- PHẨM MỘT: PHÂN BIỆT GIỚI
- (分 別 界 品 第 壹 )
- TỤNG QUY KỈNH
A.
TỤNG VĂN.
Hán văn.
諸 壹 切 種 諸 冥 滅
拔 眾 生 出 生 死 泥
敬 禮 如 是 如 理 師
對 法 藏 論 我 當 說
淨 慧 隨 行 名 對 法
及 能 得 此 諸 慧 論
攝 彼 勝 義 依 彼 故
此 立 對 法 俱 舍 名
若 離 擇 滅 定 無 餘
能 滅 諸 惑 勝 方 便
由 惑 世 間 漂 有 海
因 此 傳 佛 說 對 法
Phiên âm
- Chư
nhất thiết chủng chư minh diệt,
Bạt chúng sanh xuất sanh tử nê;
- Kính
lễ như thị như lý Sư,
Đối pháp tạng luận ngã đương thuyết(1).
-
- Tịnh
huệ tuỳ hành danh đối pháp,
Cập năng đắc thử
chư huệ luận;
- Nhiếp
bỉ thắng nghĩa y bỉ cố,
Thử lập đối pháp Câu xá danh (2).
-
- Nhược
ly trạch diệt định vô dư,
Năng
diệt chư hoặc thắng phương tiện;
- Do
hoặc thế gian phiêu hữu hải.
Nhơn thử
truyền Phật thuyết đối pháp (3).
Việt dịch.
- Vị
mà tất cả các minh đều được diệt
trừ,
- Đã
vớt chúng sanh ra khỏi vũng bùn sanh tử;
- Sau
khi kính lễ vị Đạo sư như lý như vậy,
- Tôi
sẽ diễn giải luận Đối pháp tạng.
- Đối
pháp là huệ vô nhiễm, các tuỳ
hành của nó
- Và
những huệ và luận giúp chứng đắc huệ vô nhiễm ấy.
- Bao
hàm thắng nghĩa, đồng thời dựa vào thắng nghĩa,
- Cho
nên Luận nầy được gọi là Đối pháp câu xá.
-
- Ngoài
sự tư trạch
về các pháp, hẳn không còn
- Phương
tiện đặc sắc nào có thể diệt trừ các hoặc;
- Bởi
vì hoặc mà thế gian trôi nổi trong biển
Hữu.
- Do
đó, truyền thuyết, đức Phật giảng đối
pháp.
B. LUẬN THÍCH.
I.Quy kính.
- (1).Vị
mà tất cả các minh đều được diệt trừ ø,
-
Đã vớt chúng sanh ra khỏi vũng bùn sanh tử;
-
Sau khi kính lễ vị Đạo sư như lý như vậy,
-
Tôi sẽ diễn giải luận Đối pháp tạng.
Khi muốn
tạo luận, vì để nêu bày thể cách cao quý hơn hẳn các thánh chúng của
Thầy mình, Luận chủ trước tiên tán thán
phẩm tính, tiếp đến mới bày tỏ sự kính lễ.
Vị maø chỉ cho đức
Phật thế tôn; Đấng có khả năng
phá trừ minh ám cho nên nói là diệt trừ sự tối tăm
Tất cả
các minh đều được diệt
trừ : diệt trừ tất cả các loại minh
trong mọi trường hợp; chính minh là vô tri thường che lấp
nghĩa lý chơn thật (Bhutârtha) và ngăn trở sự hiểu biết đúng đắn
(Darsana). Duy chỉ Phật thế tôn thành tựu phần đối trị chứng pháp bất
sanh, mới có khả năng đoạn trừ tất cả các loại minh trong mọi trường
hợp. Chư vị Độc giác, Thanh văn tuy
cũng diệt trừ (Hata) các minh, nhưng vì nhiễm ô vô tri chưa đoạn trừ một cách rốt ráo nên chẳng phải là nhất thiết chủng
(Savartha). Vì sao? -Vì các vị nầy chưa
đoạn trừ bất nhiễm ô vô tri đối với các pháp của Phật, đối với các đối
tượng thật xa trong thời gian và không gian, đối với các
chủng loại nghĩa lý sai biệt vô hạn.
Sau khi
tán thán sự mỹ mãn về phẩm tính tự lợi của đức Thế tôn, tiếp đến,
tán thán sự vẹn toàn phẩm tính lợi tha của đức Phật:
Đã vớt
chúng sanh ra khỏi vũng bùn sanh tử : sanh tử là nơi chúng sanh bị chìm
đắm, rất khó ra khỏi, nên được ví với bùn lầy. Chúng sanh chìm đắm
ở trong đó, không người cứu giúp; đức Thế tôn vì lòng thương xót, đã
tuỳ theo từng trường hợp, giảng thuyết giáo lý, đưa bàn tay chánh pháp để cứu vớt ra
khỏi.
Tán thán các phẩm tính của đức Phật xong, tiếp đến là bảy tỏû
sự kính lễ:
Sau khi
kính lễ vị Đạo Sư như lý như vậy : cúi đầu xuống sát chân gọi
là kính lễ. Đức Thế tôn có đầy đủ các phẩm tính tự lợi và lợi
tha ở trước cho nên nói “như thị”. Ngài dạy dỗ truyền trao một
cách như thật không điên đảo nên
gọi là Như lý sư (Yathartha - Sastra.). Ba
chữ Như lý sư cũng đã tự hiển bày
phẩm tính lợi tha, khéo léo phương tiện giảng thuyết chánh giáo đúng như
sự thật, vớt chúng sanh ra khỏi vũng bùn sanh tử, không phải bằng uy lực
(Prabhava), ân huệ(Vara- pradana) hay là thần thông (?ddhi).
Kính lễ Như lý sư như vậy, ý
muốn làm gì?
Tôi sẽ
diễn giải luận Đối pháp tạng: dùng
để giáo dục môn đệ gọi là luận
(Sastra). Đó là luận gì? -Đối pháp tạng
(Abhidharmakosa). Sao gọi là Đối pháp?
II.
Định nghĩa Đối pháp câu xá.
a.Đối pháp :
(1a).Đối pháp là huệ vô nhiễm và các tuỳ hành của nó.
Huệ
(prajđa) là sự tư trạch về pháp. Tịnh (amala) là
vô lậu (anasrava). Tuỳ hành là quyến thuộc của tịnh huệ.
Tóm lại, như vậy năm uẩn vô lậu được gọi là Đối pháp. Đây là thắng
nghĩa A tỳ đạt ma (Paramarthiko bhidharma?). Nếu nói theo Thế tục A tỳ đạt
ma (Sa?ketiko’ bhidharma?) thì,
(1b).
Và những huệ và luận
giúp chứng đắc Huệ vô nhiễm ấy.
VÀ NHỮNG
HUỆ : CHỈ CHO CÁC HUỆ HỮU LẬU,VĂN HUỆ,
TƯ HUỆ, TU HUỆ VÀ HUỆ BẨM SINH, VỚI CÁC TUỲ HÀNH CỦA NÓ GIÚP CHỨNG
ĐẮC HUỆ VÔ NHIỄM. VÀ LUẬN: CHỈ CHO
CÁC GIÁO NGHĨA CÓ KHẢ NĂNG LÀM PHÁT SINH VÔ LẬU HUỆ (Ở ĐÂY CHỈ CHO PHÁT TRÍ, LỤC
TÚC LUẬN). CÁC HUỆ VÀ LUẬN NẦY
LÀ TƯ LƯƠNG CỦA HUỆ VÔ LẬU NÊN CŨNG ĐƯỢC GỌI LÀ A TỲ ĐẠT MA.
THÍCH
DANH A TỲ ĐẠT MA.
Cái gì
có mang và duy trì đặc tính riêng của
nó đều gọi là pháp; nếu là thắng nghĩa pháp, chỉ có niết bàn; nếu
là pháp tướng pháp, thời chỉ chung cả tứ đế. Pháp có khả năng đối
quán tứ đế và đối hướng niết bàn gọi là đối pháp.
b.
Câu xá:
TẠI SAO LUẬN NẦY GỌI LÀ ĐỐI PHÁP TẠNG?
(1b)
Bao hàm thắng nghĩa, đồng thời dựa vào
thắng nghĩa,
Cho nên Luận nầy được gọi là Đối pháp câu xá.
Vì thắng nghĩa trong đối pháp được
đưa vào trong Luận nầy
nên nó có tên gọi là Tạng. Hoặc do Luận nầy
lấy đối pháp làm sở y, từ đối pháp mà có, được thâu nhiếp vào
trong đối pháp nên cũng gọi là Tạng. Vì vậy, Luận nầy gọi là Đối
pháp tạng.
