàng. Xin ghi lại đây một vài nét để
trao đổi cùng quí vị đồng môn và quí Phật-tử.
Thích-Hạnh-Thức
„Không cần phải
ngồi theo thế kiết già đó, hoặc bán già. Vì ngồi lâu trên 3 tiếng đồng
hồ, chịu không nỗi đâu. Cứ ngồi thoải mái như thế nầy, hai chân không
cần chéo lên nhau. Theo dõi hơi thở và điểm xúc chạm của hơi thở vào ra
nơi đầu mũi (nhân trung/ điểm rảnh trên môi trên). Chỉ tập trung tư
tưởng vào điểm xúc chạm đó mà thôi. Chỉ khi nào đau chân quá chịu không
nỗi mới đổi oai nghi (thế ngồi). Trong khi đổi thế ngồi, vẫn chú ý đến
điểm xúc chạm…“
Vị Pháp sư người
Miến-Điện nói như thế bằng tiếng Anh và thầy Q.P. đã thông dịch lại. Đó
là buổi trình Pháp đầu tiên sau ngày chúng tôi đến đây.
Pa-Auk là một trung
tâm chuyên tu Thiền Vipassana (Thiền Minh Sát), do Thiền sư Tawya
Sayadaw hướng dẫn, toạ lạc tại Mawlamyine Township–Mon State, Myanmar
(Miến-Điện). Nhưng trước khi tu Vipassana, Thiền sinh được hướng dẫn tu
tập Thiền-chỉ (Samatha) cho tới khi chứng được Tứ Thiền rồi mới chuyển
qua. Thiền có hai loại: Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán (Vipassana).
Muốn tu Thiền quán mau đạt kết quả thì phải tu Thiền chỉ trước (1).
Mấy ngày đầu, tôi
ngồi rất khó khăn, hơi thở dồn dập, hổn hển, đứt đoạn không đều; hai
chân đau nhứt, tê buốt; đầu óc mù mịt, rối bời, tán loạn, suy nghĩ miên
man, hết chuyện nầy đến chuyện khác; chẳng nhận ra được hơi thở ở đâu
cả. Mông lung, mơ hồ quá… Tôi thử tập theo cách ngồi ở đây, 2 chân co
lại, nhưng không chồng lên nhau. Tôi cảm thấy 2 vai hơi chùng xuống, vì
hai tay (để tựa lên hai chân) phải xuống thấp hơn, và do đó, lưng hơi
khòm, khó chịu; đã vậy, hai chân vẫn cứ đau. Tôi không biết làm sao. Vài
ngày sau nghe mấy Thầy nói, ngồi thiền chỉ có ngồi kiết già là nhất, vì
đức Phật cũng ngồi như thế; tại mình ngồi không được, chớ ngồi được thì
cứ nên ngồi. Có Thầy còn nói: ngồi kiết già một giờ bằng người ta ngồi
hai giờ. Vì thế tôi lại trở về thế ngồi kiết già. Ngồi độ 15’, 20’ là
tôi bắt đầu ngáp, cứ vài ba hơi thở là phải đưa tay che miệng ngáp, nước
mắt nước mủi chảy ròng ròng. Cứ thế, tôi chịu đựng mỗi ngày 5 thời, mỗi
thời 1 tiếng rưỡi thật vất vả khổ sở…
„Thưa Hoà-Thượng,
đầu óc con cảm thấy mông lung mơ hồ, mịt mù đen tối, chẳng cảm nhận được
hơi thở“, tôi thưa như vậy trong buổi trình pháp thứ hai với Hoà Thượng
Viện chủ (lần nầy không phải là vị Pháp Sư trước nữa). Hoà Thượng nói:
„Nếu thế thì tôi sẽ dạy Thầy cách quán Tứ Đại (đất, nước, gió, lửa).
Nhưng… (HT ngập ngừng một lát), phương pháp quán hơi thở nầy tốt hơn.
Thầy cố gắng đi. Để ý đến hơi thở. Nếu không thở thì… chết sao?“ (HT
cười).
