Trong một vài trường hợp sự tiệm tiến không thấy rõ
mà giác ngộ lại quá đột ngột. Therikaa giác ngộ khi nhìn những ngọn
rau mà cô đang nấu trên bếp.[31] Lúc đó cô chỉ là một cư sĩ tại gia với
tất cả những công việc bếp núc nội trợ. Nhưng đột nhiên cô giác ngộ.
Một vị vua của Vaaraanasii giác ngộ khi nhìn những chiếc vòng lắc nhịp
nhàng trên tay của hoàng hậu khi bà đang nghiền trầm để làm bột thơm.[32]
Vị vua này chưa một lần bước đến thiền đường trước khi trở thành
bậc giác ngộ, và mặc dầu ở ngài không hề có tiệm tiến, sự đốn ngộ
của ngài vẫn là một sự giác ngộ hoàn toàn.
Tiệm ngộ hay đốn ngộ cũng là một vấn đề quan trọng
trong thiền tông. Dòng thiền của miền Nam Trung Quốc được gọi là "Đốn"
trong khi của miền Bắc là "Tiệm." Kinh "Pháp Bảo Đàn" của
thiền tông giải thích hai khía cạnh, đốn và ngộ là không khác: "không
có sự khác biệt giữa đốn ngộ và tiệm ngộ. Tuy nhiên, có người thông
minh và có người ngu độn. Những người si mê hiểu từ từ còn những
sáng suốt thì hiểu ngay."[33] Phật giáo Nguyên thủy cũng có cùng
quan điểm. Không có gì khác nhau giữa đốn và tiệm, cả hai đều có
cùng một mục đích. Không những cả hai khía cạnh này mà ngay cả sự kết
hợp của chúng cũng tìm thấy trong Phật giáo Nguyên thủy, và rõ ràng với
thiền quán Vipassanaa nó đã được đem sang Trung Quốc. Hơn nữa, đốn
ngộ không chỉ xuất phát từ Trung Quốc như Suzuki đã lầm nghĩ.[34]
D. NGỘ (SATORI) VÀ CÔNG ÁN (KOAN)
Một cuộc nói chuyện, một câu hỏi hay một sự kiện khai
mở cho tâm giác ngộ được gọi là công án trong thiền tông. Những cuộc
nói chuyện của Đức Phật đều là những ví dụ điển hình cho công án
bởi vì hầu hết các cuộc nói chuyện đó đều kết thúc bằng việc khai
ngộ của người nghe. Tam tạng và chú giải Pali có rất nhiều những sự
kiện như vậy. Sau đây là những ví dụ của công án từ cả hai truyền
thống.
Thiền tông: I-San hỏi Kyogen, "Ngươi có thể cho ta biết
một chữ từ ngươi trước khi ngươi ra khỏi bụng mẹ, trước khi ngươi
biết phân biệt được chăng?"[35]
Phật giáo Nguyên thủy: Trưởng lão Siputta hỏi Kundakalesa,
"Cái gì là một?"[36]
Mặc dầu cả hai câu hỏi đều dường như làm cho rối
trí, nhưng ngược lại cả hai đều đưa đến giác ngộ.
Thiền tông: Một hôm khi Kyogen đang quét sân, một viên sỏi
đụng vào khóm tre phát ra một tiếng động và chính tiếng động ấy đã
khai mở cho tâm trí của Kyogen.[37]
Phật giáo Nguyên thủy: Một hôm khi Patacara đang xối nước
rửa chân, cô quan sát nước chảy trên mặt đất và thấm dần vào lòng
đất. Điều này đã khai mở cho tâm cô giác ngộ.[38]
Một sự kiện đơn giản như tiếng vang của viên sỏi hay
hiện tượng nước thấm vào lòng đất đôi lúc có khả năng giúp cho một
người thấy rõ thực tánh của tất cả các pháp.
Thiền tông: Khi trời tối Ryutan thắp một ngọn nến cho
Tokusan nhưng khi Tokusan định cầm lấy thì Ryutan thổi tắt nó đi. Bỗng
nhiên Tokusan hoát ngộ.[39]
Phật giáo Nguyên thủy: Một hôm đến phiên Uppalavanna quét
dọn giảng đường, sau khi đã làm xong công việc cô đứng một lát để
ngắm ngọn đèn cô cừa mới thắp. Ngọn đèn này đã thắp sáng ngọn đèn
bên trong cô và cô trở thành một vị A-la-hán.[40]
Khoảnh khắc giác ngộ có khi mang đôi chút tính bi kịch.
Sau đây là hai ví dụ.
Thiền tông: Jojaza hỏi Rinzai: "Cái gì là đại ý của
Phật pháp?" Rinzai nhổm dậy, nắm lấy Jojaza, tát tai và đẩy ông ra
ngoài. Jojaza đứng yên. Một vị tăng đứng cạnh bảo, "Jojaza, sao không
lạy tạ đi?" Khi Jojaza cúi lạy, bỗng nhiên ông hoát ngộ.[41]
Phật giáo Nguyên thủy: Một hôm, trưởng lão ni Dhammaa
đang trên đường trở về Ni viện, do quá gìa yếu bà té ngã giữa đường.
Quan sát cái té một lát bà đắc quả A-la-hán.[42]
Những ví dụ trên đủ để chứng minh rằng ngộ trong thiền
tông và trong Phật giáo Nguyên thủy không đòi hỏi một phương pháp nhất
định và không có một lối hành thiền tiêu biểu nào để đạt được
giác ngộ, mà thay đổi tùy theo từng người. Tuy nhiên dần dần các vị
thiền sư trong thiền tông cũng như trong Phật giáo Nguyên thủy đều vận
dụng một vài cách thức hành thiền như đếm hơi thở hay tập trung vào
ánh sáng một ngọn nến. Những điều này không cần phải giải thích ở
đây.
E. CÁCH DIỄN ĐẠT
Bởi vì mục đích của Phật giáo Nguyên thủy và của thiền
tông là giác ngộ nên hành giả của cả hai truyền thống đều không coi
trọng những pháp tu có tính cách bề ngoài như thờ cúng tượng Phật. Mặc
dầu Đại thừa phát triển giáo lý tam thân (Trikaaya)[43] từ Phật
thân, những người theo Phật giáo Nguyên thủy tin rằng thân Phật cũng là
thân người, và nhìn ngắm, chiêm ngưỡng hay lễ bái thân Phật ngay cả
khi Đức Phật còn tại thế cũng không thể đem lại sự giác ngộ. Khi
tôn giả Vakkali rất thích nhìn ngắm thân Phật, Đức Phật khuyên Vakkali
như sau: "Có ích gì cho ông, này Vakkali, cái thân nhơ bẩn này mà ông
nhìn ngắm? Ai thấy pháp, người đó thấy Như lai, vì thấy pháp tức là
thấy Như lai, thấy Như lai tức là thấy pháp."[44]
Chính giáo pháp này của Phật giáo Nguyên thủy đã được
Bodhidharma đem qua Trung Quốc. Và lời khuyên sau đây của Bodhidharma gợi lại
những gì được dạy cho Vakkali: "Nếu không nhìn vào tự tánh thì
niệm Phật cũng chẳng ích gì".[45]
Nếu thân Phật lúc còn sống mà còn vô ích cho sự giác ngộ
thì tượng Phật gỗ khỏi cần phải bàn. Các bộ lục chứng tỏ rằng
các vị thiền sư hiểu điều này một cách đúng đắn.[46] Tanakaa, một
thiền sư, đã hùng hồn phủ định giá trị của tượng Phật khi chất lửa
đốt tượng Phật bằng gỗ để tìm xá lợi (sariira) trong đống tro
tàn.[47]
Những câu nói của các vị thiền sư bằng văn vần được
gọi là kệ (gaathaa). Điều này nhắc chúng ta nhớ đến "Trưởng
Lão Tăng Kệ" (Theragaathaa), một tuyển tập các bài kệ của các
vị Trưởng lão và là một phần của Tam tạng Pali. "Trưởng Lão Tăng
Kệ" cũng như các bài kệ của thiền tông đều diễn tả niềm hỷ lạc
trong kinh nghiệm tâm linh, cũng như niềm vui trước cảnh đẹp thiên nhiên
xung quanh.
F. ĐỜI SỐNG CỦA CÁC VỊ TU SĨ
Trên nguyên tắc đời sống của một vị thiền sư giống
với đời sống của một vị sư Nguyên thủy trong một túp lều trong rừng
hay ở một trung tâm Vipassanaa. Cần nhấn mạnh ở đây rằng đời sống
của một vị sư ở trong rừng hay ở một trung tâm Vipassanaa ở các
nứơc Phật giáo Nguyên thủy, như Sri Lanka chẳng hạn, khác hẳn với đời
sống của các vị sư ở trong chùa. Những vị thiền sư trong cả hai truyền
thống đều là những tấm gương sáng cho sự thanh bạch và giản dị; họ
sống độc thân và cạo tóc. Mỗi vị chỉ có ba y, bình bát, dao cạo và
những vật dụng thiết yếu nhất có thể mang theo trong túi khi đi nơi khác.