III.Ý hướng của A Tỳ Đạt Ma.
Vì nhơn duyên gì mà giảng thuyết A Tỳ Đạt Ma, Ai là người đầu
tiên giảng thuyết mà nay, Luận chủ cung kính
giải thích? Tụng nói:
- (3). Ngoài
sự tư trạch về các pháp, hẳn
không còn
- Phương tiện đặc sắc nào khác có thể
diệt trừ các hoặc.
-
Bởi vì hoặc mà thế gian trôi nổi trong biển Hữu.
-
Do đó, truyền thuyết, đức Phật giảng đối pháp.
Nếu lìa bỏ sự giản trạch về
các pháp thời không có một phương tiện đặc sắc nào có thể diệt trừ
các phiền não. Chính các phiền não đã khiến cho thế gian trôi nổi, xoay
vần trong biển sanh tử mênh mông. Vì lẽ nầy nên đức Phật đã giảng
thuyết đối pháp với mục đích giúp cho thế gian có được sự tư trạch
về pháp, theo truyềân thuyết (kila). Thật vậy,
nếu không giảng thuyết đối pháp thời, các đệ tử không thể giản trạch đúng nghĩa lý chơn thật của các pháp tướng.
Song, đức Phật Thế tôn giảng thuyết đối pháp rải rác khắp nơi; các
bậc đại Thanh văn như Đại Đức Ca Đa Diễn Ni Tử... tập hợp lại và ổn định. Cũng như Đại
Đức Pháp Cứu tập hợp các bài
kệ tụng làm thành phầm
Vô Thường. Các Luận sư Tỳ Bà Sa nói như vậy.
TIẾT 1 : TỔNG LUẬN VỀ PHÁP.
I. BẢN THỂ CỦA PHÁP.
A. TỤNG VĂN.
Hán văn
- 有 漏 無 漏 法
除 道 餘 有 為
-
於
彼 漏 隨 增
故
說
名
有
漏
-
-
無
漏
謂
道
諦
及
三
種
無
為
-
謂 虛 空 二 滅
此 中 空 無 礙
-
-
擇
滅 謂 離 繫
隨
繫
事
各
別
-
畢
竟
礙
當
生
別
得
非
擇
滅
Phiên âm
- Hữu lậu
vô lậu pháp,
Trừ đạo dư Hữu vi
- Ư bỉ
lậu tuỳ tăng,
Cố thuyết danh Hữu lậu.
-
- Vô lậu
vị đạo đế
Cập tam chủng Vô vi
- Vị hư
không nhị diệt;
Thử trung không vô ngại.
-
- Trạch diệt
vị ly hệ
Tuỳ hệ sự các biệt;
- Tất cánh ngại
đương sanh,
Biệt đắc Phi trạch diệt.
Việt dịch.
- Các
pháp là hữu lậu, vô lậu.
- Trừ đạo
đế, hữu vi là
- Hữu lậu,
vì trong đó,
- Các lậu cùng tăng trưởng.
-
- Vô lậu
là đạo đế
- Và ba
loại vô vi,
- Hư không
và hai diệt;
- Tính hư
không vô ngại.
-
- Trạch
diệt là ly hệ,
- Theo hệ
sự khác biệt;
- Phi trạch
diệt nghĩa là
- Toàn ngăn
pháp vị lai.
B. LUẬN THÍCH.
1.Tổng
thuyết:
Nói rằng, tất cả các pháp, tóm tắt chia làm hai loại:
Hữu lậu và vô lậu.
Đó là phần nói chung về tất cả các pháp.
2. Hữu lậu.
Hữu lậu (Sasrava) là gì ?
Trừ đạo
đế, hữu vi là hữu lậu,
Ngoại trừ đạo đế, tất cả các pháp hữu vi còn lại đều thuộc
hữu lậu. Vì sao?
vì trong đó,
Các lậu
cùng tăng trưởng.
Thật vậy, các Lậu sinh khởi cũng do vin bám vào diệt đế và đạo
đế, nhưng chúng không thể theo đó mà tăng trưởng, cho nên cả hai
không thuộc về hữu lậu. Ý nghĩa “bất tuỳ tăng” sẽ được nói rõ
trong phẩm Tuỳ Miên ở sau.
3. Vô vi.
Thế nào là vô lậu (Anasrava)?
- Vô lậu là đạo đế
-
Và ba loại vô vi,
-
Ba loại vô vi đó là gì
?
- Hư không và hai diệt;
- Những
gì gọi là hai?
Là diệt do tư trạch và diệt không do tư trạch. Ba loại vô vi nầy,
hư không vô vi, trạch diệt
vô vi và phi trạch diệt vô vi, cùng với đạo thánh đế thuộc về pháp
vô lậu; lý do vì sao? - bởi vì, ở trong đó, các lậu không tăng trưởng.
a. Hư không vô vi.
Trong ba loại vô vi được nói đến một cách vắn tắt ở trên, Hư
không lấy vô ngại làm tánh;
Tánh hư không vô ngại.
do tính chất không ngăn ngại nên ở trong đó, Sắc được lưu hành.
b. Trạch diệt vô vi.
TRẠCH
DIỆT LÀ LY HỆ
Diệt do tư trạch lấy ly hệ làm thể tánh. Những gì thoát khỏi sự
ràng buộc của các pháp hữu lậu, chứng được giải thoát niết bàn được
gọi là trạch diệt. Trạch là giản trạch tức là huệ sai biệt. Diệt được thành
tựu do năng lực tư trạch (trạch lực sở đắc diệt) về bốn thánh đế
một cách cá biệt nên gọi là trạch diệt. Cũng như ngưu sở giá xa được gọi là ngưu xa
(xe bò) do lượt bỏ những hạng từ
ở giữa (tức từ sở giá).
Tất cả các pháp hữu lậu đồng
một loại một loại trạch diệt ư? -Không. Vì sao?
Theo hệ sự khác biệt;
Nghĩa là
có bao nhiêu Hệ sự (Samyoga - dravya) thời có bấy nhiêu sự Thoát ly khỏi
hệ sự ấy. Nếu không như vậy, thì khi chứng đắc tịch diệt đối với
các phiền não được đoạn trừ trong giai đoạn kiến đạo khổ đế, thì cũng phải chứng đắc tịch diệt đối với
tất cả các phiền não. Và nếu như thế, việc tu tập các phương pháp đối
trị khác trở thành vô dụng. Ở đây, căn cứ vào nghĩa nào để nói, Diệt
không đồng loại? - Sở dĩ nói như vậy, do căn cứ vào nghĩa, bản thân của
Diệt tự nó không có đồng loại nhơn, đồng thời nó cũng chẳng phải là
nhơn đồng loại cho bất cứ một pháp nào khác;
chứ chẳng phải nói rằng không có đồng loại.
3. Phi trạch diệt vô vi.
- Phi trạch diệt nghĩa là
-
Toàn ngăn pháp vị lai.
Khác với diệt ở trước,
diệt nầy do trở ngại khiến các pháp vị lai vĩnh viễn không thể sinh khởi,
đồng thời, nó thành tựu không phải do tư trạch mà chính là do thiếu
duyên, gọi là Phi trạch diệt. Chẳng hạn, khi con mắt và yÙ tập trung
vào một sắc pháp nào đó, các sắc pháp khác còn lại
cũng như thanh, hương, vị, xúc... sẽ
biến mất, nói cách khác là chìm vào quá khứ; vốn duyên với các trần cảnh
như vậy, năm thức nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt thân, ở trong đời vị lai, hoàn toàn không sanh khởi, do vì chúng
không thể duyên được với các trần cảnh quá khứ đó.
Như vậy, do duyên không đủ mà thành
tựu Phi trạch diệt.
Đối với các
pháp, thành tựu Diệt, có bốn trường hợp:
1. Với những pháp mà trạch diệt được thành tựu, đó là các
pháp hữu lậu thuộc quá khứ, hiện tại có xu hướng sanh khởi.
2. Với những pháp chỉ có phi trạch diệt thành tựu, đó là các
pháp hữu vi, hữu lậu có xu hướng không sinh khởi.
3. Với những pháp mà cả trạch diệt và phi trạch diệt đều thành
tựu, đó là các pháp hữu lậu không có xu hướng sinh khởi.
4. Với những pháp mà cả hai loại diệt đều không thành tựu, đó
là các pháp vô lậu trong hiêïn tại và vị lai, có xu hướng sinh khởi.
Như vậy,
đã nói xong về ba pháp vô vi. 1
(còn tiếp)
|