Lần trình pháp sau,
tôi thưa: „Thưa HT, con vẫn chưa cảm nhận được hơi thở; đầu óc nghĩ ngợi
lung tung, đôi khi nó kéo con đi thật xa, chìm đắm trong những vọng
niệm. Con phải mở mắt, vì nhắm mắt lại là buồn ngủ…“Vậy Thầy đếm hơi
thở. Thở vào đếm một, thở ra đếm hai… hoặc thở vào đếm một, thở ra đếm
một; vào hai, ra hai… đếm tới 8 rồi trở về một, một; hai, hai… Nhớ theo
dõi hơi thở, tập trung vào điểm chạm. Phải tập trung vào điểm đó suốt
ngày, trong khi đi đứng nằm ngồi, bất kể lúc nào…“.
Nghe lời chỉ dạy,
tôi cố gắng đếm hơi thở, nhưng cứ lộn hoài, chỉ đếm được vài ba hơi rồi
lại chạy theo những ý nghĩ vẫn vơ; có lúc vọng niệm và đếm số chồng chéo
lên nhau, vừa suy nghĩ vừa đếm; cặp mắt không biết để đâu, mở hay nhắm;
cái thân cựa quậy hoài không yên, nhất là hai chân cấn cái đau nhức, độ
15’, 20’ phải đổi thế ngồi. Thời Thiền trôi qua một cách nặng nề, cứ
mong sao cho mau chóng hết giờ…
Hoà Thượng sắp đi
Mỹ an cư kiết hạ 3 tháng tại đạo tràng chi nhánh bên đó. Trước khi đi,
Hoà Thượng có nhã ý muốn chúng tôi trình Pháp với ngài mỗi ngày. Và vì
Thầy T.T. Anh ngữ không được lưu loát lắm, nên Hoà Thượng cho gọi Sư Cô
Liên-Tường lên thông dịch. Sau khi Hoà Thượng đi Mỹ rồi, cô vẫn tiếp tục
thông dịch cho chúng tôi mỗi tuần 2 lần cho tới giờ phút chót. Đây quả
là một may mắn lớn cho chúng tôi.
Cô Liên Tường thuộc
hệ phái Khất Sĩ, đã tốt nghiệp tiến sĩ Phật-học tại Ấn Độ. Thay vì về
nước công tác Phật sự, cô lại qua đây tu tập đã hơn 2 năm nay. Tôi có
hỏi: sao học xong không về nước nhận chức vụ, mà lại qua đây? Cô bảo: ở
tu một thời gian đã; chưa chứng đạt được cái gì, về nước rủi phiền não
ập đến, làm sao chống đỡ? Tôi thầm cảm phục cô đã khéo lựa chọn, vừa
biết học vừa biết tu. Nếu không có thực tu, ra làm việc đạo dễ đem phiền
não tới cho người khác lắm…
Tôi ở Kuti (thất)
số 51, giữa đường đi lên Thiền đường lớn trên đỉnh núi. Các Kuti đa phần
bằng nhau, diện tích độ 3m x 3m, có giường, 1 cái tủ nhỏ, 1 cái bàn thấp
và 1 vòi nước để đánh răng rửa mặt. Cũng có vài Kuti lớn hơn, được xây
khuất trên núi cao, đa phần là của các vị có hảo tâm, xây cất cúng
dường, hoặc mỗi năm chỉ về tu vài tháng thôi.
Khí hậu rất tốt,
mát. Ban đêm có khi xuống còn 15, 18 độ C. Chỉ hơi phiền là nhà cửa ở
Myanmar trên 90% là lợp bằng tôn; mà ánh nắng ở đây thật là chói chan
gay gắt; bị các mái tôn dội lại, hắt hơi nóng vào, chịu không nỗi. Mồ
hôi ra nhuể nhại, mỗi ngày phải thay vài ba cái áo may-dô. Ban ngày nóng
bức nhưng từ 5 giờ chiều bắt đầu mát. (Nếu nhà cửa ở đây được lợp bằng
ngói như ở Việt Nam, thì sống thoải mái lắm…). Ở đây một năm có 3 mùa,
mùa nắng từ tháng 2 đến cuối tháng 5, mùa mưa từ tháng 6 đến cuối tháng
9 và mùa lạnh từ tháng 10 đến cuối tháng 1. Tuy nhiên thời tiết có thể
thay đổi xê dịch, như chúng tôi đang ở vào mùa nắng cuối tháng 4 thế mà
đã bắt đầu vào mưa.
Có một điều tôi cho
là trùng hợp rất ngẫu nhiên. Cái sân nhỏ xung quanh thất tôi ở -mà tôi
có bổn phận quét dọn sạch mỗi ngày- rể cây trồi lên chắn lối, chạy ngang
dọc lung tung, làm trở ngại cho việc quét lá, mất nhiều thì giờ rất bực
mình. Những rể cây nằm ngang dọc nầy cũng giống như đầu óc suy nghĩ rối
bời chằng chịt của tôi hiện giờ. Tôi liên tưởng đến bài Pháp Tảo Địa Đức
Phật đã dạy cho người đệ tử hay quên, tâm trí không được định. Rác là
những phiền não, vọng niệm. Quét rác là quét đi những phiền não. Người
ta quét độ 15’ là xong, còn tôi phải mất gấp đôi thời gian. Mỗi lần cầm
cây chổi, nhìn những rể cây chạy ngang dọc, tôi lại bực mình. Tôi không
biết phải làm sao quét cho sạch, nhanh. Sao mình „xui“ quá, ở trúng cái
thất „trời ơi“ thế nầy? Phải làm sao? Đây là một bài học rất tốt cho
tôi. Tôi suy nghĩ mãi, cuối cùng cũng tìm ra được một phương án để giải
quyết vấn đề nầy: thay vì quét, tôi ngồi nhặt từng chiếc lá bỏ vào thùng
rồi đem đi đổ. Vừa sạch, vừa gọn nhanh, lại đở bực mình. Nhưng… hãy coi
chừng! Đang ngồi nhặt từng chiếc lá bỏ vô thùng, tôi bỗng giựt mình. Tay
tôi vừa chạm phải vật gì mềm mềm, trơn trơn, ướt ướt. Tim tôi đập mạnh.
Tôi giựt tay lại nhanh, thảy vội chiếc lá vừa nhặt, trố mắt nhìn kỹ
trước mặt. Một chú nhái màu xanh đậm, da trơn láng đang nằm thu mình núp
trong kẻ đá nhìn ra. Hú hồn! Hình như chú đã „cư ngụ“ ở đó từ lâu, dưới
chiếc lá khô. Nhìn chú tôi đỡ sợ hãi nhưng cũng một lác sau mới lấy lại
được bình tĩnh. May quá, chỉ một chú nhái, rủi một chú rắn hay rít thì
sao? Thì ra nhặt lá –hay nhặt những phiền não- không phải là dễ. Nhất là
đối với những phiền não lâu đời, thâm căn cố đế nằm sâu che khuất, nguỵ
trang khéo léo bằng mọi cách…, nếu không cẩn thận sẽ rất nguy hiểm…
Chiều hôm nay trời
chuyển mưa thật lâu. Mây đen ùn ùn kéo đến, gió thổi tứ tung, sấm chớp
gầm gừ suốt buổi. Đến sẩm tối mới bắt đầu mưa, trận mưa đầu tiên trong
mùa. Những hạt mưa nặng hạt rơi lốp đốp rào rạt trên mái tôn, rả rích
kéo dài suốt đêm. Điện cúp từ lâu. Tất cả chìm trong bóng đen như mực.
Tôi nằm nghe mưa rơi nỉ non buồn bã, nghĩ về cuộc đời lang bạc. Ngọn gió
nào đã mang tôi đến đây? Thật là một sự bất ngờ, không định trước. Tôi
nghĩ đến những người thân, anh chị em, cha mẹ... Má tôi, một người đàn
bà hiền thục, suốt đời chỉ biết gầy tạo sự nghiệp cho chồng con; đã lìa
nơi thôn dã, từ bỏ nếp sống thanh bần ra thành phố theo nhiệm sở của cha
tôi. Từ đó, chúng tôi cũng xa dần những điệu ru ngày nào người đã thường
ru chúng tôi vào mộng:
Ầu ơ…
Chiều chiều ra đứng ngã sau,
nhớ về quê mẹ… à… ruột đau… chín chiều
Ầu ơ…
Làm trai cho đáng
nên trai,
Xuống đông đông tịnh…à…lên đoài...à… đoài… ư…
yên
Ầu ơ…
Công cha như núi Thái Sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy… ư… ra
một lòng thờ mẹ kính cha
cho tròn chữ hiếu… à… mới là… đạo…ư… con…
…
Có lẽ nhờ những điệu
ru đó (hay là do „chủng tử“ của cha tôi?) mà anh chị em chúng tôi đều có
một chút vốn liếng về âm nhạc. Bài hát một thời vẫn còn vang vọng trong
tôi:
Ngày
còn thơ nằm trên võng đưa mơ màng,
lòng hằng mơ bao nhiêu giấc mơ huy hoàng
cuộc sống êm
trôi, từng cánh hoa đời, sắc màu thắm tươi…
Mẹ hiền xưa ngày
nay đã xa xôi rồi,
lời mẹ ru khi
xưa vẫn nghe muôn đời…
nhịp võng ngày
xanh
còn thắm lòng
tôi… (2)
Tôi nhớ đến cha tôi,
người suốt đời gương mẫu, tận tuỵ trong công việc tại nhiệm sở, lúc nào
cũng nghiêm nghị không một lời dởn đùa với các con; đến chị em tôi, những
người thân và những người thương. Tôi đã tạo ra những lỗi lầm, làm khổ rất
nhiều người. Tôi vốn là một đứa con ngỗ nghịch bất hiếu, một người thân
tồi. Giờ đây tôi rất ăn năn hối hận. Tôi chắp tay, xin được sám hối. Hãy
tha thứ cho tôi những lầm lỗi dại khờ! Cha mẹ nay không còn để cho con
được săn sóc hầu hạ; các chị em tôi mỗi người mỗi ngã, không còn trong một
mái nhà êm ấm như xưa để tôi có thể trao những cử chỉ dịu dàng, những lời
êm dịu. Thời gian ơi, làm sao quay trở lại thủa ấu thơ, nơi những người
thương yêu đang quây quần dưới mái nhà êm ấm! Trong một góc rừng hẻo
lánh cô quạnh của xứ Miến Điện huyền bí, tâm tôi đang thổn thức hướng về
những người thân…
Trời càng về khuya
càng lạnh, tôi choàng dậy lấy thêm đồ ấm ra mặc. Cái lạnh của đêm trường
làm cho lòng tôi se lại. Đâu đây vọng lại vài tiếng kắc kè như nguyền rủa
oán trách cuộc đời đen bạc: „đách cần, đách cần…“, sau một hồi nghiến
răng dài, làm tôi chạnh nghĩ đến những mãnh đời lang bạt, thiếu thốn,
nghèo khổ, đang co ro trằn trọc trong đêm trường, chờ cho trời sáng để bắt
đầu một ngày lao động mệt nhọc mới. Tiếng con thằng lằn chắp miệng ngậm
ngùi… Tôi thắp ngọn nến, đọc tiếp cuốn Khảo Nghiệm Duy Thức Học. Vâng,
cuộc đời chẳng qua là những chuổi dài nhân quả nghiệp báo. Chúng ta đã
trôi lăn từ bao nhiêu kiếp và sẽ còn mãi đến bao giờ? Vạn vật và thế giới
là những ảnh tử của thế giới Chân Như, ảnh hiện qua lớp màng vô minh
nghiệp tướng (3). Tôi đang cố sức trở về lại nơi chốn từ đó tôi đã xuất
thân …
Có một buổi sáng
tôi ngồi thiền không yên. Lúc xả thiền, mặt mày xây xẩm, tái xanh, phải
ngồi lại nghỉ một lúc lâu. Buổi trưa tôi cố gắng ăn nhưng nuốt không vô.
Chiều lại, bị ói mữa. Hai Thầy hàng xóm chạy qua đở tôi lên giường. Độ
15’ sau có Thầy T. Trí và T. Lưu lại, cạo gió và giác hơi cho tôi. Thấy
tôi mữa, Thầy bảo tôi uống nước muối pha loãng, và tôi lại mữa thêm một
trận nữa; cơ thể mệt đừ suốt tuần lễ sau đó. Tôi nhịn đói ít ngày để chữa
bệnh, thanh lọc cơ thể…
Năm ngày tết tại Miến
Điện (từ 13-4 đến17-4-06) Trung Tâm lại đón nhận một số lượng Phật tử
khá đông, có ngày lên đến cả ngàn người. Một số tham quan và số khác đến
tu học; đa phần là những người trẻ, từ những thành phố lân cận, mặt mày
trông sáng sủa, khác với dân địa phương. Đó là tục lệ của dân Miến. Ngày
Tết, ngày nghỉ, họ vào chùa tu (còn dân mình, những ngày nghỉ họ làm gì
?!).
Thiền đường lớn
trên đỉnh núi cao tu bổ tạm xong, được xử dụng để tiếp đón số lượng người
đến tu tập đông đảo đó. Họ ngồi đầy cả thiền đường. Tất cả đều yên lặng
không một lời nói. Từ ban-công tầng hai của Thiền đường tôi được ngắm cảnh
mặt trời lặn đẹp tuyệt vời, với dòng sông bạc nhấp nhô phía dưới; bên
trên, một quả cầu đỏ tươi đang lần lần chìm xuống sau dãy núi lam xa tít;
trên nền trời là những tia ráng đủ màu sắc và núi rừng bao la một màu
xanh thẩm bao quanh.
Thật là một cảnh
đẹp thần tiên!...
„ Tôi qua đây đã
được hơn 2 năm rồi. Lúc đầu chỉ định qua tu tập vài tháng rồi về, đã tu
ở Shwe Min (Trung Tâm Siêu-Minh) tại thủ đô Yangon 6 tháng, sau mới lên
đây. Thấy người ta tu hành đàng hoàng, giới đức trang nghiêm, đạo tràng
thanh tịnh, tôi thích quá. Tôi đã suy nghĩ, dằn vặt rất nhiều, đến nỗi
phát bệnh. Không lẽ mình cứ phí bỏ cuộc đời tu hành như trước đây mãi
sao? 16 năm rồi, đã quá đủ! Và tôi đã đi đến quyết định, bắt đầu làm lại
từ đầu.Tôi đã xin thọ giới lại, đổi màu y, chuyển qua Nam Tông. Chuyến
về Việt Nam lần đầu, tôi đã mặc lại chiếc áo tràng nâu; khi qua lại tôi
cởi chiếc áo tràng ra, thay y Nam Tông vào. Nhưng sau đó tôi bị dằn vặt
vì nếu làm vậy là không thành thật với chính mình. Nên lần về sau tôi
không còn đổi màu áo nữa“…
Người tu sĩ trẻ
trên dưới 40 ngồi đối diện với tôi, người nhỏ thó, gương mặt đăm chiêu,
đôi mắt sáng, giọng nói nhẹ nhàng, từ tốn. Tôi ngồi nghe anh tâm sự.
Từng lời nghẹn ngào phát ra tự đáy lòng sâu thẳm. Tôi thông cảm với anh,
anh rất có lý trong sự lựa chọn đó; nhưng lòng không khỏi dằn vặt xót
xa...Trên đời nầy có những cái đẹp, mỗi địa phương đều có một sắc thái,
mỗi truyền thống đều có cái hay riêng. Mình đi là để học hỏi những cái
hay, cái tinh-hoa của người để về làm giàu, bổ túc những khiếm
khuyết của truyền thống mình. Phật giáo có nhiều truyền thống, truyền
thống Trung Quốc, truyền thống Tây Tạng, truyền thống Nam Tông. Việt
Nam, Nhật Bản, Đại Hàn theo truyền thống Trung-Quốc. Thầy tổ chúng ta
đều xuất thân tại đó. Tôi đã đi nhiều nơi, trong đó có Trung-Quốc,
Nhật-Bản, Thái-Lan, Ấn-Độ…; thấy không nơi nào có nền văn hoá cao bằng
Trung Quốc. Dĩ nhiên là hiện nay có nhiều vấn
đề. Trong một bài giảng tại Việt Nam trong chuyến về nước vừa
rồi, H.T. Nhất Hạnh cũng có đề cập đến vấn đề nầy (4). Trước đây Thái Hư
đại sư đã làm cuộc cách mạng canh tân Phật giáo, nhưng không thành công.
Nếu ngài có cơ duyên qua đây tham cứu, chắc là vấn đề đã khác… (nếu có
dịp, tôi sẽ đề cập đến vấn đề nầy sau).
Quả thật đạo tràng
ở đây thanh tịnh thật. Mọi người đều cao ráo, mặt mày sáng sủa, trầm
tĩnh, lúc nào cũng như nở nụ cười. Họ yên lặng, để tâm vào việc tu tập,
không nói năng ồn ào tán loạn. Họ đắp chỉ một màu y, màu gạch đậm. Trông
họ hình như đã chứng được cái gì rồi. Dự lưu? A La Hán? Trung Tâm chiếm
hữu cả một khu rừng núi to lớn. Có hai „xóm“, xóm trên và xóm dưới, cách
nhau chừng 2 Km. Xóm trên nằm ở trong rừng, dành cho chư Tăng, khoảng độ
500 vị; xóm dưới dành cho các tu nữ, độ trên 300 người; và độ vài chục
vị cư sĩ (Ở Miến và các nước Nam Tông khác không có Tỳ Kheo Ni, chỉ có
các Tu Nữ thọ trì 8 giới Bát Quan Trai mà thôi).
Thời khoá biểu hằng
ngày như sau:
3g30 sáng
: thức dậy
4g00-5g30 : ngồi thiền
6g00 : ăn sáng (và sau đó làm vệ sinh, quét dọn, giặt
rửa)
7g30-9g00 : ngồi thiền
9g00-11g00 : trình Pháp
11g : quá đường (ăn trưa, dưới hình thức khất thực)
13g00-14g30: ngồi thiền
14g30-15g30: thiền hành
15g30-17g30 : ngồi thiền
17g00-18g00: trình Pháp hoặc thiền hành
18g00-19g30: nghe giảng Pháp hoặc nghe băng (bằng tiếng Miến)
19g30-21g00: ngồi thiền
Một ngày tổng cộng
5 thời ngồi Thiền, vị chi là 7 tiếng rưởi. Pháp môn tu ở đây –cũng như
hầu hết các nước Nam Tông- là thiền Tứ Niệm Xứ và Vipassana. Tứ Niệm Xứ
thì lấy niệm thân làm chính, căn cứ theo kinh Quán Niệm Hơi Thở (tức An
Bang Thủ Ý/ Anapanasati). Kinh nầy được Đức Phật dạy cho các Tỳ Kheo để
tu tập Thiền định:
…“Thở vào một hơi
dài, vị ấy biết “ta đang thở vào một hơi dài”;
Thở ra một hơi dài,
vị ấy biết “ta đang thở ra một hơi dài”;
Thở vào một hơi
ngắn, vị ấy biết “ta đang thở vào một hơi ngắn”;
Thở ra một hơi
ngắn, vị ấy biết “ta đang thở ra một hơi ngắn”;
“Cảm giác toàn thân
hơi thở, ta sẽ thở vào”, vị ấy tập như vậy;
“Cảm giác toàn thân
hơi thở, ta sẽ thở ra”, vị ấy tập như vậy;
“An tịnh thân hơi
thở, ta sẽ thở vào”, vị ấy tập như vậy;
“An tịnh thân hơi
thở, ta sẽ thở ra”, vị ấy tập như vậy…
……. (5).
Làng Mai cũng lấy
kinh nầy làm căn bản cho việc tu tập chánh niệm. Hoà Thượng Nhất Hạnh đã
khai triển ra thành một bài kệ: