- BỒ
TÁT VÀ MÃNG XÀ VƯƠNG
- Phạm
Ngọc Khuê
Có
một hôm, Bồ Tát Quán Thế Âm cỡi mây chu du tay cầm bình dương chi, mặc
áo bào trắng nhìn xuống và quan sát thế gian thấy người trần nào kêu cầu
danh hiệu cứu khổ cứu nạn thì Ngài cứu độ.
Khi Ngài đến núi Phổ Đà ở địa phận Triết Giang quận Nam Hải,
thấy núi non tráng lệ, cây cỏ xanh tươi, chung quanh có bể bao bọc, thì
Ngài lấy làm mãn ý và nghĩ rằng: "Tại chốn này nên lập một đạo
tràng trang nghiêm để mở mang Phật pháp, khiến cho chúng sanh có nơi cầu
phước cầu tuệ. Tuy nhiên, núi này lại thuộc La môn Xà Vuơng, vậy ta thử
xuống hỏi mượn địa điểm của y xem sao?"
Nghĩ như thế, Bồ tát Quán Thế Âm liền từ từ hạ mây giáng xuống
núi Phổ Đà.
Đây nói về La môn Xà vương vốn là một con rắn tu hành đã hàng
ngàn năm và đã có phép thần thông. Hôm đó rắn biết Bồ Tát Quán Thế
Âm đến mượn đất Phổ Đà để mở ngôi đạo tràng, hắn muốn lánh mặt
Bồ Tát, liền chui xuống đất để lộ cái đuôi ngoe nguẩy chọc lên trời,
trông chẳng khác chi một cây cổ thụ cao chót vót mà không có cành lá chi
cả. Nhưng cái thủ đoạn thần thông nho nhỏ của y làm sao che mắt được
vị Bồ Tát là bậc đại trí tuệ, đại thần thông? Khi Bồ Tát giáng
lâm xuống bên cạnh cây Xà vương, liền vịn tay vào thân cây, mỉm cười
và tự nói:
- Cây đại thụ này không cành không lá, chắc là đã chết khô rồi,
ta nên chặt đem về làm đồ dùng.
La môn Xà vương nghe thấy nói vậy thì hoảng hồn. Còn đang bối rối,
lại nghe Bồ Tát Quán Thế Âm nói:
- Xà vương! nhà ngươi không cần giả vờ ẩn dấu để trốn tránh
ta. Ta có câu chuyện hay muốn nói với nhà ngươi đây!
La môn Xà vương nghe Bồ Tát nói thế, tự biết là trốn tránh không
khỏi, liền rút đầu ra khỏi đất hỏi Bồ Tát muốn nói chuyện gì? Bồ
Tát Quán Thế Âm liền tỏ bày ý kiến mượn núi Phổ Đà làm nơi thiết
lập đạo tràng. La môn Xà vương nghe xong cự tuyệt ngay:
- Không được, đây là chỗ con con, cháu cháu, đời đời, kiếp kiếp
của rắn tôi dùng làm chỗ căn cứ để ở. Người có uy đức gì mà dám
nghĩ đến chuyện mượn núi Phổ Đà này của tôi?
Bồ Tát trả lời:
- Ta đây không có đại oai thần lực như đức Phật Tổ, nhưng vì
ta thay người tế độ chúng sanh nên không thể không xin nhà ngươi bố thí
cho chút phương tiện là mượn dãy núi này.
La môn Xà vương nghe rồi tỏ vẻ bất phục vì hắn nghĩ rằng:
"Ta tu hành ít ra cũng có hàng ngàn năm nay và có phép thần thông quảng
đại, liệu Bồ Tát Quán Thế Âm có thể đấu phép với ta được
chăng?". Nghĩ như thế rồi hắn liền nói với Bồ Tát:
- Nếu Bồ Tát chỉ biết đến Phật Tổ mà không cần đếm xỉa gì
đến Xà vương ta đây, thì ta đây không ngại gì mà không đấu phép với
Bồ Tát một phen. Nếu Bồ Tát không thắng thì xin tự tiện rút lui đi
nơi khác chớ đừng hy vọng gì mượn núi này.
Bồ Tát nói:
- Tốt lắm, nếu nhà ngươi không thắng nổi ta, thì núi này ta được
tùy ý mượn dùng mà nhà ngươi không được hối hận áo não chứ? Vậy
nhà ngươi định đấu thứ phép gì đây?ù
La môn Xà vương gật đầu và mỉm cười:
- Ta đây không hối hận cũng không áo não chi hết, miễn là Bồ Tát
chịu thừa nhận rằng: Phàm đất đai trong núi này ta sẽ vươn mình bao bọc
được đến đâu là ở trong khoảng đó, Bồ Tát không được mượn.
Bồ Tát gật đầu, La môn Xà vương liền vận dụng thần thông đại
lực vươn mình dài ra khoanh lấy Đà sơn. Nhưng kỳ lạ thay! Bình thường
hắn dùng phép vươn mình ít ra cũng quấn được tới ba lần, nhưng hôm
nay trước mặt Bồ Tát phép thần thông của hắn tan mất, hắn cố hết sức
vươn mình cho dài tưởng chừng như đứt cả đầu đuôi ra làm hai đoạn,
thế mà mình vẫn không dài ra được chút nào. Lúc đó La môn Xà vương mới
thấy sức thần thông của mình không bằng Bồ Tát, nên có ý phục tùng
mà giải hòa rằng:
- Thưa Bồ Tát! Tôi thực có mắt mà không nhìn thái núi Thái sơn, sức
thần thông của tôi quả không địch nổi Bồ Tát. Nhưng có một điều khó
xử là: Con con cháu cháu, gia đình nhà tôi biết ở chốn nào?
Bồ Tát vui vẻ trả lời:
- Nếu nhà ngươi phát tâm hoan hỷ cho ta mượn núi này thiết lập đạo
tràng, thì nhà ngươi sẽ được công đức vô biên, còn con cháu nhà ngươi
vẫn cứ ở nguyên đây như cũ.
Xà vương có ý ngần ngại không quyết:
- Thưa Bồ Tát! Làm sao để người và rắn ở chung cùng nhau được.
Bởi vì người sợ rắn, rắn sợ người, đôi bên nhất định phải giết
hại lẫn nhau mất. Nay Bồ Tát bảo con cháu tôi cứ ở nguyên núi này,
thì tối thiểu tôi và Bồ Tát phải lập một điều ước: "Nếu giống
rắn tôi con nào xâm phạm đến tín đồ Phật giáo, thì rắn đó sẽ do Bồ
Tát xử phạt, nhược bằng tín đồ nào sát hại đến loài rắn chúng
tôi, thì tín đồ đó sẽ vị tôi bắt thường mạng. Chẳng hay tôn ý nghĩ
biện pháp đó như thế nào?".
Bồ Tát Quán Thế Âm nhận rằng Xà vương nói đúng bèn lập đính
ước với Xà vương. Từ đấy núi Phổ Đà trở thành đạo tràng của Bồ
Tát Quán Thế Âm, chùa chiền được dựng lên rất nhiều, Tăng Ni cũng ở
lại rất đông, những khách du lịch thập phương thấy núi này non xanh nước
biếc hùng vĩ vô cùng, đều rủ nhau đến hành hương nghe giảng kinh Phật.
Chỉ hiềm một nỗi chỗ nào chỗ nấy đều có rắn nhỏ, rắn to ẩn nấp
làm cho phải kinh hoàng hãi hùng. Tuy nhiên các rắn này đã nghe lời giáo
thị của Xà vương, cho nên kể hàng bao nhiêu năm chưa từng thấy rắn cắn
một người nào. Trên núi cũng đã có cắm bảng cáo thị thông tri của
nhà chùa: "Các tín đồ và du khách không được làm hại rắn". Thế
nên đôi bên người và rắn bình an vô sự, không xảy ra chuyện gì đáng
tiếc. Trên núi này có một số rắn nhân thường ngày nghe mõ sớm chuông
chiều, cùng tiếng tụng kinh niệm Phật mà phát tâm tu hành rồi thoát khỏi
kiếp rắn cũng không phải là ít.
Có một em nhỏ tên Tiểu Đình thường quen tính chơi nghịch tinh quái,
hay đi quấy phá tổ chim, bắt chim di, bắt chim sẻ về chơi. Nghe nói phong
cảnh trên núi Phổ Đà rất đẹp, có nhiều chim muông thì có ý muốn lên
đó sục sạo lung tung một phen cho hả dạ, đã mấy lần nó năn nỉ cha mẹ
cho theo lên núi; nhưng vì thấy bản tính nghịch ngợm của nó nên lần
nào cũng bị từ chối, khiến cho Tiểu Đình trong lòng buồn rầu sinh oán
cha mẹ. Một ngày kia Tiểu Đình quyết trốn cha mẹ một mình lên núi Phổ
Đà.
Khi đến chân núi thấy người đi lễ Phật rất đông, lũ lượt qua
lại như mắc cửi. Thiện nam, tín nữ cũng không quảng đường xa trời nắng,
không ngại đói khát mỏi mệt, đều theo nhau trèo lên núi với vẻ mặt cực
kỳ thành khẩn niệm cầu. Tiểu Đình vội vã bước theo tới khi miệng khát,
chân mỏi nó liền ngồi lên một cái ghế dài đặt trước cửa điện Tam
Bảo. Lạ thay! Khi ngồi xuống, toàn thân cảm thấy mát mẻ lạ lùng, nó nở
một nụ cười mãn nguyện và lên tiếng khen chiếc ghế:
- Cha chả phiến đá đại lý quý hóa làm sao, trên mặt có bao nhiêu
là điểm điểm, chấm chấm coi thật sướng mắt và lại lạnh như băng
sương, mát đến gan ruột khiến cho những người mỏi mệt ngả lưng lên
trên, thì tiêu hết được khí nóng nực và quên cả sự mỏi mệt đi đường.
Tiểu Đường đang lẩm bẩm một mình khen chiếc ghế, bỗng có người hành
khất ở bên đường nghe thấy phì cười bảo Tiểu Đình:
- Hỡi người bạn nhỏ ngây thơ của tôi ơi! Thử nhìn lại chiếc
ghế xem, nó không phải là chiếc ghế làm bằng đá đại lý đâu. Đó là
lưng con mãng xà đấy. Con mãng xà này tu hành đã hơn ba trăm năm nay rồi,
nay nó phát nguyện lấy thân làm ghế để mọi người nghỉ chân, tiêu sự
nóng nực trong khi leo núi mỏi mệt.
Tiểu Đình nghe xong nhảy phắt dậy, mặt trắng phệt như cắt không
còn hột máu, nổi gai khắp người, nó giương to đôi mắt rồi hỏi người
ăn mày:
- Thế đầu rắn và đuôi rắn sao không thấy?
Người ăn mày thấy Tiểu Đình vẫn còn run rẫy bất giác cười và
nói rằng"
- Không những chiếc ghế này là con đại xà mà cả chiếc ghế đối
diện cũng là đại xà nốt, vì hai con rắn này sợ thiện nam tín nữ
trông thấy hình rắn mà sợ nên đầu nó chui vào trong cung Tam Bảo nên
không ai nhìn rõ được, còn đuôi thì nó cắm sâu dưới đất. Tuy nhiên bạn
đừng sợ, ở trên núi Phổ Đà này rắn chưa từng hại một ai cả! Miễn
là chúng ta đừng nghịch phá và giết hại dòng họ rắn.
Tiểu Đình vẫn kinh hoảng ngắm đi ngắm lại một lần nữa, thấy
hai khúc rắn này dài ước mười trượng chẳng khác gì hai chiếc ghế
dài đặt trước cửa điện Tam Bảo. Những cái hoa văn bóng loáng đẹp
như đá đại lý đều là vẩy rắn có màu sắc như vân đá. Tiểu Đình sợ
quá không dám ngồi nữa và kiếm đường lánh đi nơi khác. Tiểu Đình trốn
nhà ra đi, lẽ tất nhiên không mang theo đồ ăn, lại nhân chạy nhanh nhiều
nên miệng khát dạ đói nôn nao chưa biết tính sao, thì may thay trên núi Phổ
Đà, trong chùa thường vẫn sẵn có cơm chay nước vối, thiện nam tín nữ
vào đó cứ việc ăn uống tự nhiên. Tiểu Đình mừng quá nhảy vào trong
ăn uống cho thỏa thích, xong rồi lại đi ngao du khắp núi. Chiều hôm đó
nó ngủ trong chùa, nằm bên một cụ già. Hôm sau dậy sớm, nó nghe thấy cụ
già ấy đang hỏi một vị sư phó:
- Xin Sư phó chỉ giáo cho câu chuyện này. Nguyên đêm qua vào khoảng
nữa đêm, tôi sực tỉnh dậy thấy bóng trăng le lói bên giường như tăng
thêm cảnh mỹ lệ êm đềm của núi Phổ Đà. Tôi liền bước ra khỏi phòng
bồi hồi ngắm cảnh núi dưới trăng trong, bỗng nhiên tôi thấy xuất hiện
một cây khổng lồ không cành không lá, cao vút ở giữa trời, chung quanh
có nhiều cây cối khác, tôi lại gần rờ vào cây khổng lồ thì thấy
mát lạnh, tôi có trăm lạng vàng kim muốn mua cây đó của quý tự đem vềø
chơi, vậy dám hỏi cây đó là cây gì và hiện giờ ở đâu?
- Làm gì có thứ cây đó, lão tăng ở đây đã trọn ba mươi năm
nay, nội các thứ cây, thứ hoa ở trên núi này lão tăng đều biết hết,
không có cây nào như thế cả.
Cụ già nhất định cãi lại :
- Có mà, đêm qua tôi trông thấy rõ ràng và chính tôi đã rờ lên
trên thân cây vừa nhẵn vừa mát, thì làm sao Sư phó bảo rằng là không
có cây đó. Chẳng tin thì xin người cùng tôi đi tìm xem!
Giữa lúc hai người rũ nhau định đi, thì Sư phó trụ trì khác nghe
thấy liền vào xua tay ngăn lại:
- Các vị không cần phải đi xem, cây khổng lồ đó thật ra không
có đâu. Đêm qua, chắc rằng ông thấy La môn Xà vương hiện thân đấy.
Ai thấy được Xà vương thì ít lâu cũng gặp điềm hay, vậy tôi mừng
cho ông đấy.
Cụ già nghe xong rất lấy làm vui mừng nhưng hãy còn bán tín bán
nghi liền hỏi lại:
- Có thật như thế không? Nếu quả tôi sẽ gặp chuyện hay thì tôi
nhất định thành tâm xây một tòa bảo tháp bảy từng để cúng dường.
Vị Sư phó trụ trì gật đầu đáp:
- Thật thế đấy! Xà ở đây thì nhiều nhưng Xà vương thì ít người
trông thấy ông ạ. Chỉ ai có phúc mới được gặp mà thôi.
Tiểu Đình ngồi gần bên cạnh nghe rõ đầu đuôi, bất giác trong
lòng rất thắc mắc về câu chuyện Xà vương ở núi Phổ Đà, cho là một
chuyện thần kỳ quá sức.
Tiểu Đình lại bắt đầu đi theo thiện nam tín nữ vãng cảnh như hôm
qua, mặc dù nó đã được nghe chuyện thần bí của Xà vương, nhưng vì
trong lòng nó vẫn có bản tánh sát sanh, cho nên khi đi đường đôi mắt trợn
trừng, nhìn sau nhìn trước, nhìn tả nhìn hửu, xem có con chim nào trên
cành, hoặc chuồn chuồn, bươm bướm bay qua thì tìm cách bắt ném cho chết
hoăïc bắt đem về làm trò chơi cấu chân, bẻ cánh cho hả thích.
