- Quan
Hệ Thầy - Trò
- Theo
tinh thần Kinh Kế Thừa Chánh Pháp
- Thích Thanh Tâm
- Thầy,
vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng
- Con,
cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy, hóa hiện đường mây.
Quan
hệ Thầy và Trò, đó là mối quan hệ thiêng liêng và cao cả; là hình ảnh
sáng ngời, tuyệt vời giữa càn khôn sinh diệt. Không thể có một tác
nhân nào, một điều kiện gì có thể chia cắt, hay tách biệt mối quan hệ
ấy. Xưa cũng như nay, tình cảm cao quý này luôn luôn được tôn kính, được
trân trọng, giữ gìn. Cho nên, Cổ đức có dạy: “Tôn Sư trọng Đạo”
là vì vậy.
Quan
hệ này, nói ra rất rộng, nó có mặt khắp mọi lĩnh vực của cuộc sống,
từ đời sống vật chất cho đến đời sống tinh thần.
Trong
sự nghiệp xây dựng gia đình huyết thống, thì đó là mối quan hệ
Cha-Con. Với quan hệ này, người ta cho rằng, người con là khúc ruột được
cắt ra từ Cha và Mẹ, nên người con là sự tiếp nối sự sống của người
Cha cũng như người Mẹ. Vì thế khi nhìn vào người con,chúng ta có thể thấy
được nét nghiêm nghị của Cha cũng như nụ cười hiền dịu của Mẹ. Với
quan hệ này, được gọi là quan hệ máu mủ, ruột thịt. Còn trong sự nghiệp
xây dựng gia đình tâm linh, thì đó là quan hệ Thầy-Trò. Với quan hệ
này, Pháp chính là gạch nối giữa hai hình ảnh ấy. Nhờ chất liệu Pháp
mới có quan hệ Thầy trò. Người học trò được công nhận là học trò
và người Thầy được công nhận, được tôn xưng là Thầy, đều nhờ vào
chất liệu này. Người học trò hiện hữu, tồn tại giữa cuộc đời là
nhờ có hình ảnh người Thầy, và ngược lại. Do đó, mối quan hệ Thầy
-Trò là mối quan hệ tương tức (Interbeing), tương nhập (Interpenetration), có
trong nhau, cùng nhau hiện hữu để chuyển tải, hóa hiện Đạo vào cuộc
đời. Quan hệ này không tách biệt được, nếu tách biệt thì không tồn
tại. Nếu không có trò thì Thầy cũng không có mặt giữa đất trời, giữa
cuộc sống này.
Theo
tinh thần kinh Cầu Pháp của Hán tạng hay kinh Dhammadāyādasutta (Thừa tự
Pháp) của Trung bộ Nikāya, thì mối quan hệ này được trình bày rất mạch
lạc, rõ ràng.
Do
mối quan hệ giữa Thầy và Trò được xác lập nhờ Pháp, cho nên, người
học trò là sự nối dài hình ảnh người Thầy, là sự tiếp nối sự
nghiệp của Thầy, “Nhất đăng diệt, nhất đăng tục”. Do vậy, yếu tố
chắc chắn là người học trò phải kế thừa Pháp từ nơi Thầy của mình.
Điều này không bao giờ sai khác, chắc chắn là như vậy. Và chỉ có vậy,
mối quan hệ này mới thiêng liêng, mãi mãi tồn tại qua mọi thời gian và
không gian. Cũng nhờ thế mà chất liệu Pháp luôn luôn được thắp sáng,
được tiếp nối, khiến kho tàng Chánh pháp không bị mai một, không bị
gián đoạn mà luôn luôn được truyền thừa “Truyền đăng tục diệm”.
Cho nên, trong bài Tựa Luật Tứ Phần, có nhắc đến sự truyền thừa “Sư
tư tương thừa”, nói lên sự kế thừa của đức Phật Mâu Ni từ các đức
Phật trong quá khứ:
- Tỳ
Bà Thi Thức Khí
- Tỳ
Xá, Câu Lưu Tôn
- Câu
na hàm mâu ni
- Ca
Diếp, Thích Ca văn.
- 毗 婆 尸 式 棄
- 毗
舍 拘 留 孫
- 拘 那 含 牟 尼
- 迦 葉 釋 迦 文
-
- Các
Đại đức, Thế Tôn
- Vì
tôi dạy việc này,
- Tôi
nay muốn nhắc lại
- Quý
vị, hãy cùng nghe!
- 諸 世 尊 大 德
- 為 我 說 是 事
- 我 金 欱 善 說
- 諸 賢 咸 共 聽
Còn
ngược lại, người học trò không kế thừa Pháp, mà lại kế thừa tài sản
thì đó là hình ảnh giới thiệu chúng ta mối quan hệ oan nghiệt, đầy oán
thù. Và cũng tự giới thiệu hình ảnh người học trò không nhận ra được
nhân duyên gì mà mình được làm học trò của Thầy mình.
Ngày
trước, Ngài Huệ Khả là hình ảnh gương mẫu cho tinh thần cầu Pháp này
(Huệ Khả là người có khả năng kế thừa tuệ giác). Ngài đứng hiên
ngang như cây tùng giữa tuyết giá để cầu Pháp an tâm, khiến đời sau mãi
mãi còn lưu lại hình ảnh cao thượng ấy, để sách tấn hàng hậu học:
少 室 廷 前 千 丈 松 雲 寒 立 雪
Nghĩa
là: Trước động Thiếu Thất trải bao ngày tháng đứng trong tuyết lạnh.
Ngài
không thối chí, dầu tuyết lạnh phủ đầy mình và cũng sẵn sàng hy sinh
thân thể để được Pháp chân thừa.
Người
Thầy dạy học trò phải kế thừa Pháp là vì muốn Pháp chân thật luôn
được hiển hiện và cũng vì lòng thương, muốn học trò được an lạc,
hạnh phúc giữa cuộc đời đầy thù hận, oán cừu này. Từ tình thương
của Thầy mà người học trò cung kính vâng lời, ghi nhớ. Cho nên, quan hệ
Thầy- Trò cũng được gắn liền bởi chất liệu Thương và Kính.
Kinh
nói: “Khi người học trò thực hiện sự nghiệp kế thừa Pháp, kế thừa
sự nghiệp tu tập của Thầy, mà không kế thừa sự ăn uống, thì không
những người người học trò có niềm vui, hạnh phúc lớn mà còn khiến
cho Thầy mình có được danh dự”. Và khi người học
trò không chịu kế thừa Pháp mà lại thực hành việc kế thừa tài sản,
thì ngược lại điều trên. Tuy nhiên, nếu chúng ta tiếp nhận pháp mà
không thực hành, không thể nghiệm trong đời sống, mà lại khư khư ôm một
khối hư danh và không chịu thực hành để truyền thừa cho hậu thế, thì
đó cũng là sự kế thừa ăn uống, không có cao thượng. Nên cũng trong
kinh này, Đức Thế Tôn dạy: “Sự thấp kém nhất trong thức ăn là thức
ăn dư thừa” (Thực trung chi hạ cực).
Nhưng
người học trò tiếp nối Pháp nơi Thầy là tiếp nối như thế nào?
Kinh
nói, Thầy thích sống đời sống viễn ly, thì trò học hạnh xả ly. Thầy
dạy những phương pháp cần đoạn trừ thì trò đoạn trừ. Đối với những
pháp cần thọ học và chứng nghiệm thì người học trò không xả bỏ phương
tiện thực hành. Đó là 3 điều đáng khen, khi học trò thực hành theo lời
Thầy dạy. Ngược lại là 3 điều đáng chê trách.
Người
học trò phải có niềm tin sâu sắc đối với Thầy của mình. Trò phải
tin rằng, Pháp mà Thầy trao truyền là những phương pháp, những điều mà
Thầy đã thực tập, đã sống. Những lời dạy ấy, được nói ra từ
tâm huyết từ đáy lòng sâu thẳm của Thầy, chứ không phải là những lời
dạy nằm trong khuôn khổ hạn hẹp của kiến thức sách vở hay nằm trên
bình diện tri thức con người hay của tế bào não. Chỉ khi có niềm tin như
vậy, chúng ta mới thực tập, học hỏi hết lòng. Và người Thầy cũng
tin là những lời dạy từ xương tủy của mình, người học trò kia có thể
lãnh hội và thực hành, khiến cho người học trò cũng đạt được niềm
vui đối với Chánh pháp như mình. Như vậy, mối quan hệ ấy cũng phải đặt
trên căn bản của niềm tin thì mới thành công, “Lòng tin là cửa ngõ để
thực hành và thành tựu hết thảy các thiện pháp”.
Hình
ảnh người Thầy thực hành pháp trong đời sống, chính là điều kiện
duy trì, gắn chặt mối quan hệ ấy. Người học trò đón nhập Pháp qua
ngôn ngữ của Thầy, cái đó cũng quan trọng nhưng không có giá trị thật
sự, mà chỉ thật sự có giá trị là sự tiếp nhận Pháp qua thân giáo của
Thầy. Bài pháp được thuyết giảng bằng thân giáo, không cần dùng đến
ngôn ngữ quy ước, mà chính bằng ngôn ngữ chân thật, “ngôn ngữ không
ngôn ngữ”. Đây là bài pháp sinh động, rất mầu nhiệm, dễ dàng lưu nhập
vào tâm trí của người học trò. Như vậy, chúng ta thấy, việc xây dựng
nên mối quan hệ ấy thật là khó, việc duy trì lại càng khó hơn, nhưng rất
quan trọng và cần thiết để thực hiện lý tưởng trong cõi đời nầy.
Khi
mối quan hệ ấy được xác lập, thì Phật Pháp tự nó hiển lộ trong đời
sống. Và chỉ có Tăng là người kế thừa Pháp mà thôi. Vì Tăng do Pháp
tác thành và do Pháp lãnh đạo. Do thực hành pháp mà các căn được thanh
tịnh, các lậu hoặc nhiễm ô đều được đoạn trừ, tâm ý hoàn toàn an
tịnh, thành tựu hết thảy các đức tính vô lậu. Do vậy, Tăng trở thành
nơi nương tựa, chỗ quy thú cho mọi người, là chỗ dựa an toàn vững chắc
để xây dựng gia đình tâm linh. Nên vấn đề xây dựng Tăng thân (Sangha
building) rất quan trọng, rất đáng được thực hiện để làm nơi quy thú
cho hết thảy mọi người muốn được an bình trong xã hội đầy các chứng
bệnh hiểm nghèo, sự bạo loạn và các chứng stress vv... như ngày nay.
Khi
người Thầy đi hóa đạo, tín đồ nghe lời Thầy giảng và đồng thời
nhìn vào hình ảnh những người học trò, họ thấy lời dạy và hành động
của Thầy cũng như người học trò ăn khớp nhau, khiến niềm tịnh tín
phát sanh; họ mới thật sự có niềm tin đối với Tam Bảo, nên mới thể
hiện vai trò ngoại hộ của mình (Trong 48 giới khinh của Kinh Phạm Võng,
giới thứ 6, nói điều này rất rõ). Ngày xưa, vua Ba Tư Nặc, thưa với đức
Phật rằng, chỉ nhìn vào Tăng Đoàn là Vua có niềm tin sâu sắc đối với
Đức Thế Tôn, đối với Tăng Đoàn.
Khi
quan hệ này đứng vững thì tất cả thành viên của xã hội đều nương
tựa và thực hành. Con người là thành viên, là nhân tố xây dựng xã hội.
Khi các thành viên mà thực tập thăng hoa gia đình tâm linh, phát huy đạo
đức, giữ gìn văn hóa, nét đẹp nhân văn, bên trong tỏa ra đức tính bất
bạo động, thì chắc chắn xã hội cũng được thăng hoa. Có như vậy, xã
hội mới yên bình, không còn các tệ nạn cũng như sự bạo loạn, khủng
bố. Cho nên, khi người Thầy đứng đúng vai trò, vị trí của mình; người
học trò làm đúng trách nhiệm, vị trí của mình, thì đó chính là tướng
thường trú của thế gian. Nên trong kinh Pháp Hoa có nói:
- 是 法 住 法 位
- 世 間 相 常 住
Nghĩa
là:
- Pháp
nào đứng đúng vị trí pháp nấy
- Đó
chính là tướng thường trụ của thế gian.
Khi
quan hệ Thầy-Trò trong chốn Già Lam vững mạnh, dẫn đến quan hệ Thầy-
Tín đồ gắn bó keo sơn; thì ngôi chùa cũng sẽ là nơi nương tựa cho tất
cả. Ngôi chùa là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, nên chùa bền vững thì
xã hội thanh bình, con dân an lạc, hạnh phúc.
Để
kết thúc cho bài viết này, chúng tôi xin mượn hai câu thơ của thi sĩ Huyền
Không để kết luận:
- “Mái
chùa che chở hồn dân tộc
- Nếp
sống muôn đời của tổ tông”.
Đó là hình ảnh Thầy và Trò
cùng đi vào xã hội để hiến tặng sự bình an và hạnh phúc. 1
|