...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Xuân Di-lặc
- Cư sĩ Chính Trực
(Toronto-Canada)
Theo truyền thống từ lâu đời của
Tổ Tiên, từ nơi đô thành thị tứ, cho đến nông thôn xóm làng, vào
ngày mùng một Tết Nguyên Đán hằng năm, chúng ta cùng gia đình, thường
hay đi chùa, lễ Phật tụng kinh, chí tâm cầu nguyện, chư Phật mười
phương, thùy từ gia hộ, nhà cửa bình yên, gia đạo hạnh phúc, từ đầu
năm chí những cuối năm. Đồng thời chúng ta cũng gửi đến nhau những lời
cầu chúc một năm tốt đẹp, vạn sự như ý, an lạc kiết tường. Trong
nhà Phật, ngày mùng một Tết Nguyên Đán đầu năm cũng là ngày vía đức
Bồ-tát Di-lặc.
Chúng ta thường tụng: Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di-lặc Tôn
Phật. Nghĩa là theo kinh điển Phật giáo, Bồ-tát Di-lặc sẽ thành một vị
Phật trong tương lai. Như vậy, lễ vía đức Bồ-tát Di-lặc ngày đầu
năm, đối với mọi người, mang ý nghĩa hy vọng được vạn sự kiết tường,
vạn sự như ý trong năm mới. Còn đối với những người tu học, ngày
vía đức Bồ-tát Di-lặc còn mang một ý nghĩa trọng đại, đó là sự
tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, quyết tâm quyết chí để chuyển hóa tâm
trí, từ một phàm phu tục tử, đầy dẫy phiền não và khổ đau của ngày
hôm nay, trở thành sáng suốt, giác ngộ và giải thoát của một vị Phật
trong tương lai.
Nhân dịp đầu xuân năm nay, chúng ta hãy lắng lòng, dẹp
qua một bên niềm ưu tư về những chuyện thăng trầm của thế sự, cùng
nhau cố gắng tìm hiểu về đức Bồ-tát Di-lặc và những hạnh nguyện của
Ngài, để áp dụng ngay trong cuộc sống của người Phật Tử tại gia, nhằm
mục đích tạo được sự an lạc và hạnh phúc một cách trọn vẹn và
thiết thực.
Theo quan niệm thông thường của dân gian, người ta thường
kiêng cử đủ thứ chuyện trong ngày đầu năm mới, bởi vì cho rằng, chuyện
gì xảy ra trong ngày đầu một năm sẽ "giông" suốt cả năm,
nghĩa là chuyện đó sẽ được lặp lại nhiều lần trong suốt năm đó.
Người ta coi hướng tốt để xuất hành, chọn những người "tốt tên
tốt tướng" để mời đến nhà xông đất đầu năm, với niềm hy vọng
được "hên" trọn năm, được tài lộc dồi dào suốt năm. Chẳng
hạn người tên "Vinh" đi cùng với người tên "Quang", hoặc
người tên "Tấn" đi cùng với người tên "Phát", hoặc người
tên "Tài" đi cùng với người tên "Lộc" đến thăm, trong
ngày đầu năm thì được lắm, tốt lắm, hoan nghênh. Còn như người tên
"Quan" đi cùng với người tên "Tài", thì không được đâu.
Ngày đầu một năm người ta kiêng cữ không quét nhà, kiêng cữ không khua
chén đũa bát đĩa, với niềm hy vọng giữ được sự sung túc, an hòa
trong gia đạo suốt năm.
Thực sự, ai ai cũng biết rằng những điều đó không đúng
thực tế, người ta chỉ nghĩ và làm theo thói quen, theo phong tục tập
quán, với niềm hy vọng được điều này điều kia, chứ không có căn cứ
vào đâu cả, và nhất là không đúng với Chánh Pháp, nhưng cho đến ngày
nay, vẫn còn không ít người cứ tin như vậy. Bởi thế cho nên, trong đạo
Phật, chư Tổ chọn ngày mùng một Tết Nguyên Đán là ngày vía đức Di-lặc
và Phật Tử chúng ta thường gọi mùa xuân hằng năm là "XUÂN Di-lặc",
mang ý nghĩa "Xuân Hoan Hỷ", "Xuân Hy Vọng", hay "Xuân Hạnh
Phúc". Ý nghĩa này hết sức tích cực, thâm trầm và lợi ích, chúng
ta nên cùng nhau tìm hiểu.