Có những vị sư sống trong thiền viện. Thức ăn của họ
có thể được chuẩn bị ngay trong thiền viện hay được thí chủ cúng dường.
Khi tiếng chuông báo hiệu giờ thọ trai, chư tăng mang bình bát xếp hàng một
theo thứ tự hạ lạp, ngồi xuống trên những cái ghế thấp trong trai đường
và thọ trai. Sau khi tụng vài bài kinh chúc phúc họ thọ thực trong im lặng.
Trong suốt bữa ăn không hề có tiếng nói chuyện, chỉ ra dấu khi cần thiết.
Khi bữa ăn kết thúc quý sư lại tụng thêm vài bài kinh chúc phúc và mang
bình bát rời khỏi trai đường. Chư tăng không dùng cơm chiều. Đôi lúc họ
làm công việc quét dọn thiền viện, hành thiền riêng lẻ, hành thiền tập
thể hay làm một số công việc được giao.
Vị thầy (viện chủ) rất được mọi người trong thiền
viện cung kính. Có thể mỗi ngày mỗi vị sư và mỗi cư sĩ trong thiền viện
đều được thầy cho tham vấn. Trong những buổi tham vấn này vị thầy thường
hướng dẫn cho các đệ tử những điều cần thiết trong việc hành thiền.
Ngoài những hoạt động hàng ngày nói trên, còn có những
lần thuyết giảng hay những khóa thiền đặc biệt, như kỳ nhập hạ,
được tổ chức trong thiền viện. Như vậy mục đích và lối sống trong
một thiền viện của thiền tông rất giống với một thiền viện của Phật
giáo Nguyên thủy.
KẾT LUẬN
Những điều vừa được đề cập trong các phần trên chứng
minh rằng thiền tông là một nhánh của Phật giáo Nguyên thủy trong các nước
theo Phật giáo Đại thừa. Những đặc điểm của thiền tông trên căn bản
được tìm thấy không phải trong Phật giáo Đại thừa mà trong Phật giáo
Nguyên thủy. Trong thời kỳ lịch sử của các bậc tiền bối của Phật
giáo Nguyên thủy ở Nam Aᮬ Bodhidharma đã đi từ Nam Ấn đến Trung Quốc
để truyền bá nền Phật giáo chính thống này. Thiền minh sát Vipassanaa
trong Phật giáo Nguyên thủy chính là thiền trong thiền tông và giác ngộ
trong Phật giáo Nguyên thủy chính là ngộ (Satori) trong thiền tông. Tiệm
ngộ và đốn ngộ đều tìm thấy trong cả hai truyền thống. Cách diễn đạt
của những bậc giác ngộ cũng rất giống nhau. Ngay cả nếp sinh hoạt của
hành giả trong cả hai truyền thống cũng tương tự. Vì vậy chừng nào mà
Phật giáo Nguyên thủy còn bị lãng quên thì nguồn gốc của thiền tông vẫn
còn chưa sáng tỏ.
***
(Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Zen is the
Theravaada Branch of Buddhism in Mahaayana Countries" của Shanta Ratnayaka,
đăng trong cuốn Buddhist Studies in Honour of Walpola Rahula, Trường Đại
Học Georgia, Athens, USA, các trang 223-33).
CHÚ THÍCH
[1] D.T. Suzuki, Shin Buddhism (New York: Harper and Row, 1970),
p.90.
[2] Alfred Bloom, Shiran's Gospel of Pure Grace (Tucson: The University
of Arizona Press, 1965), p. 45.
[3] D.T Suzuki, Essays in Zen Buddhism, (New York: Harper and Brothers,
1949), 1st series, p.242.
[4] Ibid, p.171
[5] Một số bài kinh cầu an và chúc phúc được gọi là
Kinh Pirit.
[6] Philip Kapleau, The Three Pillars of Zen (New York: Harper and Row,
1966), p. 246
[7] D.T Suzuki, Essays in Zen Buddhism (2nd edition,; London: The
Buddhist Society, 1958), Third series, p. 164
[8] Itivuttaka, ed. by Ernst Windisch (2nd edition, London: Pali Text
Society, 1948) pp. 78-79
[9] Apadaana-atthakathaa, ed. by C.E. Godakumbura (London: Pali Text
Society, 1954), p. 16
[10] Mahaanaama, The Mahaavamsa or the Great Chronicle of Ceylon, trs.