Đến một đường nọ, nó thấy một con bò cạp đuổi theo một con
rắn, nó dừng chân lại ngắm thấy rắn nhỏ sợ quá đang lao đầu cố chạy
mà bò cạp thì hết sức đuổi theo. Tới một khe nước nhỏ, rắn nhanh
như chớp bơi sang bờ bên kia, còn bò cạp vì không biết bơi nên đành dừng
lại nhìn theo con rắn với vẻ thất vọng. Tiểu Đình thấy thế vụt nghĩ:
"Chuyện này hay quá ta! Để ta lấy cây bắt cầu cho con bò cạp qua khe
đánh nhau với rắn coi chơi."
Nghĩ rồi nó làm ngay, bò cạp sang qua được bên khe rồi thừa lúc rắn
không để ý, sấn lại cắn luôn làm cho con rắn đau đớn, quằn quại một
lúc lâu, rắn lăn quay ra chết. Tiểu Đình nhìn sướng mắt reo lên, rồi vừa
đi vừa nhảy múa ca hát tỏ ra khoái ý.
Khi mặt trời gần lặn những ánh vàng rớt lại trên núi Phổ Đà,
phủ lên mọi vật tạo nên một màu vàng quắc thật đẹp mát. Tiểu Đình
tìm một ngôi chùa vào ngủ qua đêm, khi vào tới cửa, Tri khách lão sư nhìn
Tiểu Đình lắc dầu ra vẻ thương hại nói rằng:
- Em nhỏ ơi! Ta xem sắc mặt em có ám khí che phủ, ta e rằng tối nay
em lại nghỉ ở đây, nhưng sáng mai em không còn sống để ra về nữa.
Tiểu Đình không hiểu câu nói trố mắt ra nhìn và hỏi lại:
- Thế nghĩa là làm sao, con không hiểu ý Thầy định nói gì?
Tri khách lão sư chăm chú nhìn Tiểu Đình một hồi lâu rồi căn vặn
hỏi:
- Em thử nghĩ gần đây em có làm một việc gì tổn đức không?
Tiểu Đình quả quyết trả lời:
- Thưa Thầy, con không hề làm một sự gì tổn dức cả.
Sư phó lắc đầu lần nữa:
- Em thử nghĩ một lần nữa coi, hoặc giả trên núi Phổ Đà này
trong khi đi đường em có sát hại một sinh vật nào không?
Tiểu Đình ngẫm nghĩ hồi lâu:
- Thưa Thầy! Hôm qua giữa đường con thấy một con bò cạp đuổi một
con rắn nhỏ. Rắn nhỏ chạy đến bên khe nước bơi sang bờ bên kia. Bò cạp
không lội nước được nên dừng, con liền nhặt một cành cây bắt qua
bên kia làm cầu. Bò cạp nhờ đó qua được khe và đuổi rắn cắn, nhân
thế mà rắn chết.
Tri khách lão sư cau mày:
- Chao ôi! Nhơn vì tội nghiệp đó thế mà em chẳng biến sắc mặt,
việc này khó khăn lắm đấy. Không thể trốn thoát tay Xà vương được.
Nhân vì trên núi này, khi xưa Bồ Tát Quán Thế Âm đã lập qui ước với
Xà vương rằng: "Ai mà giết chết con cháu Xà vương thì sẽ bị Xà vương
đòi thường mạng". Vậy tối nay em sẽ chết về tay Xà vương mất.
Tiểu Đình quá sợ cố van cầu:
- Xin Thầy cứu con với. Ba má con ở nhà chắc là đang trông đợi
con lắm.
Tri khách lão sư lắc đầu than thở:
- Đó là tội nghiệp do con gây ra, Thầy không có cách nào cứu được.
Tiểu Đình rỏ hai hàng lệ ròng ròng, túm chặt lấy vạt áo vị sư
mà van lơn không chịu bỏ ra một phút:
- Nhất định Thầy cứu được con và từ nay con nguyện sẽ vâng lời
cha mẹ, không bỏ nhà đi chơi và con nguyện xin làm người hiền lành
không dám giết hại sanh linh nữa. Con không bắt chim, bắt bươm bướm, chuồn
chuồn nữa.
Tri khách lão sư cúi đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi từ từ nói:
- Em ơi, giờ đây Thầy chỉ biết hết sức vì em mà tụng kinh trước
chư Phật, Bồ Tát để nhờ công đức tụng kinh may ra cứu thoát oan nghiệp
này không, ngoài ra cũng còn phải nhờ phúc đức của nhà em cứu thêm.
Ngoài cách đó ra, Thầy không còn phương pháp nào cả.
Tiểu Đình gật đầu lia lịa tỏ vẻ hết lòng cảm kích và nhất
thiết y theo lời tri khách sư phó xếp đăït cho. Tri khách sư phó liền thả
dây cho cái chuông lớn treo ở trước cửa Tam Bảo hạ thấp xuống và bảo
Tiểu Đình núp vào trong niệm Phật luôn mồm, còn sư phó thì khêu đèn,
đốt hương, mở kinh rồi quỳ trước bàn Phật tụng kinh.
Quái lạ thay! Khi trông vào kinh điển, tri khách rất lấy làm ngạc
nhiên vì cả quyển kinh không nhìn thấy một chữ nào cả, khi cầm dùi gõ
mõ thì mõ cũng chẳng kêu. Tri khách sư phó ba lần gõ, ba lần xem vào kinh
mà trước sau vẫn nguyên tình trạng như thế, thì trong lòng lấy làm sợ
hãi muôn phần, thật là định nghiệp của đứa nhỏ không thể trốn
thoát được.
La môn Xà vương lúc đó ở ngoài tiến vào phía quả chuông, quấn ba
vòng chung quanh quả chuông, rồi từ từ buông ra và lặng lẽ ra khỏi cửa
Tam Bảo biến mất.
Tri khách lão sư thấy Xà vương đi rồi, liền chạy mau đến kéo
chuông lên xem thì mặt mũi tái mét đi. Nguyên lai khi kéo chuông lên thì
trong quả chuông chẳng thấy Tiểu Đình đâu, mà chỉ còn sót lại một vũng
máu và một mớ tóc. Vị sư nhắm nghiền hai mắt lại miệng niệm:
- A Di Đà Phật và tự lẩm bẩm một mình: "Định nghiệp không
thể chuyển được. Định nghiệp không có cách nào chuyển được, làm ra
thời phải chịu lấy, nhân quả tơ hào không sai! Há chẳng đáng cẩn thận
lắm ru?"
Tri khách lão sư vì việc Tiểu Đình hiếu sát nên tụng kinh niệm Phật
luôn trong ba ngày để cầu cho vong hồn Tiểu Đình được sớm giải thoát
về nơi Cực lạc.
******
Lời
nhắn nhủ với các em bé:
Nỗi khổ của một bầy chim con ngóng cổ để chờ mẹ tha mồi về,
khi mẹ nó đã bị các em bắn chết.
Nỗi khổ của các con dế bị các em dùng tóc quấn vào đầu quay mòng
mòng và ngắt đầu nó đi.
Nỗi khổ của những con bươm bướm, chuồn chuồn, châu chấu bị
các em ngắt cánh, vặt chân.
Các em có nhận thấy những sự đau khổ đó không? Nếu thấy, chắc
không em nào nỡ có những hành động tàn ác như trên.
Đừng tưởng giết loài vật nhỏ, dù gián tiếp hay trực tiếp là
không có tội. Và các em có sợ quả báo đời sau đầu thai làm chim, làm dế,
bướm, chuồn chuồn, châu chấu... để trả nợ nghiệp quả các em đã vay
từ trước. Để rồi chịu những nỗi đau khổ ấy không? Hãy hướng về
Bồ Tát Quán Thế Âm để học hạnh từ bi, bác ái thương hết tất cả
muôn loài.
(Thanh
Sơn
sưu tầm và đánh máy từ Truyện Cổ
tích Phật Giáo)
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/mangxavuong.htm