* * *
Trước hết, chúng ta được biết, hình ảnh của đức
Di-lặc được thờ trong các chùa, trông rất khỏe mạnh, mập mạp, và gương
mặt luôn luôn tươi cười một cách hoan hỷ. Đặc biệt, chúng ta thấy
có sáu đứa bé bám trên thân của Ngài. Đứa thì móc mắt, đứa thì móc
mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì chọc lỗ tai, đứa thì moi rún, mà
Ngài vẫn tươi cười, như không có chuyện gì làm cho Ngài phải phiền hà
bực dọc hết trơn. Hình ảnh của sáu đứa bé chính là bài học tích cực,
giúp chúng ta xây dựng được một cuộc sống an lạc và hạnh phúc cho
chính chúng ta và cho những người chung quanh, ngay trong hiện đời, ngay
trong cuộc sống đầy phiền não và khổ đau này.
Có người còn gọi bức tượng đó là "Phật Hoan Hỷ".
Đầu năm đến chùa cúng vái Ngài để được "hoan hỷ" suốt
năm. Nhưng cũng có nhiều người hiểu lầm cho đó là vị thần có nhiều
con cái, để những ai muốn có con, hãy đến lễ lạy Ngài mà cầu xin! Cũng
có nhiều người lầm lẫn với bức tượng khác của một vị thần to
béo, miệng cười toe toét, có vẻ khoái trá, hai tay nâng một lượng vàng,
đó chính là tượng thần tài, không liên quan gì đến Phật giáo.
Sáu đứa bé bám vào thân của Ngài đó tượng trưng cho
"lục tặc", tức là sáu tên giặc chuyên gây phiền não, gây rắc
rối, gây bực dọc cho chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Sáu tên giặc
đó là những ai? Làm sao chúng có thể gây rắc rối cho cuộc đời của chúng
ta được? Chúng ta cần nhận diện rõ ràng sáu tên giặc đó, mới có thể
điều phục được chúng, để xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh phúc,
một cách tích cực hơn.
Chúng ta có lục căn, tức là sáu giác quan: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý. Với hai con mắt, chúng ta trông thấy những hình ảnh
nào dễ thương, hạp nhãn, thì sanh tâm đắm nhiễm, nhớ nhung, tham luyến,
muốn chiếm đoạt làm của riêng mình; còn nếu trông thấy những hình ảnh
khó ưa, xấu xí, thấy phát ghét, thì sanh tâm bực dọc, tức giận, bất
an. Với hai cái tai, chúng ta nghe những tiếng êm dịu, tâng bốc, thì sanh
tâm đắm nhiễm, ưa thích; còn nếu nghe những lời chỉ trích khó nghe, chạm
đến tự ái, chạm đến bản ngã to lớn của mình, thì không kham nhẫn,
nên sanh tâm sân hận, oán ghét, bất an. Với cái mũi, chúng ta chỉ thích
những mùi hương thơm ngát, dễ chịu và ghét những mùi khó chịu, những
mùi lạ không vừa ý, nên sanh tâm bực dọc, bất an. Với cái lưỡi, chúng
ta chỉ thích ăn ngon khoái khẩu, hạp vị, mà không nghĩ đến sự đau khổ
của các chúng sanh bị giết làm thịt; còn nếu không được ngon miệng,
thì sanh tâm bực bội, gắt gỏng, bất an. Với cái thân tứ đại giả tạm
này, nhưng vì mê lầm, chúng ta thường chấp là chính mình, chúng ta chỉ
thích mặc đẹp và những xúc chạm vừa ý; còn nếu không được như ý,
thì sanh tâm cau có, quạu quọ, tức tối, bất an. Quan trọng hơn cả với
cái tâm ý lăng xăng lộn xộn, không một giây phút ngừng nghỉ, chúng ta
luôn luôn suy tư, nghĩ tưởng lung tung, linh tinh lang tang, tính toán những
điều gì có lợi cho bản thân mình, cho gia đình mình, cho tổ chức mình,
luôn luôn khen mình khinh người.
Nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày, khi "sáu căn"
của chúng ta tiếp xúc với "sáu trần", mà tâm niệm khởi lên thế
này thế nọ, trong kinh sách gọi là "sáu thức", tức là phiền
não bất an dấy lên vậy. Trong trường hợp như vậy, lục căn của chúng
ta chính là lục tặc, tức là sáu tên giặc, đã, đang và sẽ dẫn dắt
chúng ta vào sanh tử luân hồi, nhiều đời nhiều kiếp. Nói cách khác,
sáu căn của chúng ta chính là cội gốc của sinh tử luân hồi. Người ta
thường nói: "tam bành" (tham, sân, si) do "lục tặc" (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý) gây ra, chính là nghĩa đó vậy.
Tuy nhiên, trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
"Sáu căn chính là cội gốc của sanh tử luân hồi và sáu căn cũng chính
là cội gốc của giải thoát niết bàn".
Tại sao vậy? Bởi vì, nếu lục căn của chúng ta, tức là
sáu giác quan, gồm có: nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân và ý, khi tiếp xúc với
lục trần, tức là sáu trần cảnh bên ngoài gồm có: sắc, thinh, hương, vị,
xúc và pháp, mà không đắm nhiễm, không dính mắc, không sanh lục thức,
thì chúng ta đâu có bị phiền não, trong lòng đâu có nổi "tam
bành". Tức là chúng ta không tham, không sân, không si, dù vẫn thường
xuyên tiếp xúc với mọi người mọi cảnh trong cuộc đời. Giữ gìn được
như vậy tức là chúng ta được giải thoát khỏi phiền não khổ đau, sống
trong cảnh giới niết bàn an lạc vậy.
Mắt trông thấy hình sắc thì biết rõ ràng người nào là
người nào, món này là món này, nhưng không khởi niệm thương hay ghét,
ưa hay không ưa. Tai nghe thấy tiếng thì biết rõ ràng là tán thán hay phê
phán, nhưng không khởi niệm khoái chí hay bực bội. Mũi ngửi thấy mùi
thì biết rõ ràng là mùi hương gì, nhưng không khởi niệm thích hay không
thích. Lưỡi nếm vị thì biết rõ ràng là vị gì, nhưng không khởi niệm
khen ngon hay chê dở. Thân xúc chạm thì biết rõ ràng là tốt hay xấu, nhưng
không khởi niệm dễ chịu hay khó chịu. Tâm ý nghĩ suy thì biết rõ ràng
là đúng hay sai, phải hay quấy, nhưng không khởi niệm kỳ thị, đố kỵ,
so sánh, hơn thua, tranh chấp. Do đó, chúng ta đâu có bị kéo lôi, không có
bị cột trói vào chuyện thương thương ghét ghét, chuyện đấu tranh tranh
đấu, chuyện lặp đi lặp lại, chuyện nói tới nói lui, chuyện nói xuôi
nói ngược, nghĩa là chúng ta đã thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ
đau đó vậy.
Thí dụ như mắt trông thấy lượng vàng, trông thấy kim cương
hột xoàn, mà chúng ta không nổi lòng tham lam, ham thích, muốn sở hữu nó,
thì đâu phải khổ công khó nhọc, đi làm đầu tắt mặt tối, để mua sắm
nó. Còn nếu bản thân, vốn đã lười biếng, không chịu làm việc, mà lại
tham lam, muốn có lượng vàng, muốn có hột xoàn, thì còn khổ hơn, gấp
muôn bội phần! Không phải là chúng ta không cần tiền để sinh sống,
nhưng cổ nhơn có dạy:
- Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
- Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Nghĩa là người nào biết đủ thì lúc nào cũng thấy đủ
và người nào biết nhàn thì lúc nào cũng thấy nhàn. Chỉ cần "biết"
như vậy thì cuộc đời đã đủ quá rồi, đã nhàn quá rồi. Bằng như
ngược lại, bao nhiêu mới gọi là đủ, chừng nào mới gọi là nhàn? Con
người bận lo toan chuyện tranh danh đoạt lợi suốt cả cuộc đời, cho nên
không bao giờ thấy đủ, chưa bao giờ thấy nhàn, chẳng kịp tỉnh thức
thì đầu đã bạc trắng, thân đã mỏi mòn, không còn thời giờ để lo
liệu sắm sửa hành trang, thì đã phải đi du lịch thế giới khác rồi!
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy:
- Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
- Bất tri túc giả thân xử thiên đàng diệc bất xứng ý.
Nghĩa là người biết thế nào là đủ, tuy nằm trên đất
cũng lấy làm an lạc, vui sướng. Người không biết thế nào là đủ, dù
thân có ở thiên đàng, tâm cũng vẫn không vừa ý! Chỉ cần "biết"
như vậy thì cuộc đời an lạc và hạnh phúc hiện tiền! Bằng như ngược
lại, dù có được cầu chúc tiêu diêu nơi miền cực lạc hay siêu thăng về
cõi thiên đàng trên báo chí, cũng khó mà được lắm thay!
Thí dụ như tai nghe thấy tiếng khó nghe, mà tâm không chấp
những lời vô nghĩa, thì chúng ta đâu có nổi lòng sân, và đâu có bị
lôi vào vòng sanh tử luân hồi khổ đau. Trong kinh điển, Đức Phật có dạy
chúng ta là "y nghĩa bất y ngữ", tức là chỉ nghe theo những lời
nói có nghĩa, mà không chấp những lời nói suông vô nghĩa. Nếu có người
mắng chúng ta là đồ ngu, mà chúng ta nổi sân, cãi lại cho ra lẽ, thì quả
là chúng ta ngu thật rồi, còn gì nói nữa. Nếu có người miệt thị chúng
ta mất uy tín quá, mà chúng ta khiêm nhường chẳng thấy mình có uy tín gì
để mà mất, thì bình yên quá! Những lời nói vô nghĩa như vậy khi đến
nhĩ căn của chúng ta, tức là hai cái lỗ tai, cũng giống như gió thoảng
mà thôi! Được như vậy, chúng ta sẽ sống cuộc đời an lạc và hạnh
phúc, không nghi.
Bởi vậy, có một bài kệ như sau:
- Mắt trông thấy sắc rồi thôi, (không dính)
- Tai nghe thấy tiếng, nghe rồi thì không. (không mắc)
- Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng, (vô niệm)
- Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân. (giải thoát)
- Ngược lại, cũng có bài kệ như sau:
- Mắt thấy sắc, thấy rồi thì dính, (dính)
- Tai nghe tiếng, nghe rồi thì mắc. (mắc)
- Tam bành lục tặc trong lòng, (loạn tâm)
- Nặng nề ta lọt vào vòng tử sanh. (phiền não)
Có người đến hỏi một vị thiền sư: "Làm sao để
được giải thoát?".
Vị thiền sư đáp: "Lục căn tiếp xúc lục trần,
không sanh lục thức là giải thoát".
Nghĩa là thường ngày, nếu chúng ta sống trong cõi đời này,
sáu giác quan của chúng ta tiếp xúc với sáu đối tượng ở trần đời,
mà không sanh tâm dính mắc, không sanh tâm loạn động vì tham sân si thì
chúng ta sẽ được tự tại, giải thoát ngay hiện đời. Mắt trông thấy
sắc, tai nghe thấy tiếng, mũi ngửi biết mùi, lưỡi nếm biết vị, nhưng
mà đừng khởi niệm thương hay ghét, thích hay không thích, nếu như có khởi
niệm rồi thì đừng theo. Như vậy chúng ta đâu có gì gọi là phiền não,
sân hận hay bực dọc nữa.
Từ xưa đến giờ, mỗi khi tâm khởi niệm, chúng ta liền
theo đến cùng, theo từ chuyện đông sang chuyện tây, từ chuyện xưa đến
chuyện nay, từ chuyện quốc gia đại sự đến chuyện hang cùng ngõ hẹp,
từ chuyện xứ người đến chuyện xứ mình, từ chuyện người lớn đến
chuyện trẻ con, từ đủ mọi thứ chuyện trên trần đời, để rồi than
nhức đầu vì nhiều chuyện quá, than trời trách đất vì khổ thân khổ
não quá!
Còn như sáu đứa bé luôn luôn chọc phá đức Di-lặc, mà
Ngài vẫn tươi cười hoan hỷ như không có chuyện gì xảy ra. Nghĩa là
"lục căn" của Ngài vẫn thường tiếp xúc với "lục trần",
mà tâm của Ngài không sanh ra "lục thức", thì Ngài sống rất an
nhiên, tự tại. Đó là cảnh giới của những người "vô tâm", tức
là những người không có tâm niệm lăng xăng lộn xộn, cho nên không có
phiền não và khổ đau. Đó là cảnh giới niết bàn ở ngay trong tâm trí của
chúng ta hiện đời, chứ không phải đợi sau khi chết mới tiêu diêu nơi
miền cực lạc, hay lên trên thiên đàng đâu đâu không tưởng.
Đạo Phật chủ yếu chỉ bày phương pháp rèn luyện tâm,
chuyển hóa tâm, từ vô minh trở thành giác ngộ, từ tà vạy trở thành
chân chính, từ phiền não và khổ đau trở thành an lạc và hạnh phúc. Đạo
Phật được áp dụng ngay trong thực tế của cuộc đời, trong mọi hoàn cảnh,
giúp những người thiện tâm được sống bình an ngay tại thế gian này,
chứ đạo Phật không phải chỉ lo cầu an cho người sống, cầu siêu cho
người quá cố mà thôi. Hiểu được như vậy mới không phí phạm cả cuộc
đời quí báu này!
Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: "Tâm cảnh
không dính nhau là giải thoát". Nghĩa là chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe,
vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh trên trần đời, trong kinh điển
gọi là "kiến văn giác tri", nếu tâm của chúng ta không dính mắc
thì không phiền não. Không phiền não tức là giải thoát. Thật là hết sức
đơn giản. Lý lẽ tuy cao siêu vi diệu, nhưng hết sức thực tế. Bất cứ
ai cũng có thể làm được, không cần phải thờ lạy, cúng kiến, không
phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ngôn ngữ, nghề nghiệp, xuất xứ, học thức,
nam nữ, già trẻ, bé lớn, giàu nghèo, sang hèn.
* *
Tuy nhiên, nói như vậy thì hiểu như vậy, chứ còn thực
hiện được cái chỗ "không dính", cái chỗ "không mắc",
cái chữ "vô tâm", cái chữ "vô niệm", thì chúng ta cần
phải có phương pháp tu để ứng dụng, để thực hành. Làm sao chúng ta
có thể sống vui tươi, hạnh phúc suốt năm và cả đời như đức Di-lặc?
Điều đầu tiên, chúng ta hãy can đảm nhận thấy rõ cuộc sống của
chúng ta vui ít khổ nhiều, đừng tự dối mình gạt người, nhưng không bi
quan yếm thế và cũng đừng sống trong phiền não, khổ đau bi thảm như
trước đây nữa. Muốn được như vậy, chúng ta phải đảnh lễ Ngài với
tất cả lòng thành kính và hướng tâm hồn học theo cái hạnh nguyện của
Ngài, đặng tâm trí được an vui phơi phới, dù đang ở trong bất cứ cảnh
ngộ nào cũng vậy. Đức Di-lặc tu theo pháp môn nào mà được tự tại
như vậy? Đó chính nhờ Ngài tu bốn hạnh "từ, bi, hỷ, xả",
trong kinh sách gọi là "tứ vô lượng tâm", tức là bốn tâm địa
rộng lớn thênh thang, không thể nghĩ bàn.
Với tâm từ, Ngài luôn luôn mang niềm vui đến với mọi
người, bất cứ lúc nào, không phân biệt gì cả. Với tâm bi, Ngài luôn
luôn cứu giúp những người đau khổ, những người bất hạnh, thương
người như thương chính mình. Với tâm hỷ, Ngài luôn luôn vui vẻ, hoan hỷ
với những việc lành, những hạnh phúc, những thành tựu của tất cả mọi
người xung quanh, không có tâm ganh ghét, đố kỵ, tị hiềm. Ngài luôn
luôn nhớ câu: "Nam mô nhứt thiết chúng sanh hỷ kiến bồ tát".
Nghĩa là Ngài luôn luôn noi gương những vị Bồ-tát mà tất cả mọi người
đều hoan hỷ khi gặp mặt. Với tâm xả, Ngài không bao giờ chất chứa
trong lòng, trong kho tàng tâm thức, bất cứ điều phiền muộn nào, dù nhỏ
đến đâu. Trái lại, Ngài luôn luôn tha thứ cho bất cứ ai gây phiền muộn,
rắc rối cho Ngài. Đức Di-lặc không bị bất cứ phiền não nào tác động,
cho nên thân tướng mập mạp khỏe mạnh, tâm trí thanh thản, thảnh thơi
thơ thới, nét mặt lúc nào cũng hoan hỷ vui tươi. Nếu chúng ta muốn được
an nhiên tự tại, muốn được hạnh phúc ngay hiện đời, chúng ta phải
noi gương Ngài để tu bốn hạnh "từ, bi, hỷ, xả" vậy.
Nếu có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ biết thương yêu
và thông cảm với tất cả mọi người, dù kẻ đó đang gây phiền não
cho mình, đồng thời chúng ta sẽ giảm bớt lòng tham và lòng sân. Thí dụ
như chúng ta giúp đỡ bất cứ ai điều gì, hay chúng ta nuôi nấng con cái
của mình, bởi do lòng từ bi, thì chúng ta sẽ không cầu báo đáp, không
nhớ công lao, không kể lể ơn nghĩa, với mọi người hay ngay cả với con
cái trong gia đình. Do đó, ai cũng hoan hỷ khi gặp mặt, không ai cảm thấy
khó chịu, sau khi thọ ơn của chúng ta.
Chúng ta thường có lòng từ bi với những loài vật nhỏ
nhít như ruồi muỗi côn trùng, hay lớn hơn như gà vịt heo bò. Chúng ta
không nỡ giết hại chúng, không nỡ ăn thịt chúng. Nhưng đối với những
con người sống chung quanh, như cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, đồng
nghiệp, đồng hương, đồng đạo, đồng bào, đôi khi chúng ta không nhịn
nổi một câu nói chạm đến tự ái hay một hành động xúc phạm đến
danh dự của mình, dù vô tình hay cố ý! Lòng từ bi như vậy đó cần phải
được xét lại! Cũng vậy, chúng ta thường có lòng từ bi với người
chưa quen hay với người ở phương xa, lâu lâu gặp một lần. Nhưng chúng
ta khó có lòng từ bi với những người ở gần chung quanh, khi họ nói lời
nào mích lòng mình, làm điều gì trái ý mình.
Khi chúng ta thấy một người làm việc phước thiện, như
cúng chùa hay tặng hội từ thiện một số tịnh tài chẳng hạn, nếu
chúng ta phát tâm tùy hỷ, nghĩa là vui theo với việc thiện người khác
làm được, thì chúng ta cũng được phước báu như người đó. Tại sao vậy?
Bởi vì, trong kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Khi có người
mồi ngọn đuốc được sáng rồi, nếu người khác đến mồi từ ngọn
đuốc đó, thì ngọn đuốc sau cũng sáng như vậy, trong khi ngọn đuốc
trước không giảm sáng chút nào".
Cũng vậy, khi có người phát tâm làm việc phước thiện,
thì tâm từ bi của người đó tăng trưởng, tâm tham lam bỏn sẻn của họ
giảm bớt. Họ được phước báu, giảm bớt phiền não, lần lần tâm
tánh của họ được thanh tịnh, cuộc sống của họ được an lạc hơn, hạnh
phúc hơn. Nếu chúng ta phát tâm tùy hỷ, một trong tứ vô lượng tâm, vui
theo với việc thiện của người khác, thì chúng ta giảm được tâm đố
kỵ, ganh tị, tâm từ bi của chúng ta cũng tăng trưởng, và khi đủ duyên,
chúng ta cũng sẽ làm việc thiện đó vậy.
Còn đối với tâm xả, đó là chỗ hết sức cao siêu của
người tu hạnh giải thoát. Muốn được giải thoát, muốn được tự tại,
nhẹ nhàng bước ra khỏi vòng trầm luân, sanh tử luân hồi, nhứt định
chúng ta phải tu hạnh xả. Nếu lục căn của chúng ta tiếp xúc với lục
trần, đừng dính đừng mắc, cái gì cũng xả, cái gì cũng bỏ qua hết,
thì chúng ta không còn gì để đem vào chứa trong kho tàng tâm thức của
chúng ta hết. Lúc đó, chúng ta sống trong tự tại nhẹ nhàng, thảnh thơi
thơ thới, không lo âu phiền muộn, không ưu tư lo lắng, không thấp thỏm
phập phồng.
Do tâm từ bi, chúng ta làm được biết bao nhiêu việc phước
thiện không mệt mỏi, và do tâm hỷ xả chúng ta vui vẻ bỏ qua hết, quên
hết tất cả những việc đã làm, quên hết tất cả những việc bất như
ý. Trong tâm thức của chúng ta không có bốn tướng "ngã, nhơn, chúng
sanh, thọ giả". Tức là chúng ta không thấy có mình là người làm phước,
có kẻ khác là người nhận lãnh và không nhớ, không để tâm đến những
việc tốt chúng ta đã làm, đã cho, đã giúp đỡ bao nhiêu người khác. Như
vậy chúng ta sẽ không cầu được báo đáp, không kể lể, không đòi hỏi
bất cứ ai nhớ ơn chúng ta, thì chúng ta không có phiền não chút nào cả,
nếu gặp phải những người không biết chuyện ơn nghĩa. Sách có câu:
"Thi ân bất cầu báo", chính là nghĩa đó vậy.
Chúng ta sở dĩ bị sanh tử luân hồi nhiều đời nhiều kiếp,
bởi vì chúng ta dính mắc quá nhiều. Chúng ta chẳng những không biết
buông xả, trái lại, còn chứa nhóm quá nhiều thứ trong tàng thức, trong
kho tàng tâm thức của chúng ta. Hôm nay, nhân dịp năm cũ sắp hết, để
chuẩn bị chào đón năm mới sắp sang, theo thông lệ, chúng ta thường lo sửa
soạn trang hoàng nhà cửa, và đồng thời mở cửa nhà kho, dọn dẹp cho sạch
sẽ, sắp xếp cho ngăn nắp. Cũng vậy, để có được một mùa "XUÂN
Di-lặc", mang ý nghĩa "Xuân Hoan Hỷ", "Xuân Hy Vọng",
hay "Xuân Hạnh Phúc", chúng ta không thể quên việc chăm sóc, dọn
dẹp, sửa sang cho thực sạch cái "kho tàng tâm thức" của chúng
ta.
Lục căn của chúng ta cũng như các bộ phận của cái máy
quay phim, hằng ngày thu nhận không biết bao nhiêu là hình sắc, âm thinh, rồi
đem chứa vào trong kho tàng tâm thức. Thỉnh thoảng hay lâu lâu, thậm chí
đến mấy chục năm sau, đến lúc tuổi già, mang ra chiếu lại, để cười
chơi hoặc để tức giận, như thể chuyện mới xảy ra ngày hôm qua còn
nóng hổi vậy. Mặc dù những diễn viên trong đó đã đi vào quá khứ từ
lâu! Họ đã quên hết mọi chuyện, chỉ có chúng ta là còn nhớ quá kỹ,
để lãnh đủ phiền não khổ đau. Nếu buông xả được, xóa được những
cuốn băng trong kho tàng tâm thức, chúng ta sẽ trở nên con người vui
tươi dễ chịu, lúc nào cũng hoan hỷ vui vẻ như đức Di-lặc vậy, nhứt
thiết chúng sanh sẽ hoan hỷ kiến, không nghi.
Lúc Đức Phật còn tại thế, có một người mang hai chậu
bông đến cúng dường, với tâm mong cầu pháp môn tu giải thoát. Khi gặp
mặt, Đức Phật bảo buông, ông ta bèn buông tay trái, chậu bông rơi xuống
đất. Đức Phật lại bảo buông, ông ta bèn buông tay phải, chậu bông thứ
hai rơi xuống đất. Đức Phật lại bảo buông, ông ta bèn thưa: Bạch đức
Thế Tôn, hai tay con đã buông hết rồi, đâu còn gì để buông nữa? Đức
Phật dạy: "Như Lai bảo ông buông lần thứ nhứt là bảo ông buông
sáu căn, lần thứ hai là bảo ông buông sáu trần, lần thứ ba là bảo
ông buông sáu thức. Khi căn, trần, thức không còn nhiễm trước, tức thập
bát giới không thành lập, thì ông được giải thoát". Lục căn, lục
trần và lục thức nói chung là thập bát giới. Thập bát giới không
thành lập có nghĩa là: lục căn tiếp xúc với lục trần không sinh ra lục
thức! Thực là đơn giản!
* * *
Tóm lại, chúng ta cần lưu ý là đức Thích Ca đã đi tìm
đạo, đã tu tập, đã chứng đạo và đã thành Phật dưới cội cây bồ
đề, ngay tại thế giới ta bà này, từ 26 thế kỷ trước, lịch sử đã
ghi lại rõ ràng. Và sau này, đức Di-lặc cũng sẽ hạ sanh ở thế giới
ta bà này, để tu hành và sẽ thành Phật dưới cội cây long hoa. Nghĩa là
mười phương chư Phật đều thành Phật ở ngay tại thế giới ta bà này,
chứ không phải ở thế giới nào khác.
Bởi vì ở các cõi thiên giới quá sung túc vật chất,
chúng sanh ở đó ham vui, lo hưởng thụ quên tu, còn ở các cõi địa ngục,
ngạ quỉ, súc sanh thì quá khổ về vật chất lẫn tinh thần, nên cũng không
tu được. Chỉ có ở thế giới ta bà này, con người có đủ thuận cảnh
lẫn nghịch cảnh để tu hành, để thử thách và tiến đến chỗ giải
thoát mà thôi. Chúng ta nên bình tâm xét lại những mộng tưởng về cõi
tây phương cực lạc, hay cõi thiên đường ở kiếp sau, để tích cực tu
tâm dưỡng tánh ngay hiện đời, để khỏi uổng kiếp làm người trong muôn
một.
Chúng ta đã nghiên cứu và thấu hiểu một cách rất rõ
ràng phương pháp tu giác ngộ và giải thoát, hay ít ra cũng đạt được an
lạc và hạnh phúc hiện đời. Vậy chúng ta hãy bắt đầu cất bước lên
đường làm hành giả kể từ mùa xuân năm nay là vừa. Được như vậy,
chúng ta sống trên cõi đời này sẽ thấy nơi đây chính là cõi an lành tự
tại, là một thế giới đầy tình thương yêu, đầm ấm. Thế gian này
chính là cảnh giới của chư Phật, chư hiền thánh nhơn, chư thượng thiện
nhơn, chứ không còn là cảnh giới của phàm phu tục tử nữa. Kính chúc
quí vị được hưởng một mùa xuân Di-lặc, mùa xuân hy vọng, mùa xuân an
lạc và hạnh phúc, mùa xuân miên viễn của tất cả chúng ta vậy.
http://www.buddhismtoday.com/viet/xuan/001-xuandilac.htm
|
|