-
“Nửa đời phiêu bạt tha phương
- Thoảng nghe
quê mẹ trĩu vương tấc lòng”.
-
Chúng tôi - những trái tim thiện nguyện của những
người con xa xứ đang rộn rã chuẩn bị cho một cuộc hành trình trở về
quê cũ sau những tháng ngày xa cách lắm nhớ thương với mục đích là
tham dự lễ giỗ Tổ và hoạt động từ thiện tại quê nhà.
-
Buổi mai hôm ấy, khi đất trời đang chìm trong yên
tĩnh, màn đêm còn dày phủ không gian, anh chị em chúng tôi đã khăn
gói lên đường. Những phần quà giản dị gồm gạo, mì gói, tập vở…đã
được chúng tôi chuẩn bị sẵn và đưa lên xe. Đúng 6 giờ 30 phút, khi
ánh bình minh xuất hiện xoá sạch những tối tăm ô trược của màn đêm
thì xe chúng tôi đã từ từ chuyển bánh.
-
-
Biết bao niềm vui, biết mấy bồi hồi, anh chị em
chúng tôi ai nấy đều hân hoan cho cuộc sống mới mà nơi đó chiếc xe
đò là nhà, tình huynh đệ là tình thương huyết thống, nuôi sống nhau
bằng những cái bánh giò nguội, bánh bao chiều mà thương nhau chi lạ!
-
Ròng rã suốt một ngày đêm, sáng hôm(13/2) sau
chúng tôi dừng chân tại chùa Tịnh Quang thành phố Đà Nẵng, nồi canh
bún và những cuốn cơm xu xi đã giúp chúng tôi no lòng để tiếp tục
chặng đường còn lại.
-
-
Và rồi, chiều hôm đó, đúng 2giờ 30 phút chúng tôi
đã có mặt tại chùa Phật Học (chùa Tỉnh Hội), đây là ngôi chùa Tổ tuy
không tráng lệ nhưng rất uy nghiêm đang sừng sững bên dòng sông
Thạch Hãn hiền hoà. Với những món bánh lọc, vả chắm chao cũng đủ no
lòng những người con xa xứ trong ngày đầu trở về thăm quê mẹ. Và nơi
đây, chúng tôi lại tiễn nhau về thăm ba mẹ trong niềm khắc khoải nhớ
thương.
-
Đêm hôm nay(13/2) có lẽ là đêm mà anh chị em
chúng tôi hạnh phúc nhất khi được quây quần bên bếp lửa hồng để nhìn
lại gương mặt ngày một già nua của ba mẹ, hay cái nhìn thương mến
của người anh, người chị, người em.
-
Tuy vậy, thời gian không cho phép chúng tôi nhiều,
trong niềm lưu luyến của người thân, chúng tôi tạm gác lại để cùng
nhau trở về chùa Đại An bắt đầu chương trình của chuyến Về Nguồn
đúng như mục đích.
-
Đúng 13giờ 30 chiều 14/2, chúng tôi đi đảnh lễ
chư Tôn đức ở tỉnh Quãng Trị. Sắc Tứ Tịnh Quang là ngôi tổ đình mà
chúng tôi đến đầu tiên. Nơi đây là sự kết tinh của những trái tim,
của những người con xuất thân từ quê hương Quãng Trị đang sống trên
khắp năm Châu. Quỳ trước di ảnh Tổ, chúng tôi nghiêm mình nghe lời
giáo huấn của Hoà thượng trụ trì, Ngài đã rất hoan hỷ và tán thành
những công việc mà chúng tôi sắp làm trong chuyến Về Nguồn
này.
-
-
Giã từ Sắc Tứ Tịnh Quang, chúng tôi lại đến chùa
Long An. Trong cái nắng gắt của xứ Quãng Trị, anh chị em chúng tôi
cuốc bộ suốt hơn một cây số dọc theo những lối mòn của làng, chúng
tôi ai nấy cũng mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhại nhưng trên môi vẫn nở nụ
cười. Và cuối cùng chúng tôi cũng đã đến nơi mình cần đến. Lòng
chúng tôi bổng thấy nhẹ nhàng và thanh thản trước một ngôi chùa đang
xây dựng dỡ dang ở bên bến sông Thạch Hãn. Y áo chỉnh tề, chúng tôi
quỳ dưới tôn dung của đức Từ Phụ, bên bóng áo nâu của thầy trụ trì (Thượng
toạ Thích Hải Tạng), chúng tôi lắng lòng trong giây phút để nghe
những lời chỉ giáo của Thầy, như những đám ruộng khô cằn trong tiết
hạ bổng gặp một trận mưa trút nước của chiều đông. Với giọng nói
trầm ấm, Thầy đã nhắc nhở anh chị em chúng tôi biết trân trọng hơn
cuộc đời tu hành của mình. Thầy bảo: “ tất cả anh em là kho báu
của chính chúng tôi, là kho báu của quê nhà, vì là nho báu nên chúng
tôi luôn trân quý và vì trân quý nên chúng tôi luôn sợ nó mất đi…”.
-
Bấy nhiêu lời thôi cũng đủ cho anh chị em chúng
tôi biết được giá trị của chính bản thân mỗi người rồi. Thầy trò
chúng tôi quây quần trong khoảng thời gian hạn chế, chưa kịp rót cho
nhau tách trà thì phải chia tay nhau để tiếp đến chùa Bích Khê.
- Bích
Khê là một ngôi chùa Ni, dù chưa có cổng Tam Quan, nhưng không vì
thế mà giảm đi phần uy nghiêm. Ni sư trụ trì nơi đây rất giản dị,
lời ăn tiếng nói tuy không hoa mỹ nhưng đã chuyển tải những đức hạnh
từ thân giáo của Người đến chị em chúng tôi. Giã từ Bích Khê, trên
con đường còn thơm hương mạ non, chúng tôi trở về Đại An với bữa cơm
chiều rau tương đạm bạc.
- Sau bữa
cơm chiều ấy, chúng tôi chia nhau thành hai nhóm để đi sinh hoạt
giao lưu với các gia đình Phật tử, một ở chùa Đại An và một ở chùa
Chánh Giác (Nhan Biều). Ở đó, chúng tôi đã bộc bạch tất cả
tâm sự của những người con xa xứ và lồng vào đó là những lời Phật
dạy mà chúng tôi đã có dịp học qua để chia sẻ với các đạo hữu ở nơi
này. Buổi tọa đàm kết thúc trong tình yêu quê hương và tình thương
của những người con Phật. Nồi bánh canh bột gạo đã tiễn bước chúng
tôi trong đêm tối trở về Đại An để kết thúc một ngày nơi đất mẹ.
- Sau một
đêm không dài, tiếng đại hồng chung đã vang vọng thúc giục anh chị
em chúng tôi bắt đầu cho một ngày mới. Khi đất trời còn chưa sáng,
làn khí lạnh vẫn còn rơi, chúng tôi đã vội vã khuân vác những phần
quà đưa lên xe chuẩn bị cho ngày từ thiện đầu tiên ở làng An Hội.
-
Dọc theo con đường làng hai bên xanh màu lá mạ đã
đưa chúng tôi đến với làng An Hội (Triệu Lăng). Chùa có tên An Hội
nằm lặng lẽ trên đôi cát trắng giữa “thành phố đợi chờ”. Bàn chân
lún sâu dưới từng lối cát, chúng tôi đã nhanh chóng chuyển những
phần quà đến tay những đồng bào ở đây.
-
- Trong niềm hân
hoan ấy, tôi cảm tác rằng:
-
- “An Hội sáng ni thật rộn ràng
- Trên mặt ai nấy cũng hân hoan
- Đón Tăng Ni trẻ –con viễn xứ
- Về đây chia sẻ cảnh cơ hàn.
- Món quà tuy chẳng có là bao
- Gạo, tập, mì gói tổng hợp
vào
- Thêm chút tình thương người
con Phật
- Gởi đến bà con vui biết bao!”.
-
Chia tay bà con ở làng An Hội, chúng tôi trở trở
về An Trú. Nơi đây bữa cơm đạm bạc với những dĩa rau dền luộc, môn
ngọt bóp…cùng với những cây ổi say trái của nhà Sư cô Diệu Hằng đã
níu gót anh chị em chúng tôi ở lại. Thật không có gì bằng tình quê
hương với những gốc mía, giàn bầu cũng đủ làm nao lòng lữ khách tha
hương. Chiều hôm đó, khi hoàng hôn từ từ buông xuống, thành cổ Quãng
Trị ẩn hiện những nét uy linh, chúng tôi dừng chân đốt nén tâm hương
dâng lên những anh linh người cha, người anh đã quên mình nằm xuống
để cho chúng tôi có được cuộc sống thanh bình như ngày hôm nay.
-
Tôi chợt ngậm ngùi trước nấm mồ chung, mà nơi đó
đã vùi chôn biết bao nhiêu sự hy sinh mất mát, này tình mẹ con, đây
tình đồng đội, và chua xót hơn cho những tình yêu vừa chớm nở lại
vội tắt lịm ngàn năm…
-
“Hoàng hôn giăng tím góc trời
- Uy linh
Thành Cổ nhớ người ra đi
- Thời gian
còn lại những gì
- Chỉ còn
đồng cỏ xanh rì nhớ thương
- Linh đài
nghi ngút khói hương
- Nhất tâm
tụng biến Vô Thường tiễn nhau.”
-
(Thành Cổ chiều
15/2/Kