...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Đạo Phật và
Chính Trị
- Hòa thượng Sri Dhammananda
- Bình Anson trích dịch
Giới thiệu: Bài nầy do Bình Anson lược dịch
từ bài "Buddhism and Politics" trong quyển sách "What Buddhists
Believe" của Hòa Thượng Dhammananda, trang 229-236, do hội Buddha Educational
Foundation ấn tống năm 1995.
-oOo-
Phật xuất
thân từ giai cấp vương tướng (*), và do đó, Ngài đã có nhiều liên hệ
với các vị quốc vương, hoàng tử, quan lại trong triều đình. Mặc dù
có nhiều liên hệ như thế, Ngài không bao giờ dùng các thế lực chính trị
để truyền đạo, và Ngài cũng không bao giờ cho phép giáo pháp của Ngài
bị lợi dụng cho các ý đồ chính trị. Thế nhưng ngày nay, đã có nhiều
người cố ý gán ghép danh hiệu của Ngài với những chủ thuyết chính trị
khác nhau. Những người đó đã quên rằng các hệ thống chính trị mà
chúng ta quen thuộc ngày nay là bắt nguồn từ phương Tây, xẩy ra sau thời
kỳ Đức Phật còn tại thế một thời gian rất lâu. Đối với những
người đang cố công dùng các danh hiệu của Đức Phật cho những ý đồ
riêng tư của họ, họ cần phải nhớ rằng Đức Phật là bậc Chính Đẳng
Chính Giác, vượt lên trên các chuyện lo âu của thế gian.
Có một vấn đề cơ bản mà ta phải
nhận định khi tôn giáo bị pha trộn với chính trị. Căn bản của tôn
giáo là đạo đức, lòng trong sạch, và đức tin; trong khi đó, căn bản của
chính trị là quyền lực. Trong tiến trình lịch sử, tôn giáo thường bị
lạm dụng để hợp thức hóa những người cầm quyền và sự áp dụng của
quyền lực. Tôn giáo đã bị lạm dụng để biện minh cho chiến tranh và
thôn tính, đàn áp, chém giết tàn bạo, nổi loạn, tàn phá các công trình
văn hóa và nghệ thuật.
Khi tôn giáo bị sử dụng để gia
tăng thế lực chính trị thì tôn giáo sẽ phải hi sinh các lí tưởng đạo
đức cao quí và trở nên mất gốc, nhượng bộ cho các thế lực chính trị
trong thế gian.
Mục đích của Phật Pháp không phải
nhắm đến việc thành lập các định chế và cơ cấu chính trị mới.
Trên cơ bản, tôn giáo tìm cách giải quyết các vấn đề trong xã hội bằng
cách giáo hóa mỗi cá nhân, vốn là thành viên của xã hội, và bằng cách
đề nghị các nguyên tắc tổng quát để điều hướng xã hội tiến đến
một phong thái nhân bản, cải thiện đời sống của mọi thành viên, và cổ
động sự phân phối các nguồn vật lực một cách công bằng hơn.
Bất cứ một thể chế chính trị
nào cũng có một giới hạn trong sự bảo vệ hạnh phúc và sung túc của
người dân trong thể chế đó. Không một hệ thống chính trị nào, dù rằng
nó có vẻ rất lí tưởng, có thể mang lại hạnh phúc và hòa bình nếu người
dân trong thể chế đó còn bị bao trùm bởi lòng tham, sân hận, và mê si.
Thêm vào đó, dù có theo một hệ thống chính trị nào đi nữa, cũng còn
có những nhân tố phổ quát mà từng cá nhân trong xã hội phải trực diện:
kết quả của các nghiệp thiện và bất thiện của riêng mình, và sự khiếm
khuyết và thiếu vắng của một nền an lạc trường cửu vì bản chất của
thế gian vốn là hoạn khổ, vô thường, và vô ngã. Đối với những người
con Phật, không một nơi nào trong cõi Ta Bà nầy là có được một tự do,
giải thoát thật sự, kể cả các cõi tiên của chư thiên.
Một hệ thống chính trị tốt và
công bằng -- có những bảo đảm cho các quyền căn bản của con người, và
có những định chế giám sát và cân bằng việc sử dụng quyền lực --
là điều kiện quan trọng cho cuộc sống hạnh phúc trong xã hội. Tuy
nhiên, chúng ta cũng không nên bỏ quá nhiều công sức và thì giờ để tìm
kiếm vô tận một hệ thống chính trị toàn hảo để giúp con người được
hoàn toàn tự do. Tự do tuyệt đối không thể nào có được trong các định
chế chính trị, mà chỉ có được trong tâm thức khi nó được giải thoát.
Để được giải thoát, chúng ta cần phải nhìn vào nội tâm của chính
mình, và nỗ lực giải phóng nó ra khỏi các gông xiềng của vô minh, hận
thù và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đích thực tuyệt đối chỉ có được
khi nào chúng ta dùng Chính Pháp để phát triển tâm ý qua lời nói và hành
động hướng thiện, và để huân tập tâm ý, để phát triển tiềm năng
tâm linh, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của giác ngộ.
Mặc dù chúng ta công nhận về sự
lợi ích trong việc tách rời tôn giáo và chính trị, và về các giới hạn
an lạc và hạnh phúc mà hệ thống chính trị mang đến, nhưng cũng có nhiều
khía cạnh trong các lời dạy của Đức Phật có những tương quan với các
bố cục chính trị ngày nay.
Thứ nhất, Đức Phật đã
giảng dạy về tính cách bình đẳng của con người -- cả mấy ngàn năm
trước tuyên ngôn của Abraham Lincoln (Tổng Thống Mỹ). Ngày dạy rằng các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội chỉ là những hàng rào nhân tạo do xã hội
dựng ra. Việc sắp xếp thứ bậc của loài người, theo lời Ngài, chỉ
có thể dựa trên phẩm chất giới hạnh của họ mà thôi.
Thứ hai, Đức Phật khuyến
khích tinh thần hợp tác bình đẳng và tích cực tham gia đóng góp trong xã
hội. Đây là một tinh thần đã được cỗ võ trong tiến trình chính trị
của các xã hội hiện nay.
Thứ ba, Ngài đã không chỉ
định một người nào để kế thừa Ngài. Ngài chỉ dạy rằng mọi người
phải tự mình mà tu học, lấy Chính Pháp làm nền tảng và làm nơi nương
tựa. Các thành viên của Tăng Đoàn chỉ chịu sự hướng dẫn của Giáo
Pháp và Giới Luật -- như là một bộ luật sinh hoạt. Cho đến ngày nay, mỗi
tu sĩ của Tăng Đoàn đều phải tuân thủ bộ Giới Luật đó để làm kim
chỉ nam hướng dẫn cho mọi sinh hoạt tu học của mình.
Thứ tư, Đức Phật đã
khuyến khích tinh thần tham vấn và tiến trình dân chủ. Điều nầy được
thể hiện qua cộng đồng tăng sĩ, trong đó mỗi thành viên đều có quyền
quyết định về các vấn đề chung. Khi có một nghi vấn nghiêm trọng cần
phải được giải quyết, các vấn đề có liên quan được đem ra giữa các
tu sĩ để thảo luận trong một phương cách tương tự như trong hệ thống
quốc hội ngày nay. Tiến trình tự quản trị nầy có lẽ sẽ làm nhiều
người ngạc nhiên vì nó đã được áp dụng trong các cộng đồng tăng
sĩ Phật Giáo tại Ấn Độ trong 2.500 năm trước đây, và phương cách điều
hành có rất nhiều điểm tương đồng với các thủ tục thảo luận trong
quốc hội.
Một tu sĩ, tương tự như vị
"phát ngôn nhân", được chỉ định để có một tiếng nói chung,
đại diện cho cộng đồng. Một tu sĩ khác, tương tự như vị "chủ tịch",
được bầu ra để điều hành diễn đàn. Các vấn đề được đưa ra
như các các nghị trình để được thảo luận công khai. Trong một vài trường
hợp khi vấn đề đó có tính cách nghiêm trọng và phổ quát, thì nó có
thể được đem ra thảo luận nhiều lần, tương tự như các vòng thảo luận
của quốc hội về các dự luật. Nếu qua các cuộc thảo luận mà vẫn
còn nhiều ý kiến xung khắc, bất đồng, thì vấn đề sẽ được biểu
quyết qua một cuộc bỏ phiếu để lấy quyết định theo đa số.
Đạo Phật khuyến khích nền tảng
đạo đức và việc sử dụng quyền lực công cộng với ý thức trách nhiệm.
Đức Phật tuyên giảng về hòa bình và bất bạo động như là một thông
điệp phổ quát. Ngài không chấp nhận bạo lực và hủy hoại sinh mạng.
Ngài tuyên bố rằng không có một chiến tranh nào là chiến tranh của công
lí. Ngài dạy: "Người thắng tạo căm thù, kẻ thua sống khổ sở.
Người nào từ bỏ thắng và bại thì người đó sống an vui và hạnh
phúc." Chẳng những Đức Phật dạy về hòa bình và bất bạo động,
có lẽ Ngài cũng là vị Giáo Chủ đầu tiên và duy nhất đã ra tận chiến
trường để tìm cách ngăn chận chiến tranh. Ngài đã hóa giải sự xung đột
giữa bộ tộc Sakya và bộ tộc Koliya khi họ muốn khởi sự đánh nhau vì
tranh chấp nước sông Rohini. Ngài cũng đã thuyết phục vua Ajatasanu bỏ ý
định tấn công vương quốc của bộ tộc Vaiji.
Đức Phật đã giảng dạy về sự
quan trọng và về các điều kiện thiết yếu của một chính phủ tốt.
Ngài dạy rằng khi người lãnh đạo chính phủ tham nhũng và bất công thì
xứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Ngài chống lại sự
tham nhũng và đã dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dựa trên các
nguyên tắc nhân ái.
Ngài nói: "Khi người lãnh đạo
xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình
và thiện ái. Khi tirều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan
chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình
và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi
các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có
tính công bình và thiện ái." (Tăng Chi Bộ Kinh).
Trong Kinh Cakkavatti Sihananda (Chuyển
Luân Thánh Vương Sư Tử Hống, Trường Bộ Kinh), Đức Phật nói rằng các
điều hung ác và tội phạm, như ăn cắp, lường gạt, bạo lực, thù
ghét, bạo tàn, ... đều bắt nguồn từ sự nghèo khó. Quốc vương và triều
đình có thể dùng sự trừng phạt để kiềm chế tội phạm, nhưng không
bao giờ có thể tiêu trừ các tội phạm bằng quyền lực của mình.
Trong Kinh Kutadanta (Trường Bộ
Kinh), Đức Phật chủ trương phát triển kinh tế, thay vì dùng quyền lực,
để xóa giảm tội phạm. Triều đình phải biết sử dụng các nguồn tài
nguyên để cải thiện điều kiện kinh tế trong nước. Họ phải biết phát
triển nông nghiệp và thôn quê, trợ giúp giới buôn bán, cung cấp lương bỗng
đầy đủ cho công nhân để bảo đảm một đời sống tốt có nhân phẩm.
Trong Kinh Bổn Sanh (Jakata), Đức Phật
có đưa ra 10 nguyên tắc của một chính quyền tốt, gọi là "Thập Vương
Pháp" (Dasa Raja Dhamma). Mười nguyên tắc nầy vẫn có thể áp dụng
trong thời đại ngày nay cho bất cứ một chính quyền nào, để quản trị
xứ sở một cách hài hòa. Đó là:
- Phải cởi mở và không ích kỉ;
- Duy trì đạo đức cao;
- Sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân để phục
vụ cho an sinh của dân chúng;
- Phải thành thật và ngay thẳng;
- Phải dịu dàng và giàu lòng nhân ái;
- Phải sống giản dị để làm gương cho dân
chúng;
- Phải vượt lên trên mọi hận thù;
- Biết áp dụng tinh thần bất bạo động;
- Biết nhẫn nại;
- Tôn trọng ý kiến dân chúng, và biết phát
triển sự hòa bình và hòa hợp.
Về cách hành xử của người lãnh
đạo thì Ngài giảng thêm (Kinh Cakkavatti Sihananda):
- Người lãnh đạo tốt phải biết cư xử công
bình, không thiên vị bất cứ nhóm nào;
- Người lãnh đạo tốt không bao giờ gieo
lòng thù hận trong dân chúng;
- Người lãnh đạo tốt không bao giờ ngần ngại
áp dụng luật pháp khi cần thiết;
- Người lãnh đạo tốt phải thông hiểu luật
pháp rõ ràng mỗi khi áp dụng. Luật pháp không phải áp dụng chỉ vì người
ấy có uy quyền, mà phải được áp dụng hợp tình và hợp lí.
Bộ Mi Tiên Vấn Đáp (Milanda Panha)
có viết: "Nếu người nào không có tài năng, không đạo đức, không
phạm hạnh, không xứng đáng là vua, mà lại tự mình tôn xưng là vua hay
người lãnh đạo với nhiều quyền lực thì người ấy sẽ bị nguyền rủa
và trừng phạt bởi dân chúng, bởi vì người ấy, vì không xứng đáng
và không tài năng, đã tự đặt mình một cách vô lí vào vị trí của người
lãnh đạo. Người lãnh đạo, cũng như những người đã vi phạm các
nguyên tắc đạo đức và giới luật căn bản của xã hội loài người, sẽ
bị trừng phạt như bao nhiêu người khác, nhất là đối với những người
lãnh đạo ăn cắp tài sản của dân chúng." Kinh Bổn Sanh cũng có
đề cập đến người lãnh đạo nào mà chỉ trừng phạt người vô tội
và không trừng phạt người phạm tội thì người lãnh đạo ấy không xứng
đáng lãnh đạo xứ sở.
Vì vậy, Trung Bộ Kinh cũng có nói
về vị quốc vương biết tự thăng tiến và lúc nào cũng nỗ lực gìn giữ
hành động, lời nói và tâm ý, lúc nào cũng biết lắng nghe ý kiến của
dân chúng về sự cai trị của mình, để biết mình có phạm lỗi lầm
nào không trong khi điều hành đất nước. Nếu vị quốc vương ấy cai trị
xấu, người dân sẽ than phiền rằng họ đang bị phá hoại bởi một vị
lãnh đạo xấu vì các chính sách hà khắc, nhũng lạm, bất công, sưu cao
thuế nặng, và do đó, dân chúng sẽ có phản ứng chống lại vị vua ấy.
Ngược lại, nếu vị vua cai trị tốt, thì dân chúng sẽ chúc tụng:
"Cầu xin cho quốc vương của chúng tôi được trường thọ."
Lời dạy của Đức Phật về các
bổn phận đạo đức của vua chúa để sử dụng công quyền, bảo đảm
an sinh người dân đã giúp cho vua A Dục (Asoka), vào thế kỉ 3 TCN, cai trị
đất nước của ông. Hoàng Đế A Dục, là một thí dụ điển hình của
nguyên tắc đạo đức nầy, đã sống và thực hành Chính Pháp cho tất cả
mọi người dân trong triều đại của ông. Ông quảng bá chính sách bất bạo
động đến các vương quốc lân cận, cam đoan các thiện ý của ông, và gửi
sứ giả đi khắp nơi để truyền bá thông điệp hòa bình và bất bạo động.
Ông cỗ vỏ sự ứng dụng của các nguyên tắc đạo đức trong xã hội,
như chân thật, từ bi, bác ái, bất bạo động, nhân từ, không hoang phí,
không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loài vật. Ông khuyến
khích tự do tôn giáo và bình đẳng tương kính giữa mọi đức tin. Ông thường
du hành thuyết giảng Đạo Pháp đến người dân ở tận thôn quê. Ông thiết
lập các công trình công cộng như bệnh xá, cung cấp thuốc men, trồng cây
gây rừng, đào giếng, các công trình thủy lợi, và nhà tạm trú. Ông cũng
đặc biệt ngăn cấm việc đối xử tàn ác với các loài thú vật.
Có người cho rằng Đức Phật là
một nhà cải cách xã hội. Trong các bài giảng, Ngài đã lên án hệ thống
giai cấp và Ngài công nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài giảng
về nhu cầu cải thiện các điều kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm
quan trọng của việc phân bố công bằng các của cải giữa người giàu
và nghèo, nâng cao vị trí của phụ nữ, khuyến khích việc áp dụng tinh
thần nhân bản trong guồng máy hành chính. Ngài dạy rằng xã hội phải
được điều hành trên tình thương và lòng từ bi, chứ không dựa vào
lòng tham lam. Hơn thế nữa, sự đóng góp của Ngài cho nhân loại còn cao
quí hơn, vì Ngài còn đi xa hơn các nhà cải cách xã hội thời đó, vì
không ai đã có thể chỉ thẳng vào cốt lõi của các cơn bệnh trong tâm
thức của con người. Chỉ ở trong tâm thức thì sự cải cách mới thật
sự có ý nghĩa. Các cải cách bên ngoài do các quyền lực áp đặt thì chỉ
có hiệu quả ngắn hạn vì nó không có cội rể. Chỉ có cải cách nào dựa
trên căn bản cải thiện tâm thức thì nó mới có cội rể vững chắc.
Có cội rể vững chắc thì các cành nhánh của cải cách xã hội mới được
phát triển tươi tốt, vì chúng được nuôi dưỡng bởi nguồn sinh lực liên
tục, đó là nguồn tâm lực của dòng sinh hóa trong cuộc đời. Như thế,
các cải cách xã hội chỉ có thể khả thi khi nào mà tâm ý của con người
đã được sửa soạn sẳn sàng cho các việc đó. Các cải cách đó sẽ tiếp
tục sống mạnh khi nào mà con người sẳn sàng nuôi dưỡng chúng qua sự
chuyên cần và tôn trọng sự thật và công lí, và tôn trọng đời sống của
đồng bào của họ.
Giáo thuyết của Đức Phật không
dựa trên một "Triết lý Chính trị" nào cả. Giáo thuyết nầy
không khuyến khích con người đi vào con đường hành lạc vật chất. Giáo
thuyết nầy vạch ra con đường đưa đến giải thoát tối hậu, là Niết
Bàn. Nói một cách khác, mục tiêu tối hậu của Giáo thuyết ấy là đoạn
diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con người trong vòng trầm luân, khổ
ải. Một câu thơ trong Kinh Pháp Cú (câu 75) đã tóm tắt điều nầy: "Con
đường đưa đến thủ đắc vật chất là một con đường, còn con đường
đưa đến Niết Bàn là một con đường khác."
Điều nầy không có nghĩa là các
Phật tử không nên tham gia vào tiến trình chính trị, vốn là một thực tại
xã hội. Đời sống của mọi người trong xã hội được uốn nắn bởi
luật pháp và các qui định, bởi các bố trí kinh tế của quốc gia, bởi
guồng máy quản trị hành chính, và như thế chịu ảnh hưởng của các bố
cục chính trị của quốc gia đó. Tuy nhiên, nếu người cư sĩ Phật tử có
muốn tham gia chính trị thì người đó không nên lạm dụng tôn giáo để
mưu đồ tạo các quyền lực chính trị cho mình. Còn các tu sĩ vốn đã xuất
gia, lìa đời sống thế tục để dấn thân vào con đường tôn giáo tinh
thuần, thì không nên có những liên hệ quá tích cực vào các hoạt động
chính trị.
Tóm lại, Đức Phật là bậc Giác
Ngộ, vượt lên trên mọi vấn đề của thế gian. Tuy nhiên, trong suốt cuộc
đời hoằng dương Chính Pháp, Ngài luôn luôn có những lời dạy quí báu
cho các quốc vương và triều đình để quản trị tốt xứ sở của họ.
Chú thích: (*) Xã hội Ấn Độ thời đó có
4 giai cấp: Giáo sĩ (Bà La Môn), Vương tướng (Sát Đế Lợi), Buôn bán (Vệ
Xá), và Nông dân (Thủ Đà La).
http://www.buddhismtoday.com/viet/xhh/003-chinhtri.htm
|
|