- Cửa thiền dính
bụi
- Tức
Tây Tây Du
Thượng
Tọa Thích Quang Lạc ấn nút cho chiếc ghế bành Lazy boy giữ độ nghiêng vừa
ý, đoạn ngã người lún sâu vô lớp nệm mousse dầy cộm, thoải mái xem
cuộn phim video Tây Du Ký. Bộ phim dàn cảnh công phu, hình ảnh đẹp, diễn
xuất vững vàng, tình tiết ly kỳ, đối thoại hấp dẫn, nên thầy thật
khoái chí. Tài tử đóng vai Tề Thiên khỉ khọt dễ thương đang bày trò
"khỉ" ban nước thánh trường sanh bất tử "khai ngấy" cho
bọn Hổ Lực đại tiên, hoạt cảnh vui nhộn khiến thầy Quang Lạc cao hứng
cười "ha hả" vang rền. Ở xứ người chùa chiền chỉ sinh hoạt
vào cuối tuần, ngày thường chùa vắng tanh, nên tu sĩ có thể tùy nghi sống
với sở thích, đỡ phải gò bó theo những lễ nghi phiền phức xa vời.
Thầy
Quang Lạc vốn say đắm truyện Tây Du từ thời còn là một học sinh trường
tiểu học Phan Văn Trị Saigon. Thuở ấy, cậu bé tên Đạt cùng thằng bạn
thân tên Tường, đã chia nhau nhịn ăn quà sáng, để có tiền thuê truyện
Tây Du rồi say sưa nghiền ngẫm từng câu chuyện thần thông biến hóa. Hai
thằng bạn tâm đầu ý hiệp suốt ngày tranh cãi truyện Tây Du, đến nỗi,
chỉ cần nhắc hồi thứ mấy trong quyển sách, thì cả hai đều biết ngay
nội dung đoạn đó. Đạt và Tường thường giao đấu bằng cách đố nhau
các chương sách, thử sức nhau bao bận để phân tài cao thấp mà đứa nào
cũng thuộc vanh vách, nên phải chịu xử "huề". Thế rồi hai đứa
lại mơ mộng diễn lại những pha gây cấn trong truyện. Điều éo le là ai
cũng khoái đóng vai Tề Thiên tài ba xuất chúng, còn vai Bát Giái ục ịch,
biếng nhác, ham ăn, ham gái thì chẳng mạng nào thèm. Tranh cãi nhau không
xong nên hai đứa phải biểu diễn thần thông biến hóa. Tường "chuồn"
đi một lát đã quơ về được mấy trái cam trên bàn cúng Ông Thiên đầu
xóm. Đạt lẻn vào chùa Linh Sơn một chập cũng chôm chỉa được nải chuối
Xiêm cúng Phật. Bày cách giao đấu nào cũng bất phân thắng bại, nên cuối
cùng, trên bước đường "hành hiệp giang hồ" thuộc giang san hẻm
Đề Thám, hai nhóc con anh hùng đành chấp nhận hiện hữu của hai Tề
Thiên Đại Thánh: Tề Thiên Đạt phục phịch và Tề Thiên Tường ròm rỏi.
Lớn
lên, không còn tụm năm, tụm ba làm Tề Thiên phá làng phá xóm, nhưng đôi
bạn vẫn ôm ấp riêng mình mộng Tề Thiên dọc ngang Trời Đất. Tường
đam mê khoa học, mài miệt trau dồi tri thức của loài người, với hoài
bão trở nên một nhà bác học tài ba có khả năng "Tề Thiên",
theo nghĩa là biến cải huyền cơ tạo hóa. Tuy nhiên, vừa tốt nghiệp cử
nhân khoa học, thì Tường đã vướng phải oan gia nghiệp chướng bám sát
như bóng với hình. Cái tri thức ghê gớm mà Tường tự tin có khả năng
đối phó "Đất Trời", tỏ ra chẳng công hiệu gì với nữ yêu kiều
diễm, thành thử chàng bị hớp hồn, không còn cách gì đằng vân độn thổ
trốn đi đâu được. Rồi chỉ mấy năm sau, mấy tiểu yêu lần lượt ra
đời, khiến cho Tường chạy ngược xuôi "vắt giò lên cổ" dạy
học kiếm tiền phục vụ bầy yêu, thì còn hơi sức đâu nuôi dưỡng mộng
Tề Thiên cao xa nữa. Đạt cương quyết thi hành mộng Tề Thiên dựa trên
những sự thực phũ phàng của đất nước. Chàng chủ trương, trong giai
đoạn chiến chinh, không có sự tiến thân vào nhanh chóng hơn binh nghiệp,
nên đã sớm tình nguyện nhập học trường võ bị. Đạt dự trù, bằng mọi
giá, chàng sẽ tiến lên địa vị khá cao trong quân đội, rồi chàng sẽ
móc nối tạo thêm vây cánh; chừng đó, mặc sức mà bắt tay nhau vo tròn
bóp méo đất nước, "thay Trời trị dân", mộng Tề Thiên chắc chắn
có cơ thành tựu. Do đó, Đạt đã hội nhập quân đội một cách nhiệt
tình: chàng chiến đấu dũng cảm, nhưng cũng biết chiều lòn, nịnh bợ thượng
cấp để dễ thăng quan tiến chức. Đạt lại sớm lãnh hội tiềm lực của
hệ thống lính ma, lính kiểng, nhờ vậy, cũng khá rủng rỉnh. Tiền bạc
giúp Đạt khôn ngoan hơn, chàng biết "tìm thầy, chạy thuốc" nên
khám phá được con đường thăng quan tiến chức mà không phải đổ mồ hôi
và xương máu ở chiến trường. Vì vậy, chỉ bằng đi mấy năm, trong khi
các bạn đồng khóa vẫn còn lận đận với cấp trung úy, thì Đạt đã
nghiễm nhiên là một thiếu tá quận trưởng rồi. Tất cả mọi diễn tiến
đều đúng phong phóc như Đạt dự liệu, như vậy, chỉ cần thăng chức vài
lần nữa, thì Tề Thiên Đạt sẽ dọc ngang Trời Đất, xưng hùng xưng bá
một phen. Sau mấy năm làm ăn khấm khá, Đạt gom góp hết tiền bạc, dự
định đầu tư "cú" lớn: mua lon trung tá và chức vụ tỉnh trưởng
tại vùng cao nguyên. Nhân dịp yết kiến phu nhân thượng cấp để đóng
"hụi chết", Đạt khẩn khoản van cầu bà nâng đỡ và may mắn
được "bà" chuẩn hứa. Trên đường về quận, Đạt đang dệt giấc
mộng tuyệt vời, bất ngờ người tài xế vừa lách tránh một mô đất bất
bình thường, thì bỗng có loạt súng nổ vang rền. Đạt đau nhói ngã gục.
Chàng cảm giác như đang lao vút xuống hố thẩm đen ngòm hun hút dường
như bất tận, rồi bị hất tung ra khoảng không gian mờ ảo. Cuộc đời sôi
nổi của chàng, từ thuở lung lăng phá xóm làng đến lúc lâm nạn đều
hiển hiện rõ ràng trước mắt như một cuộn phim quay nhanh vun vút mà
không sót một chi tiết nhỏ. Rồi Đạt chợt thấy mình lửng lơ trong một
gian phòng vôi trắng. Bác sĩ, y tá đang xúm xít vây quanh một xác người bất
động để gắng sức cứu chữa. Thây nằm sóng sượt đó chao ôi sao giống
Đạt quá. Rõ ràng là Đạt rồi. Đạt run sợ rụng rời, chàng lớn tiếng
van xin bác sĩ cứu mạng nhưng bọn họ lầm lì làm việc dường như chẳng
ai quan tâm đến. Trong cơn thảng thốt kinh hoàng, chợt thấy tượng Quan
Âm trên cổ cô y tá ngời sáng, người Tề Thiên đời nay, khi lâm chung dưới
"núi nghiệp" của tử sinh vội chấp tay chân thành nguyện cầu
Quan Âm cứu độ... Trong cơn đau nhức rã rời, chập chờn mê sảng, Đạt
lần lần hồi tỉnh mà miệng vẫn còn mấp máy niệm danh hiệu Quan Âm. Thần
trí khôi phục Đạt mới biết đã bị viên đạn xuyên vào lồng ngực
cách tim không quá hai phân, máu me linh láng, nhưng may được trực thăng khẩn
cấp đưa về Tổng y viện Cộng Hòa cứu chữa nên đã thoát cơn hiểm nghèo.
Trải qua những giây phút vật lộn với thần chết, nằm tê tái đơn côi
trong bốn bức tường tẻ lạnh, Đạt bàng hoàng nhận chân cái bọt bèo
vô nghĩa của kiếp người. Bao nhiêu hùng khí Tề Thiên Đại Thánh oanh
oanh liệt liệt đều tan biến mất. Quãng đời cũ, vinh nhục, thành bại,
anh hùng hay hèn hạ gì, đều trở thành thứ trò múa rối vô duyên. Vui buồn
gì thì cũng là cái vui buồn hời hợt trong biển khổ luân hồi sanh tử
miên man bất tận. Nội tâm rung chuyển toàn diện, khiến cho con người tự
"tôn" tự đại khinh thường Trời Đất, sau khi kề cận với thần
chết khắc nghiệt, đã bàng hoàng "ngộ không", thực chứng được
lý vô thường vô ngã, để rồi quyết tâm buông bỏ cái giả tạm, dõng
mãnh phát bồ đề tâm nguyện làm một "hành giả" tu học Phật
Pháp, hầu có thể độ mình và độ người. Thế rồi, trước sự ngạc
nhiên tột độ của thân nhân bè bạn, Đạt dựa vào chiến thương để
xin giải ngũ, rồi âm thầm xuất gia, với pháp danh Quang Lạc. Trong thời
gian nầy, Giáo Hội Phật Giáo đang củng cố cơ sở tổ chức nên rất cần
cán bộ. Sư được trọng dụng, do đó phải hi sinh dành bớt thời giờ tu
tập và trau dồi nội điển cho nhu cầu giáo hội. Nhờ kinh nghiệm thừa
thãi về giao tế và hành chánh, thầy Quang Lạc đã phục vụ giáo hội đắc
lực, nên chỉ trong một thời gian ngắn đã có một uy thế khá vững
vàng, vượt xa những vị tu sĩ thâm niên mà chỉ biết cặm cụi tu hành.
Chính nhờ những giao tế nhân sự, thầy đã nắm vững tình trạng nguy cơ
của đất nước, nên đã kịp thời quyết định di tản sang Mỹ vào
tháng tư năm 1975, rồi định cư ở một thị xã vùng duyên hải. Thầy vốn
có tham vọng trở thành một thứ "tổ sư" tại nước người nên
ngôi chùa mà thầy vận động xây dựng liền được tự phong là
"chùa tổ". Rồi thầy cũng phát họa kế hoạch qui mô nhằm kiến
thiết ngôi "chùa tổ" nguy nga, sau đó, sẽ đến dự án xây dựng
một đại tùng lâm vĩ đại để lấy tiếng với đời.
"Tâm
viên ý mã", - tâm như vượn, ý như ngựa -. Mới hồi tưởng chút quá
khứ mà tâm ý đã dong ruổi đi ngàn dặm, mãi đến khi cuộn tape đã hết
thầy mới sực tỉnh. Video ngưng chạy, nên vô tình, truyền hình tự động
chuyển sang đài 15, với màn ảnh sống động lồng lộng thân hình nẩy lửa,
trần truồng như nhộng của người đẹp đang ưỡn ẹo tắm nắng. Đài
cable 15 thường chiếu những phim hấp dẫn, mà không bị cắt ngang bởi những
mục quảng cáo đáng ghét nên được nhiều khán giả ưa chuộng. Ngoài ra,
đài cable cũng thường "phóng khoáng" hơn đài thường, và luôn có
những pha cởi truồng tuốt luốt hay phơn phớt cảnh "làm tình nhẹ
nhàng" nữa. Tuy thỉnh thoảng thầy Quang Lạc vẫn bị bắt buộc phải
nhìn cảnh "gai mắt", nhưng thầy cũng nóng mặt. Thầy "khó chịu"
tắt máy truyền hình rồi ngồi thừ ra, đầu óc trống không nhàm chán.
Ở nước nhà, tu sĩ phải bận rộn Phật sự suốt ngày, chăm chỉ tuân
theo nề nếp, lo công phu, tập thiền quán..., lại được thầy tổ giám
sát, nên đâu có lúc vẩn vơ lơ đảng. Đến xứ người, một mình một
cõi tự tác, mà công việc Phật sự cũng chỉ thu gọn vào 2 ngày cuối tuần,
thời giờ trống không rỗi rảnh nhiều quá, biết làm gì cho hết? Nhàn
nhã lắm đôi khi thầy nảy sinh những cơn ngán ngẫm cho tháng ngày lê thê
lếch thếch. Uể oải rướn lên với lấy tập san Phật giáo đọc dang dở,
thầy liếc sơ sịa vài trang thấy nội dung cũng chỉ toàn là mớ giáo lý
cũ mèm khô khan, chẳng có gì hấp dẫn nên lại vứt qua một bên. Thầy thở
dài: "nản quá!". Thầy cũng không hiểu nỗi tâm tư mâu thuẫn của
chính mình, Khi thì thầy cũng mong muốn tu cho thật "nổi" để lấy
tiếng với đời, nhưng con đường tu sao mờ mịt, xa xôi chẳng thấy bến
bờ gì cả. Đôi khi thầy lảng vảng ý nghĩ nên bán "quách" ngôi
chùa kiếm chút đỉnh vốn hoàn tục, nhưng thầy thấy không ổn, mà thật
ra thì cũng không đành lòng. Càng ngày thầy càng thấy câu châm ngôn trong
tự viện, mà ngày mới xuất gia, các vị đàn anh thường nhắc nhở dường
như phản ảnh trung thực bước đường tu tập của thầy:
Nhất
niên Phật tại tiền
Nhị
niên Phật thăng thiên
Tam
niên bất kiến Phật
Thật
vậy, ngày mới xuất gia, sơ phát bồ đề tâm dõng mãnh thầy tinh tấn tu
tập nhất quyết đạt đạo để độ đời. Hình ảnh Đức Phật lúc nào
cũng hiện hữu trong tâm, cũng ở trước mặt, và quả vị thì cũng
"chắc mẻm" trong tầm tay rồi. Thời gian sau, thầy phải gánh vác
việc giáo hội, bận rộn chuyện đời chuyện đạo, việc tu tập giải đãi
lần lần. Vả chăng, càng thực hành thầy càng thấy việc tu sửa tâm thập
phần gian nan hơn chăn giữ "trâu hoang", chuyện thành đạo mịt mờ,
mà nhiệt huyết tu hành cũng cạn lụt: Phật ngự ở cõi Trời mông lung xa
lắc xa lơ rồi. Bây giờ, có lẽ thầy đang ở giai đoạn "tam niên bất
kiến Phật", nên Phật là Phật, thầy là thầy. Phật gỗ lặng lẽ, bất
động tọa trên bệ xi măng ngoài chánh điện lạnh lẽo, đâu có dính
líu, liên hệ gì với con người bằng xương bằng thịt, nhạy cảm, đang
tận hưởng những tiện nghi vật chất trong phòng riêng ấm cúng nầy. Thầy
bấm nút cho ghế nệm xoa bóp lưng, rồi ngã người lim dim mơ mộng. Bỗng
thầy choàng dậy, vớ điện thoại không dây để cạnh, bấm nút chọn
đường dây tự động số một. Tiếng người đẹp "hê lô" ở đầu
dây khiến thầy nghe ấm áp, mắt thầy sáng lên:
-
A lô! Đang làm chi đó? có gì vui không?
-
Ơ! mệt quá thầy ơi! đang sửa sang tiệm mới cho kịp khai trương đầu tháng
tới. Thầy cúng khai trương dùm nghen thầy?
-
Hà! hà! Thiên Kim muốn chi mà chả được?
-
Cám ơn Thầy! Thôi "bai" nghen thầy. Kim phải đến tiệm mới ngay,
để chỉ dẫn đám thợ.
Thầy
Quang Lạc tiếc rẻ gác máy. Thiên Kim có chồng ngoại quốc nên vui vẻ,
và cởi mở, do đó thời gian hàn huyên với người tín nữ nầy vô cùng hứng
thú. Thầy vội bấm số điện thoại tự động số 2, tín nữ Lam Kiều,
người đẹp cô đơn có giọng nói ngọt ngào, dễ thương và rất chịu
tâm sự. Tiếng chuông reo vang ở đầu dây hằng mươi lượt, nghe sốt cả
ruột mà không ai bắt máy. Chán nản thầy đành mở truyền hình xem tiếp.
Hình ảnh quảng cáo những chiếc xe hào nháng bóng lộn, nhắc nhở thầy
liên lạc người đệ tử làm giám đốc mua bán xe:
-
A lô! Thượng Tọa Quang Lạc đây! À! Thầy định nhờ con tìm cho thầy chiếc
xe khác! Ừ thì chiếc xe Cadillac của thầy còn tốt, nhưng thầy thích loại
Mercedes đời mới cơ! Con ráng tìm cho thầy gấp nhe! "bái bai"!!
Mơ
màng nghĩ đến chiếc xe vừa ý thầy rộn ràng sung sướng. Giờ nầy, nếu
có người bàn bạc tán đồng sở thích với mình thì mới thú vị. Thầy
nhìn tới nhìn lui đồng hồ, rồi đắn đo bấm một số điện thoại tự
động quen thuộc. Ngọc Bích là tín nữ thuần thành, chỉ hỏi han quanh quẩn
những đề tài tu tâm, dưỡng tánh nhạt nhẽo, nhưng giọng nói nàng nhỏ
nhẹ, ấm áp khiến thầy rất ưa chuộng. Nghe tiếng người đẹp ở đầu
dây, thầy hí hửng:
-
Ngọc Bích khỏe không? đang làm chi đó?
-
Dạ! cũng bình thường..., thưa thầy!
Bỗng
thầy nghe phơn phớt tiếng đàn ông gay gắt: "Ai đó?", rồi tín nữ
Ngọc Bích rối rít: "Thầy nói chuyện với nhà con nha!". Tuy không
đến nỗi có chuyện mờ ám xấu xa, nhưng vì dụng ý chọn lúc người chồng
đi làm để hàn huyên tâm sự vặt với người vợ, nên thầy cũng ngượng
ngập, tim đập thình thịch.
Thầy
vốn nhanh trí, nên liền lên tiếng đon đả:
-
A lô! Chào anh Thành! Thầy định gọi anh ở sở làm, mà gọi lộn số điện
thoại ở nhà, không ngờ lại gặp được anh. Hên thật là hên!
-
Thầy gọi tui hay thầy gọi ai! Mà thầy gọi tui "mần" gì?, tiếng
của Thành gay gắt, xẵng lè.
-
Ơ! thầy định hỏi thăm anh..., ơ! về vụ mua bảo hiểm nhân thọ vậy
mà!
-
Chuyện đó có gấp lắm không?, Thành quạu quọ.
-
Ơ cũng không có gì gấp gáp! Vậy nếu anh bận, thì hẹn khi khác vậy!
Vừa
nói xong, không đợi Thành trả treo thêm lời nào nữa, thầy vội vàng gác
máy. Thầy Quang Lạc tiu nghĩu thẹn thùng. Thật ra, thầy không hề có tà
ý tán tỉnh ai, thầy chỉ ưa trò chuyện "lững thững", xưng hô
"trổng trổng" mập mờ với phái nữ vậy thôi. Tâm sự với họ
dù chuyện đời hay đạo cũng thú vị hơn bọn đàn ông khô khan nhạt nhẽo.
Thầy không ngờ gặp vận xui, khiến Thành có thể ngờ oan cho thầy. Thế
nên, thầy xốn xang đứng ngồi không yên vì nghĩ đến tính đa nghi như Tào
Tháo của y. Khi nổi cơn ghen, Thành thường đánh đập vợ tàn nhẫn. Vì vậy,
thầy vừa tội nghiệp cho số phận của Ngọc Bích mà cũng lo lắng cho
thanh danh tu sĩ của mình. Do đó, thầy muốn giả lả, ngỏ lời đính
chánh với Thành, nhưng đính chánh thì hóa ra "tự thú tội" sao? Thế
là thầy trằn trọc suốt đêm không ngủ, thấp thỏm chờ đợi đến đúng
sáu giờ sáng, để gọi đến tiệm thực dụng của Bích Ngọc. Giờ khắc
sớm bửng nầy chắc chắn Thành vẫn đang trùm mền ngáy ngủ, nên thầy
liên lạc với Bích Ngọc mong dọ hỏi phản ứng của Thành ngày qua. Nghe
đúng âm thanh của Bích Ngọc, thầy mừng rỡ hỏi:
-
"Đang làm chi đó? Có gì vui hông?".
Bỗng
nhiên âm thanh chát chúa, nhức óc của Thành phát ra - có lẽ hắn nghi ngờ
nên chịu khó thức dậy sớm theo vợ ra tiệm, mà còn gắn hệ thống điện
thoại song song để nghe lén nữa -:
-
Ai đó! thầy Quang Lạc phải không?
Thầy
Quang Lạc lỡ làng muốn im lặng rút lui mà chẳng được, bẻn lẻn đáp yếu
xìu:
-
A thầy đây! Thầy muốn nói chuyện với anh...
-
Thầy gọi tui hay thầy gọi cho vợ tui?, Thành quát lớn.
-
Thật ra, thì thầy chỉ có ý định kể một mẩu chuyện đạo cho chị
nghe vậy thôi...
-
Hừ! giờ nầy thức nói chuyện đạo? Tu sĩ gì mà...
Thành
bắt đầu dùng những lời lẽ nặng nề xỉ vả thầy. Nhớ lại trước
đây Thành đã từng kính cẩn quì lạy thưa thỉnh cúng dường, mà nay lại
dám to tiếng mắng chửi, thầy tức tối vô cùng mà phải ráng nhịn nhục
tìm cách giải tỏa những điểm hiểu lầm. Nhưng thầy càng nhỏ nhẹ thì
hắn càng hỗn láo hơn, nên cuối cùng thầy đành gác máy.
Thầy
Quang Lạc rối ren khó nghĩ. Thầy biết Thành là con người nguy hiểm, hắn
đã thù oán thì không dễ dầu gì để thầy yên thân. Thế rồi, chỉ nội
nhật hôm đó, Thành điện thoại mấy lần liên tiếp, dùng lời lẽ thô tục,
cục xúc xỉ vả thầy. Rồi hắn còn dọa nạt sẽ phá nát thanh danh thầy,
cho thầy không còn đất đứng mới thôi. Mấy hôm sau, bác ủy viên tài
chánh hốt hoảng báo động rằng Thành đã liên lạc từng hội viên hội
Chùa để tố cáo một "lô" chuyện nham nhở của thầy. Thành còn
tuyên bố đã liên lạc với hàng ngũ Thượng Tọa Đại Đức có chức sắc
trong giáo hội kể lể "mét thót", rồi thỉnh cầu quí vị tu hành
chân chánh lên án loại bỏ "con chiên ghẻ" ra khỏi giáo hội. Lời
tố cáo vu vơ nầy đáng lẽ quí vị tu sĩ bằng hữu nên gạt bỏ ngoài
tai, nào ngờ họ lại nửa tin, nửa ngờ nên im lìm tránh né không liên lạc
với thầy nữa. Điều đáng phiền là có vị lại ron ren thăm dò điều
tra tư cách của thầy qua vài Phật tử thân cận. Giới Phật tử lại nhộn
nhịp bàn ngang tán dọc, càng ngày câu chuyện càng được thêm thắt thập
phần mê ly rùng rợn. Thẩm mỹ viện là trung tâm thu phát tin thời sự giựt
gân của quí bà. Những tin đồn phóng đại bắt được, chủ nhân Thu
Trúc liền báo cáo thầy đầy đủ, khiến thầy thêm nao núng lo âu. Thầy
là tu sĩ, dù sao cũng giữ thể thống, nên đâu thể trả đũa hay đôi co
gì với Thành. Thầy chỉ có cách im lặng "niệm Phật", mà im lặng
thì Thành càng làm tới khiến cho những người vốn dè dặt lúc đầu đã
lần lần nghiêng theo luận điệu của hắn. Tư thế thầy thật khó tự
mình "giải độc" cho mình, vì như vậy thì có vẻ như "nhột
nhạt tự thú", khiến thiên hạ càng nghi ngờ nhiều hơn nữa. Giải pháp
nhờ những Phật tử có uy tín minh oan cho thầy tương đối hợp lý, nhưng
khi thầy nghĩ đến, thì có lẽ đã quá muộn. Giờ nầy, thì ngay bác ủy
viên tài chánh, người Phật tử thân cận nhất dường như lòng dạ cũng
lung lay rồi. Vậy còn lại mấy vị thực lòng bênh vực cho thầy đâu? Vả
chăng, do ưu tư lo lắng thái quá đó, thầy đâm ra nghi ngờ đủ mọi người.
Thầy cảm thấy là dường như ai cũng đối đãi với thầy khác lạ hơn
xưa. Họ khinh thường thầy? Họ to nhỏ nói xấu? Hay họ lén lút rình rập,
họ soi bói, nghi ngờ thầy? Đầu óc thầy căng thẳng trước cảnh chùa thưa
thớt, tàn lụn theo uy tín đổ vỡ của mình. Nguy cơ thì vô cùng mà thầy
lại cô đơn ngậm đắng nuốt cay một mình, không có được một người
chí thân tâm sự để nguôi ngoai niềm oan ức. Trong hoàn cảnh đó, bỗng dưng
thầy sực nhớ đến Tường, người bạn "Tề Thiên Đại Thánh"
thuở nhỏ. Tường đưa được gia đình sang Hoa Kỳ, cư ngụ cách chùa chừng
5 giờ lái xe nên thỉnh thoảng viếng thăm bạn xưa, ôn lại thời ấu thơ
ấm cúng. Từ lâu, thầy không liên lạc với Tường, vì có điểm bất đồng
nhân dịp thầy vừa được tấn phong thượng tọa. Chi tiết cuộc đối
thoại đó, thỉnh thoảng vẫn hiện về ray rức thầy, dù thầy mong muốn
quên đi cũng không thể được. Nguyên thầy thọ giới tỳ kheo hơi trễ,
tuổi đời tuy khá cao mà tuổi hạ mới hơn mười năm, chưa đủ 20 hạ để
tấn phong thượng tọa. Tuy vậy, ở nước ngoài thiên hạ thi đua nhau tự
phong chức rầm rầm, "trung sĩ y tá" còn tự xưng được là
"trung tá y sĩ", nên nếu thầy có mập mờ ngày thọ giới tỳ kheo
để vận động được tấn phong danh vị thượng tọa cũng rất thường tình.
Thầy hí hửng báo tin cho Tường để hắn chia xẻ niềm vui lớn của mình,
không ngờ Tường quá hiểu rõ bí mật của thầy, nên hắn cười ngặt
nghẻo rồi hỏi móc:
-
Thời tại ngũ, nếu thầy phải chạy chọt để thăng quan tiến chức thì
cũng có phần hợp lý. Còn tu hành mà phải chạy chọt... thì... thì quả
thật lạ lùng... khó hiểu...
-
Ơ! thời buổi nầy mà! Thói thường thiên hạ trọng nể danh xưng thượng
tọa, nên mình cũng phải mang danh vị nầy hầu việc phục vụ Đạo Pháp
tăng thêm hiệu năng vậy thôi!, thầy yếu ớt chống chế.
-
Thầy ơi! tỳ kheo nghĩa là gì thầy?
-
Tỳ kheo là chữ Phạn, có nghĩa là "Khất sĩ": hành khất Pháp để
nuôi huệ mạng, và hành khất thực phẩm để nuôi thân xác. Người tu hành
nếu có nghề riêng để nuôi thân dễ sanh tâm giải đãi. Còn đã khất thực
tức là tự đặt mình trong vị thế của kẻ chiến sĩ chỉ có con đường
chiến đấu đến chiến thắng chớ không có con đường lùi; tu sĩ chỉ có
con đường quyết tâm tinh tấn tu hành đạt đạo để trả ơn thí chủ,
chớ không có con đường đọa lạc tu lơ mơ, vì như tổ Triệu Châu đã cảnh
cáo "hưởng của bá tánh mà tu hành không chân chánh, thì kiếp sau chỉ
có cách làm thân trâu ngựa để báo đền mà thôi!". Dĩ nhiên, danh xưng
tỳ kheo lại còn có diệu dụng nhắc nhở tu sĩ tập hạnh khiêm cung - đã
đi ăn xin dù được trau chuốt bằng danh từ hoa mỹ nhận cúng dường thì
sao có thể ngã mạn được -.
Thầy
giảng giải cho bạn đầy đủ và tận tình, hắn đã không lời cảm tạ
mà còn cười thầy, rồi nói:
-
Thầy trả bài thuộc quá! Danh xưng tỳ kheo có ý nghĩa thâm trầm như vậy
nhưng cớ sao thầy lại chê bai chạy theo danh xưng thượng tọa vô nghĩa để
làm gì?
Dù
lời phê bình phát xuất từ người bạn thâm giao, song thầy Quang Lạc cũng
giận tím người. Từ dạo đó, thầy lơ là với bạn. Nay trong hoàn cảnh
cô đơn hiện tại, bỗng dưng thầy quên hết giận hờn. Thầy nhớ đến
bạn, nhớ lại thời trẻ trung hồn nhiên vui vẻ, không phải mang hia, đội
mũ, ràng buộc bởi một thứ danh vị phiền phức nào. Thầy gọi điện
thoại đến Tường trong tâm trạng vui tươi ấy:
-
A lô! Chào "Tề Thiên"!, thầy cười khà khà.
-
Hí! Hí! Mạnh giỏi hả "Tam Tạng"!
-
Tề Thiên đang làm gì đó?
-
Cho thằng cháu ngoại xem phim Tây Du để nó học nghề nhà mà! Đang xem hồi
thứ 18 đây!
Thầy
Quang Lạc nhớ đến thời hai đứa đố Tây Du với nhau, nên vui vẻ ngâm
nga hai câu khai mào:
-
Chùa Quan Âm Đường tăng khỏi nạn,
Xóm
Cao Lão Hành Giả bắt yêu.
-
Khâm phục! Khâm phục! Còn Tam Tạng có việc gì không?
Hồi thứ 28!
Bị đuổi xô
Ngộ Không về Hoa Quả
Rừng Hắc
Tòng Tam Tạng bị yêu.
Thầy
vui đùa với bạn, buộc miệng đố giỡn chơi không ngờ vô tình lại nhắc
đến giai đoạn Tam Tạng vừa nghe lời dèm xiểm của Bát Giái mà xua đuổi
Ngộ Không, kế đó bị lâm nạn Huỳnh Bào cực kỳ nhục nhã. Thầy bỗng
dưng liên tưởng đến hoạn nạn của thầy, rồi ngẩn ngơ thất thần, buông
tiếng thở dài thậm thượt.
Không
biết Tường có hiểu phần nào tâm sự của thầy không, mà hắn bỗng trổi
một tràng cười giễu cợt, rồi la ơi ới:
-
Ngộ Không ơi! thầy đang lâm nạn!
Mau
quay về dẹp đám yêu tinh...
Như
trong cơn mê sảng, thầy Quang Lạc cũng lập lại hai tiếng "Ngộ Không!
Ngộ Không!" vô nghĩa. Rồi trong trạng thái thành khẩn kỳ lạ, thầy
bắt đầu hồi tưởng lại quãng đời tu tập của mình. Ngày xưa nhờ nhân
duyên hiếm có, thầy đã "ngộ được lý không", nhờ vậy mới
phát hoằng nguyện xuất gia học đạo giác ngộ mong cứu độ chúng sanh ra
khỏi bể khổ bờ mê. Những năm đầu dấn thân cho lý tưởng, người
"hành giả" lúc nào cũng canh cánh "ngộ không" trong tâm, nhờ
vậy mới "ngộ năng" tinh tấn kiên trì "bát giới", hầu xứng
đáng với danh vị "sa tăng ngộ tịnh", tức là một tăng nhân
thanh tịnh ở cõi Sa bà. Thế rồi, sau thời sơ phát bồ đề tâm dõng
mãnh đó, sư bắt đầu lăn xả lo việc giáo hội và đã gặt hái được
nhiều thành quả đáng kể. Sư được giáo hội trọng vọng, rồi đám Phật
tử cứ thổi phồng lên khiến sư sung sướng chơi vơi với những lời ca
tụng ở đầu môi chót lưỡi. Sư vô tình xua đuổi lý không lúc nào chẳng
biết để rong ruổi theo cái có giả tạm hời hợt như người thế tục.
Đến xứ người, không có sư phụ kềm chế, cũng vắng bóng những bậc
trưởng thượng tạo điều kiện thuận lợi cho “thế hệ trẻ” phóng
túng, tự do phô trương đạo đức. Sư nói trăng nói cuội gì cũng được
người vỗ tay cổ võ khiến sư càng ngày say mê cái danh dự hão, và cũng
tưởng mình đã trở thành bậc đạo đức cao tăng ngông nghênh cuồng ngạo.
Sư đã không còn “ngộ không” bên cạnh, thì dĩ nhiên Lão Trư dục vọng
không ai kềm chế, gần gũi sư mặc sức to nhỏ khuyến khích sư lặn hụp
trong danh lợi và hưởng thụ những thú vui ở đời như kẻ thế tục. Mà
sống trong một nước văn minh thì đâu thiếu món gì. Bao nhiêu thứ hấp dẫn
bày biện sẵn sàng để thỏa mãn tối đa cho nhu cầu hưởng thụ của mắt,
tai, mũi, lưỡi và thân xác con người. Thật ra thì sư chỉ nuông chiều
mình một chút xíu thôi, sư muốn sống thoải mái đầy đủ tiện nghi, thích
thưởng thức nét đẹp, thích được ru bởi những âm thanh ngọt ngào nhẹ
nhẹ. Và, lần hồi… sư đã lãng quên hẳn lý tưởng tu tâm ngày trước,
đến nỗi bị nội ma, ngoại ma phủ vây phá rối tan tành như tình trạng
ngày hôm nay.
Sau
phút suy tư, sư cương quyết chọn con đường rước “Ngộ Không” về để
dẹp đám yêu ma và kềm chế Lão Trư lợn lòng. Sư lặng lẽ và trang trọng
thắp hương lễ Phật. Sư chân thành cảm tạ Tam Bảo và cũng cảm tạ tiên
sinh Ngô Thừa Ân, tác giả bộ Tây Du diễn nghĩa, từ mấy trăm năm trước
đã có hậu ý nhắc nhở và chỉ điểm cho người hành giả những khúc
quanh co lắc léo trên bước đường tu hành. Sư bắt đầu tụng “Bát Nhã
Tâm Kinh”:
“Bồ
Tát Quán Tự Tại, khi quán chiếu thâm sâu bát nhã ba la mật, bỗng soi thấy
năm uẩn đều không có tự tánh. Thực chứng điều ấy xong, Ngài vượt
thoát tất cả mọi khổ đau ách nạn. Nghe đây Xá Lợi Tử: Sắc chẳng
khác gì không. Không chẳng khác gì sắc. Sắc chính thực là không. Không
chính thực là sắc. Còn lại bốn uẩn kia, cũng đều như vậy cả…”
“Xá
Lợi Tử nghe đây! Thể mọi pháp đều không: Không sanh cũng không diệt;
Không nhơ cũng không sạch; Không thêm cũng không bớt. Cho nên trong tánh
không: Không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không có nhãn, nhĩ, tỉ,
thiệt, thân, ý. Không có sắc thanh hương vị xúc pháp. Không có 18 giới.
Không hề có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không lão tử, cũng
không hết lão tử; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc…
Khi
một vị Bồ Tát nương diệu pháp trí độ bát nhã ba la mật, thì tâm
không chướng ngại, nên không có sự sợ hãi, xa lìa mọi mộng tưởng, xa
lìa mọi điên đảo, đạt Niết Bàn tuyệt đối.
Chư
Phật trong ba đời, y theo bát nhã ba la mật nên đắc vô thượng giác. Vậy
nên phải biết rằng Bát nhã ba la mật là linh chú đại thần, là linh chú
đại minh, là linh chú vô thượng, là linh chú tuyệt đỉnh, là chân lý bất
vọng, có năng lực tiêu trừ tất cả mọi khổ đau ách nạn.
Cho
nên tôi thuyết câu thần chú bát nhã ba la mật rằng: Gate. Gate. Paragate.
Parasamgate. Bodhi svaha.”
Thầy tụng king khoan thai nhưng trang nghiêm thành
khẩn. Thầy tụng một thời kinh, cho đến trăm thời kinh…, càng tụng
càng cảm thấy rõ rệt từng lời kinh thẩm thấu thâm sâu vào tâm mình.
Thầy chấm dứt thời kinh trong trạng thái cực kỳ an lạc. Một khi đã nắm
vững được lý không, thì bao nhiêu điều lo lắng, buồn phiền, bao nhiêu
bóng dáng ma quái yêu tinh đều tan biến không còn dấu vết. Như một đứa
con hoang đàng quay trở về nhà, thầy cảm thấy mình hoàn toàn đổi mới,
tràn đầy niềm tin và sức sống. Vạn vật hốt nhiên cũng thay đổi theo
thầy. Tất cả bỗng trở thành thân thiết, đều chuyên chở tình thương
yêu vô bờ và đều ảnh hiện Pháp Phật nhiệm mầu. Thầy trang trọng
nâng niu xếp quyển kinh nhật tụng, chấp tay chào kính chuông, mõ, tọa cụ…;
vật dụng nào cũng thiêng liêng, và cũng là thiện tri thức của thầy
trên bước đường hành đạo.
Đúng ngay thời
điểm đó, trong tâm thầy bỗng có tiếng nói mong manh như tơ:
- Chúng nó đều
là ma đó thầy! Thầy mau tránh xa thứ nguy hiểm đó, nếu không sẽ bị
chúng hớp hồn thì làm sao về Tây phương được?
Có âm thanh
khác nũng nịu, dễ thương hơn òn ỉ bên tai:
- Thầy đừng
tin anh Ngộ Không! Ai ảnh cũng cho là ma quái cả. Chớ những thứ đó hiền
khô, chẳng bao giờ hại ai đâu? Vả lại, thầy đạo đức thánh thiện,
thầy đã hi sinh cả đời cho dân tộc và đạo pháp thì nếu hưởng thụ
chút đỉnh cũng đâu đáng gì?
Mâu thuẫn nội
tâm lần nầy không làm thầy phân vân bối rối. Người hành giả, trên bước
đường tu hành chông gai trơn trợt, tuy có lần sẩy chơn vấp ngã nhưng không
vì thế mà bỏ cuộc. Trái lại, thương đau cũ chính là những kinh nghiệm
quí giá, kiến tạo cho thầy thêm niềm tin và nghị lực cho sự nghiệp
giác ngộ. Thầy sẽ luôn luôn giữ “Ngộ Không” kề cận, thầy sẽ
nghiêm trì giới luật, và dĩ nhiên không buông lung chạy theo những thú vui
xem hát xướng, thú phè phỡn êm lưng nữa. Rồi thầy điềm tĩnh nhẹ nhàng
mang ghế bành Lazy-boy, máy truyền hình, máy video và cả dàn nhạc âm thanh
nổi ra khỏi phòng.
Bây giờ, câu
châm ngôn thiền “Tam niên bất kiến Phật” hiển nhiên không còn phản
ảnh tâm trạng thầy nữa. Thầy có cảm giác bình an hạnh phúc trong sự
thương yêu chở che của chư Phật. Phật chẳng bao giờ xa lắc xa lơ hay mất
dạng, mà vẫn luôn luôn hiện hữu trong tâm thầy như một giòng suối
bàng bạc và bất tận.
Tháng 6.1990
GHI
CHÚ:
* Tác giảvốn
là kẻ hư thân buông lung dục lạc nên viết truyện nầy để tự trách
mình và cũng để cảm tạ tiên sinh Ngô Thừa Ân, đã lưu lại hậu thế
những bài học đạo pháp thâm trầm.
Tam Tạng pháp
sư có nghĩa là vị sư tinh thông ba tạng kinh điển: Kinh, Luật, Luận.
Trong truyện Tây Du, danh xưng Tam Tạng dụng ý chỉ cho Đại sư Trần Huyền
Trang, một nhân vật có thực trong lịch sử nước Trung Hoa, thời nhà Đường
Ngài rời nước năm 629 và trở về năm 645, tổng cộng là 17 năm: 4 năm
đi đường và 13 năm tu học. Ngài mang về nước được 657 bộ kinh cùng
vô số bảo vật, rồi bắt đầu phiên dịch ròng rã trong 19 năm được 75
bộ kinh, tính chung là 1330 quyển.
Tiên sinh Ngô
Thừa Ân đời nhà Minh vốn là bậc Phật học uyên thâm, đã thần thoại
hóa câu chuyện đi Tây Phương thỉnh kinh của Ngài Trần Huyền Trang, với
những hình ảnh ma quái bên cạnh đám đệ tử huyền hoặc Tề Thiên, Bát
Giới…
Có người cho
rằng nhân vật Tề Thiên tượng trưng cho lý trí, và Bát Giái tượng
trưng cho dục vọng thầm kín của con người. Lý trí hướng dẫn hành giả
tinh tấn tu tập, còn dục vọng lại thúc đẩy con người thỏa mãn những
nhu cầu thầm kín “rất người”, nên vẫn được hành giả mến yêu hơn.
Cũng có thuyết
chủ trương Tề Thiên tượng trưng cho ý thức, lăn xăn như khỉ vượn,
thoạt biến thoạt hiện cực nhanh như “cân đẩu vân”, khôn ngoan mưu mẹo
trăm phương ngàn kế… như được võ trang bằng 72 phép thần thông biến
hóa. Ý thức tài ba, tự tôn tự đại nên mới nảy sinh mộng Tề Thiền
Đại Thánh khống chế cả Trời Đất, mãi đến khi bị núi nghiệp đè nặng
không vùng vẫy nỗi mới “ngộ không” để trở nên một hành giả học
Phật tu thân. Ngũ thức nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân… được thể hiện
qua hình ảnh Trư Bát Giới, một thứ “heo lòng”, tuy cũng có chút đỉnh
thần thông nhưng nặng nề ô trược vì dễ nhiễm trần. Riêng Sa Tăng tượng
trưng cho mạt na thức và a lại da thức, hiện hữu lờ mờ và thứ yếu
đối với con mắt kẻ tục, nhưng nó lại tàng trữ hạt giống thanh tịnh
thường hằng. Ý thức, tức Ngộ Không, tuy cực kỳ tài ba, đối phó với
Trời Đất dường như không đối thủ, đụng độ với ma lòng thì thảm
bại gian nan, chỉ có phương cách truy nguyên nguồn gốc của ma hay nương vào
tha lực, cầu Bồ Tát Quan Âm mới mong diệt trừ chúng được.
Kiến giải của
tiên sinh cao thâm, mà sự hiểu biết của tác giả lại nông cạn nên tác
giả chỉ mạo muội trình bày vài nhận định sơ lược, chớ không dám
đi sâu vào tư tưởng cao siêu của tác giả. Kính mong được những bậc
cao nhân niệm tình chỉ giáo.
Tác
giả cẩn chí.