By Wilhelm Geiger (4th edition; Colombo: The Ceylon Government Publication Bureau, 1960),
p. 88
[11] R.D.M. Shaw, trans. and ed., The Blue Cliff Records, The Hekigan
Roku (London: Michael and Joseph, 1961), p. 171
[12] Suzuki, Essays I, p. 177
[13] Winston L. King, "A Comparison of Theravada and Zen Buddhist
Meditation Methods and Goals," History of Religions, IX, 4, (May 1970), p. 305
[14] B.C. Law, Buddhaghosa, (Nugegoda, Sri Lanka: Spartan press, 1963),
p. 29
[15] H. Dhammaratana, Buddhism in South India (Kandy, Sri Lanka:
Buddhist Publication Society, 1968), pp. 6-45
[16] Xem chú thích 12
[17] Lankaavataara Sutra, viết bằng ngôn ngữ Sanskrit, không
có trong Tam Tạng Pali, nhưng cho rằng được Đức Phật thuyết cho vua của
xứ Sri Lanka, một nước theo Phật giáo Nguyên thủy từ thế kỷ III trước
công nguyên, và Phật tử ở Sri Lanka tin rằng Đức Phật đã viếng thăm xứ
sở của họ ba lần.
[18] Mahaanaama, Mahaavamsa, pp. 16-17
[19] The Questions of King Milinda, Part I, trans. By T.W. Rhys Davids,
The Sacred Book of the East, Vol. XXXV (New York: Dover Publications, Inc. 1963), pp..
28-29
[20] Buddha, Visuddhimagga (Sri Lanka: Vidyasadhaka press, 1914), p.70
[21] Shaw, Blue Cliff, p. 267
[22] Suzuki, Essays I, p. 227
[23] "Yato đaanam udapaadi - pađđacakkhu anuttaram Yassa
cakkhussa patilaabhaa sabbadukkhaa pamuccataati", Itivuttaka, p. 52
[24] D.T. Suzuki, Studies in Zen, London: Buddhist Society, 1955), p.
120
[25] Suzuki, Essays III, p. 36
[26] Walpola Rahula, What the Buddha Taught, (New York, Grove Press,
1962), p. 68
[27] Suzuki, Studies, p. 163
[28] Kapleau, Three Pillars, p.46
[29] Hui-neng, The Platform Sutra of the Sixth Patriarch, trans. by
Phillip B. Yampolsky (New York: Colombia University press, 1967), p. 140
[30] Buddhaghosa, Dhammapada-atthakathaa I, ed. by Kahawe Ratanasara,
Simon Hewavitarana Bequest Series, Vol. V (Colombo: The Tripitaka Publication Press,
1919), p. 6
[31] Dhammapaala, Paramatthadaapanaa or the Commentary of the
Therigaathaa, ed. by B. Dewarakkhita, Simon Hewavitarana Bequest Series, Vol. III,
(Colombo: The Tripitaka Publication Press, 1918), pp. 4-5
[32] Buddhaghosa, Paramatthajotikaa or the Commentary to the
Suttanipaata, ed. by Sumangala, Simon Hewavitarana Bequest Series, Vol. VII (Colombo: The
Tripitaka Publication Press, 1920), p. 64
[33] Hui-neng, The Platform Scripture, trans. by Wing -Tsit-Chan, Asian
Institute Translations, No. 3 (New York: "St. John's University Press, 1963), p. 49
[34] Suzuki, Essays III, p. 34
[35] Suzuki, Studies, p. 161
[36] Dhammapala, Commentary of the Therigaathaa, p. 81
[37] Suzuki, Essays I, pp. 240-41
[38] Dhammapala, Commentary of the Therigaathaa, p. 89
[39] D.T. Suzuki, An Introduction to Zen Buddhism (New York: Grove
Press, 1964), p. 89
[40] Dhammapala, Commentary of the Therigaathaa, p. 150
[41] Shaw, Blue Cliff, p. 119
[42] Dhammapala, Commentary of the Therigaathaa, p. 18
[43] Kaaya và saraara đều có nghĩa là thân
[44] Psalms of the Early Buddhists, Part II, trans. by Mrs. Rhys David
(London: Pali Text Society, 1964), p. 198
[45] Suzuki, Essays I, p. 231
[46] Shaw, Blue Cliff, p. 287
[47] Suzuki, Essays I, p. 328