...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Công Án Thiền và Vấn Đề
Nhận Thức
- Đại-lãn
Khi chúng tôi đặt vấn đề này,
chúng tôi vẫn biết đây là một việc làm sai lầm ngốc nghếch; bởi vì
vấn đề này đối với Thiền Tông không can hệ gì. Hơn nữa, như chính
đức Phật đã dạy ngài Ma Ha Ca Diếp: "Ta có chánh pháp nhãn tạng,
diệu tâm Niết bàn, thực tướng vô tướng, nay trao lại cho Ma Ha Ca Diếp."(Ngẫu
kiến Đại Phạm Thiên vương vấn Phật quyết nghi kinh), và cho đến Bồ
Đề Đạt Ma khi mới sang Trung Quốc tuyên bố rằng: " Chỉ thẳng
tâm người thấy tánh thành Phật, chẳng lập văn tự, truyền riêng ngoài
giáo."(Huyết mạch luận trong Thiếu Thất lục môn). Rõ ràng đã
nêu Tông chỉ và sự kế thừa của Thiền tông như thế nào rồi. Nhưng
ở đây, chúng tôi vẫn đặt ra vì chúng có những nguyên nhân sâu xa, và cấp
bách của chúng.
Như chúng ta đã biết, hơn bốn thập kỷ qua phong trào học
Thiền, đã và đang phát triển mạnh trên toàn thế giới, nhằm đáp ứng
những nhu cầu cấp bách, do môi trường sống chung quanh đang tác động,
qua đó con người là nạn nhân chính do nền văn minh cơ khí vật chất hiện
đại mang lại. Chúng đã làm băng hoại tất cả mọi giá trị tinh thần,
kể cả những thành tựu về vật chất do chính chúng đẻ ra. Từ những
đòi hỏi đó, chỉ có Thiền mới đáp ứng và giải quyết một cách trực
tiếp, sự điều hòa cuộc sống thế giới, trong đó con người là yếu tố
cần và đủ cho mọi quyết định này, do đó Thiền học hiện đang là đối
tượng cần được phát triển mạnh. Ở đây, chính vì muốn có sự phát
triển mạnh này, nên Thiền đã trở thành đối tượng nhận thức tư duy
cho mọi người, và cũng từ đó chúng đẻ ra không ít, những sai lầm
trong phương pháp học cũng như trong việc thực hành do chính con người tạo
ra; mà cái hậu quả của chúng sẽ trở thành một tác dụng nguy hiểm, đối
với chính họ và những người đi sau.
Hiện tại Thiền đã trở thành một phong trào thời thượng,
để trang điểm cho một nội dung trống rỗng, mà con người đang đổ xô
chạy theo nó và, tự đánh mất chính mình. Đó là một hiện tượng suy đồi
của Thiền tông, chứ không phải là một sự phát triển; vì chúng đã phản
bội lại truyền thống và, sự kế thừa của Thiền tông mà chủ đích nhắm
đến của nó là: " Trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật, giáo
ngoại biệt truyền, bất lập văn tự."Với tinh thần này thì rõ
ràng những việc làm hiện tại của chúng ta, trong việc cố gắng đại chúng
hóa Thiền tông bằng cách bàn luận - giảng giải - định nghĩa - phân
tích Thiền như thế này, hay như thế kia qua những bộ luận dày cộm, với
mục đích là để cho mọi người cùng hiểu như chúng ta; hay bày ra những
trò hí luận ngoa ngôn xạo ngữ, nhằm trang điểm cho một thứ kiến thức
què quặt qua cửa miệng. Những việc làm này đối với Thiền tông chúng
không ăn nhập vào đâu cả, mà trái lại đối với Thiền chúng sẽ bị rơi
vào bệnh" Khẩu đầu Thiền," một con bệnh nguy hiểm, rất tối kỵ
đối với Thiền tông. Ở đây, họ đã biến Thiền tông thành một thứ
Thiền học bệnh hoạn, và đẩy chúng trở thành một thứ Thiền giáo
không hơn không kém, để từ đó họ mang chúng ra bàn luận mổ xẻ như một
đối tượng cần phải đạt đến và, cái tệ hại không thể tha thứ
được là, họ đã dùng những công án người xưa, đem ra giải phẩu phân
tích bàn luận, để chứng tõ cái sở học của họ.
Họ đâu biết rằng, việc bàn công án của họ, không những
không đem đến cho mọi người một sự đạt ngộ nào về Đạo cả, mà
ngược lại còn làm cho người ta xa lìa ngăn cách hơn; vì họ cứ tưởng
rằng: Lý Thiền lý Đạo là như thế này hay như thế kia, rồi an tâm cho rằng
mình đã đạt Đạo, đã đạt Thiền. Từ đó, chấp vào khái niệm ngôn từ
qua lời bàn của chúng ta, cho đó là Đạo là Thiền; thế là muôn kiếp
ngàn đời, họ bị chết chìm trong mớ khái niệm ngôn từ đó, làm sao
thoát ra được? Cho dù chúng ta nổ lực giảng giải phân tích đến chỗ kỳ
cùng của nó, và khiến cho mọi người hiểu được, thấy được đi
chăng nữa, thì cái hiểu và cái thấy này, vẫn là cái hiểu cái thấy về
một khái niệm biểu hiện cho một thực tại, mà chúng ta chưa được thấy
như thực chính nó. Do đó, cái hiểu và cái thấy này, vẫn ở trong vọng
thức điên đảo phân biệt; còn tự nó, lý Thiền lý Đạo vẫn ở ngoài
tầm tay và ngoài trí phân biệt của chúng ta.
Cái hiểu cái biết cái thấy ở đây, cũng giống như kiến
thức của bọn mù không hơn không kém. Vì kiến thức của bọn mù có được
về thế giới quanh họ, là nhờ vào những người sáng mắt, dẫn nói
phân biệt cho họ về những sự vật chung quanh, và nhờ đó họ mới có
những khái niệm tưởng tượng theo thế giới mù của họ về hình tượng
màu sắc v.v... Nhưng những kiến giải tri thức này, chỉ là những khái niệm
mườn tượng về sự vật chung quanh, chứ không phải chính như những sự
vật mà họ nhận thấy bằng mắt.
Cũng vậy, cái kiến thức của người chưa đạt Đạo
cũng giống như kiến thức của bọn mù. Vì cái sở đắc của họ nhờ vào
người đạt Đạo nói cho nghe, cho biết chứ không phải chính họ thấy.
Như trong kinh Viên Giác đức Phật dạy: "Người chưa ra khỏi luân hồi
mà nghĩ bàn về Viên Giác, thì tánh Viên Giác đó cũng trở thành luân hồi"(trang
64 kinh Viên Giác, H.T. Thiện Hoa dịch).
Từ những nhận thức sai lầm mà chúng ta không nhận ra đó,
đã đưa việc làm của chúng ta đến những hậu quả sau đây:
* Sẽ không có sự đạt ngộ về Đạo trong cách dùng kiến
giải do trí phân biệt mà bàn ngược bàn xuôi về công án Thiền.
* Biến Thiền tông thành Giáo tông.
* Biến những hoạt ngữ của công án Thiền trở thành tử
ngữ (giết chết công án Thiền).
* Làm mờ mắt thiên hạ bằng những lập luận hợp tình hợp
lý của kiến thức nhị nguyên về công án Thiền.
* Từ những sai lầm này đưa thiên hạ đến những sai lầm
khác.
* Chúng ta đã bị kiến giải tri thức đánh lừa, cứ tưởng
rằng những hiểu biết về pháp là do sự đạt ngộ hiển bày.
* Từ những sai lầm trên chúng ta đã phản bội lại chính
mình, đã phản bội lại chư vị Tổ sư, đã phản bội lại đức Phật.
Như vậy, công án Thiền không phải là một đối tượng
nhận thức, vì cứu cánh của chúng vượt lên trên ngôn ngữ chấp trước
của tri thức, đó là một cảnh giới mà kinh Bát Nhã gọi là" VÔ SỞ
ĐẮC," kinh Kim Cương gọi là"VÔ SỞ TRỤ," kinh Lăng Già gọi
là"CẢNH GIỚI CỦA THÁNH TRÍ TỰ CHỨNG."蠃ũng theo ý nghĩa tự chứng này, chúng tôi xin trích dẫn
một đoạn trong kinh Hoa Nghiêm:
"Thiện Tài đồng tử hỏi:
Môn giải thoát này làm sao hiện tiền? làm sao chứng đắc?
"Diệu Nguyệt trưởng giả đáp:
Một người thân chứng hiện tiền môn giải thoát này khi
nào người ấy khởi tâm Bát Nhã Ba La Mật và cực kỳ tương thuận; rồi
thì người ấy được chứng nhập trong tất cả những gì mà mình thấy
và hiểu.
"Thiện Tài đồng tử lại thưa:
Có phải do nghe những ngôn thuyết và chương cú về Bát
Nhã Ba La Mật mà được hiện chứng?
"Diệu Nguyệt đáp:
Không phải. Tại sao thế? Bỡi vì Bát Nhã Ba La Mật thấy
suốt thể tánh chân thật của các pháp mà hiện chứng vậy.
"Thiện Tài thưa:
Há không phải do nghe mà có tư duy, và do tư duy và biện luận
mà được thấy chân như là gì? Và há đây không phải là tự chứng ngộ?
"Diệu Nguyệt đáp:
Không phải vậy. Không hề do nghe và tư duy mà chứng ngộ
được. Này thiện nam tử, đối với nghĩa này ta phải lấy một thí dụ,
ngươi hãy lắng nghe!
"Thí như một sa mạc mênh mông không có suối và giếng,
vào mùa xuân hay mùa hạ khi trời nóng, có một người khách từ tây hướng
về đông mà đi, gặp một gã đàn ông từ phương đông đến, liền hỏi
gã:
"Tôi nay nóng và khát nước ghê gớm lắm; xin chỉ cho
tôi nơi nào có suối trong và bóng cây mát mẻ để tôi có thể uống nước
tắm mát, nghỉ ngơi và hoàn toàn tươi tỉnh lại?
"Gã đàn ông đó nghe theo lời yêu cầu, liền chỉ dẫn
cặn kẽ cho người khách rằng: Cứ tiếp tục đi về hướng đông, rồi sẽ
có con đường chia làm hai nẻo, nẻo phải và nẻo trái. Bạn hãy đi theo nẻo
bên phải và gắng sức mà đi tới chắc chắn bạn sẽ đến một nơi có
suối trong và bóng mát.
"Này Thiện nam tử, bây giờ ngươi có nghĩ rằng người
khách nóng khát, từ tây đến, khi nghe đến suối mát và những bóng cây
liền tư duy về việc đi tới đó càng nhanh càng tốt, người đó có thể
trừ được cơn khát và được mát mẻ chăng?
"Thiện Tài đáp:
Người ấy không thể làm thế được; bỡi vì người ấy
chỉ trừ được cơn khát và được mát mẻ khi nào theo lời chỉ dẫn của
kẻ kia mà đi ngay đến giòng suối và tắm ở đó.
"Diệu Nguyệt:
Này Thiện nam tử,
đối với Bồ tát cũng vậy, không phải chỉ do nghe, tư duy và huệ giải
mà có thể chứng nhập hết thảy pháp môn. Này Thiện nam tử, sa mạc chỉ
cho sanh tử; người khách đi từ tây chỉ cho các loại hữu tình; nóng bức
là tất cả những sự tướng mê hoặc; khát nước là tham ái; gã đàn
ông đi từ đông đến và biết rõ đường lối là Phật hay Bồ tát, an trụ
trong nhất thiết trí, các ngài đã thăm nhập chân tánh của các pháp và
thật nghĩa bình đẳng; giải trừ khát cháy và thoát khỏi nóng bức nhờ
uống giòng suối mát là chỉ cho sự chứng ngộ chân lý bỡi chính mình vậy."
"Lại nữa này thiện nam
tử, nay ta sẽ nói thí dụ khác cho ngươi nghe: Giả sử đức Như lai sống
giữa thế gian một kiếp nữa, ngài dùng đủ các thứ phương tiện, và những
ngôn từ thiện xảo, vì mọi người trong cõi đất mà nói về loại mật
hoa trên thế giới, đầy đủ các phẩm tính, hương vị ngọt ngào xúc chạm
mềm dịu; ngươi nghĩ sao? Những chúng sanh kia khi nghe lời nói của đức
Phật, tư duy về mật hoa, mà có thể nếm biết hương vị của nó chăng?
"Thiện Tài thưa:
Quả thật không thể.
"Diệu Nguyệt nói:
Cũng vậy không phải chỉ do nghe và tư duy không thôi mà
chúng ta có thể chứng nhập chân tánh của Bát Nhã Ba La Mật.
"Thiện Tài thưa:
Vậy thì bằng những ngôn từ xảo dịu và phương tiện khéo
léo nào mà Bồ tát có thể khiến cho hết thảy chúng sanh thấu hiểu được
chân thực của thực tại?
"Diệu Nguyệt nói:
Chân tánh của Bát Nhã Ba la Mật mà Bồ tát chứng được-đây
chính là nhân quyết định, từ đây khởi lên tất cả ngôn thuyết của Bồ
tát. Khi Bồ tát chứng được giải thoát này thì có thể dùng ngôn từ diễn
thuyết và phương tiện thiện xảo mà giảng nói."
Trong một đoạn khác.
"Thiện Tài hỏi:
Đâu là trú xứ của Bồ tát?
"Văn Thù Sư Lị đáp:
Tối thắng đệ nhất nghĩa là trú xứ của Bồ tát. Tại
sao? Vì Tối thắng đệ nhất nghĩa thì bất sanh bất diệt, bất thất bất
hoại, bất khứ bất lai, đây là tất cả những ngôn ngữ, ngôn thuyết
không vói tới được, không thể ghi dấu, không phải là sở tư của lý
luận và tư biện. Bản lai không có ngôn thuyết; thể tánh thì tịch tĩnh,
chỉ chứng bằng nội tâm của Thánh giả... (Thiền luận bộ trung của
Suzuki, Tuệ Sỹ dịch).
Lại nữa như bài kệ trong kinh Viên Giác, đức Phật dạy
ngài Kim Cang Tạng rằng:
- "Kim Cang Tạng nên biết
- Như lai tánh vắng lặng
- Chưa từng có chung thỉ
- Nếu dùng tâm luân hồi
- Suy nghĩ cảnh giới Phật
- Cảnh Phật thành luân hồi
- Phật tánh tuy sẵn có
- Phải tu mới hiển hiện
- Cũng như vàng sẵn có
- Phải lọc quặng mới thành
- Khi đã thành vàng y
- Không trở lại làm quặng
- Sanh tử và Niết bàn
- Phàm phu cùng chư Phật
- Thảy đều như hoa đớm
- Tâm suy nghĩ đã huyễn
- Nên lời nói cũng huyễn
- Làm sao nhập được chơn
- Nếu rõ được tâm này
- Mới cầu được Viên giác.
- (Kinh Viên Giác, H.T. Thiện Hoa dịch).
Qua những trích dẫn trên, chúng ta thấy được vai rò quan
trọng của việc chứng ngộ bằng những tâm linh cá biệt của mỗi người;
còn việc nghe biết học hỏi không thôi thì chúng ta không có cách chi để
thâm nhập vào giữa lòng chân tánh của thực tại; bỡi vì ngôn ngữ và lời
nói chúng chỉ có giá trị trên bình diện khái niệm và biểu tượng mà
thôi. Trong khi đó, cảnh giới tự chứng của Thiền tông vượt lên trên
ngôn ngữ chấp trước của tri thức do trí năng đẻ ra; hay cảnh giới này
cũng không thể dùng bất cứ phương pháp nào cho dù đó là những thứ
tình cảm uỷ mỵ thương yêu cảm thông để xoa dịu và ru ngủ cuộc sống,
bằng cách tạo ra một thứ hạnh phúc giả tạo, để đi đến cảnh giới
của Thiền được. Việc làm này cũng giống như gãi ngứa trên giày, dùng
đũa quơ trăng chứ có nhằm chi đến việc thấy tánh thành Phật! Cho nên
thường thường các vị Thiền sư trong khi dạy người, các ngài luôn luôn
đoạt hết mọi cơ hội có thể có, cho dù trong ý nghĩ tích tắc của người
hỏi. Ở đây mọi kiến giải đều bị thủ tiêu, và đặt người đối
thoại trước cuộc trắc nghiệm thử thách tâm linh; ngay tức khắc người
đối thoại có đốt cháy được công án hay không, thì qua lời nói cử chỉ
và hành động của người đối thoại các ngài biết ngay. Đây chúng ta
hãy xem ngài Lục Tổ dạy chúng:
"Một hôm ngài Huệ Năng bảo chúng rằng:
- Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên không chữ,
không lưng không mặt, các ngươi có biết không?
Thần Hội bước ra thưa:
- Đó là bản nguyên của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội.
Ngài Huệ Năng dạy:
- Ta đã nói với con rằng không tên không chữ, sao con còn
gọi là bản nguyên Phật tánh! Như vậy, con chỉ lấy cỏ che đầu mà đi,
cũng chỉ là một tông đồ biết kiến giải giỏi mà thôi (Pháp Bảo Đàn)."
Qua công án này, chúng ta thấy ngôn ngữ của kiến giải
tri thức, đã bị thất bại trước sự mô tả một vật thế này hay như
thế nọ, trong khi đó chúng không can hệ chi đến vật kia.
Đây chúng ta xem Thiền sư Bổn Tịnh dạy Minh Chí:
"Nếu đại đức hiểu bằng vào thấy-nghe-hiểu biết
thì cùng với Đạo khác xa, tức là người cầu thấy nghe hiểu biết chứ
không phải người cầu Đạo. Kinh dạy: Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ý. Sáu căn còn không, vậy thì thấy nghe hiểu biết nương vào đâu mà
lập? Cùng tột nguồn gốc chẳng có chỗ nào còn tâm? (Thiền sư Trung
hoa)."
Cái sai lầm trầm trọng của chúng ta là chấp tướng cùng
phá tướng, vì Đạo-Thiền xưa nay không có tướng mạo. Nếu dùng kiến-văn-giác-tri
(thấy nghe hiểu biết) để cầu tìm tướng mạo của Đạo-Thiền, và chấp
vào tướng thấy nghe hiểu biết đó cho là Đạo là Thiền, thì đó là một
điều sai lầm. Chấp tướng còn sai lầm huống chi là phá tướng, vì các
pháp xưa nay "tánh chúng vốn Không, tướng chúng lại như huyễn."
Vậy thì chúng ta căn cứ vào đâu để chấp và để phá. Bỡi vậy, đối
với Đạo, đối với Thiền nếu chúng ta dùng tướng mạo ngôn ngữ văn tự,
thấy nghe hiểu biết để tìm cầu đạt đến, thì chắc chắn không bao giờ
đạt được.
Và đây chúng ta xem ngài Hương Nghiêm dạy người:
"Ngài Hương Nghiêm hỏi một vị Tăng:
- Từ đâu đến?
Vị Tăng thưa:
- Từ Qui sơn đến.
Ngài Hương Nghiêm hỏi:
- Gần đây Hoà thượng có dạy gì không?
Vị Tăng thưa:
- Có người đến hỏi ý Tổ sư từ Tây lại là gì? thì
Hòa thượng đưa cây phất tử lên.
Ngài Hương Nghiêm bảo:
- Các huynh đệ ở đó hiểu ý chỉ của Hòa thượng ra
sao?
Vị Tăng thưa:
- Họ diễn giải rằng Hòa thượng muốn nói" Tức sắc
minh tâm, phụ vật hiển lý."
Ngài Hương Nghiêm bảo:
- Hiểu thì hiểu ngay, nếu đã không hiểu thì lý luận có
ích chí!
Vị Tăng liền hỏi ngài Hương Nghiêm:
- Thầy hiểu Hòa thượng như thế nào?
Ngài Hương Nghiêm đưa cây phất tử lên."
(Truyền Đăng lục 11).
Ở đây, rõ ràng sự đạt ngộ của một hành giả, không
can hệ gì đến sự diễn giải lý luận cả; bỡi vì sự diễn giải lý
luận đó, là hậu quả tất yếu của trí phân biệt chấp trước, do đó
chúng không thoát khỏi vọng thức điên đảo của chúng sanh tâm.
Muốn thoát khỏi chúng để ngộ nhập vào cuộc sống tự
tại giải thoát, thì như chính đức Phật đã dạy trong kinh Tứ Thập Nhị
Chương: "Ngôn ngữ đạo đoạn, phi vật sở câu," và cũng trong
tinh thần ấy, các Thiền sư trong pháp dạy người luôn luôn chủ trương:
" Đoạn tuyệt chúng lưu, ngàn duyên cắt đứt," hay" Ly tứ cú,
tuyệt bách phi"v.v... Vì chúng là những trở ngại vướng mắc do trí
phân biệt của chúng ta giăng ra, và tự mình mắc kẹt vào khó mà thoát
được. Ở đây chúng ta thấy hiện rõ qua câu chuyện Tăng Trí Thường hỏi
Đạo Hòa thượng Đại Thông, và sau đó nhờ Lục Tổ khai mở sự vướng
mắc này:
"Tăng Trí Thường một hôm đến tham lễ Tổ, Tổ hỏi:
- Ngươi từ đâu đến, muốn cầu vật chi?
Thưa:
- Người học Đạo này, gần đây có đến núi Bạch phong
ở Hồng châu tham lễ Hòa thượng Đại Thông xin chỉ bày về thấy tánh
thành Phật, nhưng chưa dứt được nghi ngờ, nên từ xa đến đảnh lễ, cúi
xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy.
Tổ dạy rằng:
- Đại Thông Hòa thượng đã dạy những gì? Ngươi thử nói
ta xem!
Dạ ! Con đến đó đã ba tháng mà chưa được chỉ dạy
điều gì. Vì tha thiết cầu pháp, một buổi tối nọ con vào trượng thất
hỏi Hòa thượng về bản tâm bản tánh của con như thế nào?
Đại Thông dạy:
- Nhà ngươi có thấy hư không chăng?
Con đáp:
- Thấy.
Ngài nói:
- Nhà ngươi thấy hư không có tướng mạo gì?
Con đáp:
- Hư không thì vô hình, đâu có tướng mạo.
Hòa thượng nói:
- Bản tánh của nhà ngươi cũng như hư không. Tuyệt không
có một vật gì có thể thấy được, đó gọi là Chánh kiến. Không
một vật gì có thể biết được, đó gọi là Biết chân chánh.
Chúng không vàng xanh, dài ngắn. Chỉ thấy nguồn gốc thanh tịnh, thể
giác viên minh, đó gọi là Thấy tánh thành Phật, cũng gọi là Tri
kiến Như Lai. Con tuy nghe nói vậy, nhưng vẫn chưa hiểu rõ, xin Hòa thượng
khai thị cho.
Tổ dạy:
- Lời dạy của Hòa thượng kia vẫn còn kẹt trong kiến giải
tri thức, nên khiến cho nhà ngươi chưa thông suốt được. Nay ta khai thị
cho nhà ngươi một bài kệ:
Không thấy một pháp, thấy không thấy,
Khác nào mây che kín mặt trời.
Không biết một pháp, biết không biết,
Như giữa hư không sanh điện chớp.
Chỗ thấy-biết này bỗng dưng khởi,
Nhận lầm phương tiện làm sao hiểu.
Một niệm nhà ngươi tự biết lầm,
Thì ánh linh quang thường hiển hiện. (Pháp Bảo Đàn)
Qua những công án mà chúng tôi đã trích dẫn ra, chúng ta
đã thấy cái khả năng, và giới hạn của ngôn ngữ biểu thị khái niệm,
do trí phân biệt đẻ ra, đối với việc thể nhập vào Đạo qua công án
như thế nào rồi. Vậy thì việc diễn giảng lý luận của chúng ta về
công án, cũng chỉ là việc mà các Thiền sư thường gọi là"Trên tuyết
thêm sương; Lấy đũa quơ trăng, hay Gãi ngứa trên giày, hay trên đầu thêm
đầu"có nhắm nhò chi đến việc Thấy tánh thành Phật đâu!
Hơn nữa, cái Tự tánh xưa nay của chúng ta chưa từng che dấu,
nó luôn luôn hiển bày hiện hữu; nhưng tại sao chúng ta không thấy được
lại đi tìm cầu nó? Có thể chúng ta lý luận rằng: Sở dĩ chúng ta không
nhận thấy tự tánh, là vì tập khí vô minh nhiều đời nhiều kiếp của
chúng ta quá dày; bị nó che khuất cái tự tánh của chúng ta, nên không biết
chúng ở đâu? nay phải tìm cầu để thấy. Nhưng ở đây, chúng ta có biết
rằng cách lý luận đó cũng không thoát ngoài tập khí vô minh của tâm
chúng sanh. Vậy thì làm sao để tìm cầu được? Cũng như muốn hết nước
đục mà cứ dùng ngước nhơ đổ váo, thì đời nào có nước trong sạch
được!
Ở đây, việc bàn công án của chúng ta cũng vậy, đáng
lý chúng ta phải đốt sạch tất cả những tập khí vô minh để thấy tánh;
đằng này chúng ta không làm thế, mà ngược lại mượn khái niệm vô minh
này, để giải thích và định nghĩa khái niệm vô minh kia. Như vậy không
phải là dùng khái niệm cột khái niệm, dùng tập khí vô minh cột thêm tập
khí vô minh vào nữa hay sao? Việc làm của chúng ta như vậy có liên hệ
gì đến tự tánh đâu!
Ở trên, công án Thiền không phải là đối tượng của mọi
nhận thức bàn bạc về ý nghĩa của chúng, theo những lý do mà chúng tôi
đã trình bày. Tuy nhiên cũng có một vài ba trường hợp mà chúng ta có thể
tìm gặp ở trong văn học Thiền mà chính các vị Thiền sư thực hiện.
Nhưng điều đó đối với chúng ta không can hệ chi, vì lối bàn và tụng
của các ngài không lìa tự tánh vô phân biệt ; trong khi đó chúng ta xa
lìa tự tánh vô phân biệt để sống với trí phân biệt. Vì thế chúng ta
không thể đem lời bàn của chúng ta so sánh với lời bàn của các ngài.
Hơn nữa, lời bàn của các ngài không bị kẹt vào ngôn ngữ,
mặc dù các ngài cũng dùng khái niệm ngôn ngữ để thực hiện. Đây,
chúng ta thưởng thức cách bàn và kệ tụng của ngài Vô Môn về công án.
"Hòa thượng Hương Nghiêm nói:
- Như người trên cây, miệng cắn vào cành tay chân lơ lửng.
Dưới cây có người hỏi ý Tây lai, không đáp thì phụ câu hỏi, còn đáp
lại thì bỏ thân mất mạng. Vậy phải đối đãi làm sao?
Lời bàn:
Dầu có lời bàn luận khúc chiết đều không được. Giảng
được một Tạng kinh lớn cũng vô ích. Nếu đáp được chỗ ấy thì khơi
dậy được con đường chết trước kia, còn nếu chưa đáp được thì chờ
sau này hỏi Di Lặc.
Kệ tụng:
Hương Nghiêm thật ngoa ngụy
Ác độc quả thâm thúy.
Chẹn nghẹn họng thầy tu,
Cùng mình ló mắt quỷ.
(Vô Môn quan, bản dịch Trần tuấn Mẫn)
Qua lời bàn lời tụng của ngài Vô Môn về công án, chúng
ta thấy được gì? Ở đây, rõ ràng ngôn ngữ không bị kẹt vào ý nghĩa
bất cứ chủ đích nào cả. Ngôn ngữ ở đây bay lượn thênh thang tự tại,
chúng đốt cháy tất cả mọi khái niệm trói buộc trong cuộc sống chúng
ta, từ trong tư tưởng ra ngoài lời nói cùng việc làm, và chúng cũng đưa
người đọc đến bến bờ hố thẳm vực sâu, rồi sau đó bít hết mọi
con đường thối lui của chúng ta; ngay lúc đó một con hổ đói được thả
ra, và nơi đây tự chúng ta giải quyết vận mệnh của chúng ta trước hố
thẳm!
Lúc bấy giờ, là lúc chỉ mành treo chuông; nơi đây chỉ
có những kẻ căn cơ tối thượng, và với tâm vô phân biệt, một cuộc tạo
phản cơ mê nổi dậy an nhiên nhảy vào hố sâu không đáy; thế là các
công án được đốt cháy sạch sành sanh. Vậy thì, lời bàn lời tụng của
các ngài chả khác gì một công án. Hoặc mối nghi tình của công án chưa
đủ sức tạo phản cơ mê cho hành giả, thì các ngài tạo thêm điều kiện
phát triển nghi tình lớn hơn trong lời bàn lời tụng, để cho sự đột
biến càng nhanh càng tốt; hoặc thế chân tường của công án không đủ sức
tạo phản, các ngài rót thêm sức lực vào khiến phản lực càng tăng lên,
để đốt cháy mọi chướng ngại trên đường đi vào tự tại; hoặc sức
phủ định mọi kiến chấp của công án không đủ sức lay tỉnh cơ mê
hành giả, các ngài tạo thêm điều kiện quyết liệt hơn để đánh gục
mọi kiến chấp; hoặc trăm nghìn cái hoặc như vậy, cũng không ngoài mục
đích ĐẬP TAN CÁI VỌNG TÂM PHÂN BIỆT CHẤP TRƯỚC VỀ NGÃ-PHÁP, chạy
theo các duyên bên ngoài, mà làm mờ đi cái tự tánh thanh tịnh vốn sẵn
có nơi mọi người.
Tóm lại, lời bàn lời tụng của các Thiền sư chỉ khơi
bày và hướng dẫn hành giả nhìn ra cái gút nơi chính công án, và tự
chính hành giả mở gút cho chính mình. Ngoài ra lời bàn lời tụng của
các Thiền sư không đưa hành giả đến một đáp án nào khả dĩ gọi là
hợp tình hợp lý cả; vì hợp tình hợp lý hay đúng đi chăng nữa, cũng
chỉ là khái niệm do trí phân biệt đẻ ra mà thôi. Do đó, công án Thiền
hay những lời bàn lời tụng của các Thiền sư, vẫn là một bất khả
xâm phạm đối với trí phân biệt. Ở đây, chúng ta có thể đặt ra câu
hỏi, nếu trí phân biệt không có khả năng để vượt qua công án Thiền;
vậy thì các Thiền sư dùng công án làm gì? và các ngài bằng cách nào để
vào nhà Tổ?
Thật sự, đối với các Thiền sư đã đạt Đạo, thì
công án không là gì đối với các ngài cả, nhưng trước khi chưa đạt Đạo,
thì công án đối với các ngài là nơi thử thách bước tiến tâm linh, là
cửa pháp không cửa, là con đường đưa về hố thẳm không đáy. Nơi đây,
nếu các ngài muốn lọt vào nhà Tổ, thì buột phải đốt cháy sạch sành
sanh mọi công án bằng thứ lửa trí tuệ tối thượng của tâm vô phân biệt;
ngoài thứ lửa này ra, thì chúng ta vô phương xuyên thủng. Tuy nhiên, công
án cũng là nơi thử thách bước tiến tâm linh dành cho mọi người. Do đó,
cho dù căn cơ hạ liệt tầm thường cũng có khả năng đến với công án.
Mặc dù khi chạm vào công án là chạm vào một cánh cửa sắt lạnh lùng,
nhưng cũng có hiệu nghiệm ít nhiều. Ở đây, sẽ xảy ra hai cách thái:
* Thứ nhất, đối với những kẻ luôn luôn thụ động, không
có tự lực tự chủ, thì nó là một chướng ngại không thể vượt qua
được nhân đây mà thối lui.
* Thứ hai, đối với nhũng kẻ luôn luôn tích cực có tự
lực tự chủ, thì trở ngại này cũng chính là động cơ thúc đẩy để tự
họ vượt qua chính họ, và cứ thế lao vào hố thẳm. Ở đây, việc gì sẽ
xảy ra? Có thể tùy theo căn cơ biến chuyển vào lúc đó của họ: Với người
có tâm thì hố thẳm không đáy sẽ biến thành có đáy, và việc
thủng trán lỗ đầu, chết đi sống lại sẽ xảy ra, đây chính là cơ hội
tốt cho họ tự tạo phản cơ mê, và đẩy mối Nghi tình đến chỗ
chín mùi bùng vỡ; còn đối với người vô tâm thì đây là cơ hội
cuối cùng để tìm lại Diện mục chính họ nơi hố thẳm không đáy.
Vậy thì việc thấy tánh thành Phật không phải là việc
không thể không làm được, và công án Thiền không phải vì những lý do
trên, mà không vượt qua nổi. Ở đây, hành giả chỉ cần mặt đối mặt
với công án Thiền, hay câu thoại đầu cho đến khi nào cái dụng công của
hành giả và chúng trở thành một khối. Khi khối Nghi tình này đắc lực,
thì cứ thế tạo thành cái thế miên mật đẩy chúng đến chỗ càng ngày
càng to lớn, cho đến khi nào căn đầy, đủ duyên thì chúng sẽ bùng vỡ.
Ở đây chúng tôi muốn mở ngoặc và đóng ngoặc một tí, vì giai đoạn này
là giai đoạn nhất tâm miên mật vô phân biệt; nên đối với cuộc sống
chung quanh, hành giả không bị lệ thuộc chi phối bỡi chúng. Giờ đây
hành giả như người đui, người mù, người điếc, người câm, đôi lúc
họ quên cả ăn uống ngủ nghỉ làm việc... Vì lúc này là lúc ngũ căn của
họ không bị ngũ trần bên ngoài chi phối, do đó những người đang sống
chung với họ, với tâm tạp loạn phân biệt như chúng ta, sẽ nhìn thấy
cách sống của họ khác với cuộc sống của chúng ta, vì họ đang đi nghịch
dòng sanh tử, trong khi chúng ta đang đi thuận dòng sanh tử, có nghĩa là họ
đang đi nghịch chiều với chúng ta. Do đó, chúng ta mới có cái nhìn thấy
họ như là một người ngu ngốc khờ dại, khùng khùng điên điên, hay nói
theo danh từ thời đại là mát mát. Nhưng không sao đó là trạng thái tiến
bộ trong việc làm chín mùi hoá khối nghi tình, đã được thể hiện ra bên
ngoài, trong việc dụng công có lực của hành giả đã đạt được. Ở đây,
hành giả không vì những tiếng thị phi dèm pha nếu có, mà thối thất hay
ngã lòng, cứ thế tiếp tục tiến tới để hoàn thành cứu cánh mà chúng
ta đã đặt ra. Trong những biểu hiện này, có thể có những kẻ vì chút
danh chút lợi mà lừa bịp thiên hạ bằng vào những hành động trên để
chứng tỏ rằng ta đã đạt Thiền, ta đã đạt Đạo, thì những việc
làm đó trước sau gì chúng cũng sẽ bị phát hiện bỡi thiền sư hướng
dẫn. Đây là giai đoạn thử thách và đo bước tiến tâm linh của chính
mình, không qua bất cứ một trung gian nào hết, ngoại trừ thiền sư hướng
dẫn. Nếu hành giả có căn cơ tối thượng, thì sẽ đốt cháy công án
hay câu thoại đầu tự tại bước qua, còn không thì sẽ bị công án làm
cho thủng trán lỗ đầu, chết đi sống lại, hay câu thoại đầu tạo thành
một khối nghi tình có lực cứ thế đẩy tới chỗ tận cùng. Chính nhờ
vào kinh nghiệm chết đi sống lạ𤋮 hay sức
mạnh nghi tình này mà hành giả tạo phản cơ mê được, và cuối cùng
hành giả đốt sạch hết mọi tập khí vô minh, thỏng tay vào chợ một
cách tự tại.
Sao chúng ta cũng nên thử thách bước tiến tâm linh của
mình như thế nào chứ? Đây chúng ta hãy theo dõi pháp hướng dẫn từng chặn
đường qua công án của ngài Mã-Tổ Đạo-Nhứt.
"Tăng thưa:
- Vì sao Hòa thượng nói: ' Tức tâm tức Phật'?
Mã-Tổ đáp:
- Vì để dỗ con nít khóc.
Tăng hỏi:
- Nín rồi phải làm sao?
Mã Tổ đáp:
- Chẳng phải tâm chẳng phải Phật.
Tăng hỏi:
- Trừ hai việc trên, nếu có người hỏi thì trả lời như
thế nào?
Mã Tổ đáp:
- Nói với Y là chẳng phải vật.
Tăng hỏi:
- Nếu chợt trong kia có người đến thì sao?
Mã Tổ đáp:
- Liền dạy cho Y thể hội đại Đạo." (Mã Tổ ngữ lục).
Qua công án này, chúng ta có cảm tưởng rõ ràng là ' Tức
tâm tức Phật ' không phải là cửa vào. ' Chẳng phải tâm chẳng phải Phật
' cũng không phải là cửa vào. ' Chẳng phải vật ' cũng không phải là cửa
vào. Vậy cái gì là cửa vào nhà Tổ, trong khi mọi lối mọi hướng đều
bị bít, đều bị phủ nhận?
Ở đây, nếu là kẻ có căn cơ tối thượng, thì qua công
án tất cả mọi kiến chấp đều bị đốt sạch, và công án giờ
đây chỉ là trò chơi của ngôn ngữ chứ không là gì hết; còn những kẻ
căn cơ tầm thường thì việc gì đã xảy ra, khi họ đã chạm mặt vào
công án này? Phải chăng ngài Mã Tổ-Đạo Nhứt, đã đặt tâm thức chúng
ta trước những thử thách phi lý đối với trí phân biệt hợp tình hợp
lý, mà chúng ta đã từng chấp nhận sống với chính nó. Nơi đây, một sức
mạnh va chạm giữa hợp lý và phi lý xảy ra, và khối Nghi tình cũng đang
hình thành hiện hữu, hoạt động thôi thúc mãnh liệt; đây là cơ hội tốt
đưa đến sự bùng vỡ tâm thức hành giả. Đó là một trong muôn ngàn
cách mà các vị Thiền sư thường sử dụng trong pháp dạy người của các
ngài; với mục đích bóc vỏ vô minh, chỉ bày cái tự tánh vô phân biệt
xưa nay của chúng ta, bằng cách dẹp bỏ các duyên bỡi những hành động
cụ thể như lời nói, cử chỉ ngay cả đến sự im lặng, mà đại diện
cho pháp dạy người độc đáo và táo bạo nhất là hai ngài Đức Sơn và
Lâm Tế.
Ngài Đức Sơn với lối vung gậy nổi tiếng qua câu: Nói
được cũng bị ba mươi hèo, không nói được cũng bị ba mươi hèo." Vậy,
trong câu nói này, Đạo lý gì đã xảy ra đây? Dứt khoát vấn đề hợp tình
hợp lý, đúng sai của lời nói không thể biện bạch ở đây được. Đó
phải chăng là thế chân tường các ngài đặt hành giả vào ngõ bí, ở đây
chính hành giả tự khai thông. Nơi đây, nếu ai lanh mắt thì chính Đức
Sơn bị ba mươi hèo chứ không phải người bị dồn vào thế chân tường
bị.
Cũng thể cách dạy người đó, ngài Lâm Tế với tiếng
quát kỳ đặc không hai. Ngài không cần nói được hay không nói được, hễ
chạm mặt là quát ngay. Tiếng quát này là một nhát kiếm báu kim cương, có
khả năng chặt đứt tất cả mọi duyên cho người đối diện; cũng có khả
năng đoạt hết mọi ý niệm phân biệt khởi lên nơi hành giả.
Ở đây, chỉ có những vị lanh cơ mới phá nổi những
chiêu thức kỳ đặc này mà thô, còn không thì bị ù tai nhức óc, và từ
thất vọng này đưa đến thất vọng khác. Cũng chính nhờ những thất vọng
này, mà hành giả nhen nhúm được khối Nghi tình càng ngày càng thêm lớn
mạnh hơn. và cho đến khi nào khối Nghi tình này chín mùi, thì chỉ cần một
nhân tố nào đó tự khắc chúng vỡ tung.
Qua những trình bày ở trên, rõ ràng công án không phải
là đối tượng không thể không vượt qua được. Ở đây, vì giới hạn
của đề tài, nên chúng tôi không thể đề cập vấn đề này một cách
hoàn toàn đầy đủ hết được. Để thay lời kết luận, chúng tôi tha
thiết yêu cầu mọi người trong chúng ta, hãy vì sự nghiệp giải thoát của
mọi người, mà ngưng đi những việc làm tai hại đó, vì chúng không có lợi,
mà ngược lại sẽ có hại cho chính ngày hôm nay và ngay cả mai sau; bỡi
vì chúng sanh trong thời kỳ mạt pháp tình trạng căn cơ của họ nghiêng nặng
về lý trí phân biệt. Cho nên đối với những người học Đạo, họ chỉ
biết đắm mình vào thế giới ngôn ngữ văn tự, để rồi bị chúng đánh
lừa trở thành nô lệ, và tự thõa mãn cho đó là cứu cánh, đáng lý ra
chúng chỉ là phương tiện bị vượt qua, nên đức Phật Thích Ca đã từng
tiên liệu trong kinh Lăng Già ngài đã phủ nhận: "Bốn mươi chín năm
ta chưa hề nói lời nào." Thế mà cái hậu quả ấy vẫn xảy ra, càng
ngày càng thêm tệ hại không phương cứu chữa! Chúng ta nên quay nhìn lại
xem cái kiến thức, mà chúng ta đã nổ lực thâu lượm nhờ vào ngôn ngữ
văn tự, tư duy học hỏi đó, có phải là cái bản lai diện mục
xưa nay của chúng ta hay không? Hay đó chỉ là cái quái thai của vọng
thức điên đảo phân biệt? Vậy thì cái bộ mặt thật xưa nay của chúng
ta nó ở đâu? Hãy cẩn thận! Đừng tự đánh lừa mình! Đừng đánh lừa
mọi ngườí! Hãy tự thực hành theo những lời dạy của đức Phật, cho
dù chỉ là một chữ hay một câu đi chăng nữa, nếu chúng ta thực hành thấu
đáo vượt qua khỏi chúng, thì đó là một việc làm lợi ích, chứ không
phải học hỏi so sánh đối chiếu thiên kinh vạn quyển qua ngôn ngữ này
ngôn ngữ nọ, để hiểu biết những lời dạy của đức Phật, rồi đem
ra bàn luận mổ xẻ phân biệt chúng đúng sai chi li qua sách vở hay lời
nói, rốt cuộc tham vẫn còn tham, sân vẫn còn sân, và si vẫn còn si. Đó
không phải là mục đích tối hậu của những lời dạy đức Phật, mà mục
đích tối hậu của đức Phật là thực hành giải thoát tất cả mọi
trói buộc của tham-sân-si ngay trong cuộc sống này, chứ không phải học
để biết tham sân si. Như thế chúng ta học để làm gì cho phí công vô
ích, trong khi chúng không can hệ gì đến vấn đề giải thoát tham-sân-si!?
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/to-001-congan.htm
|
|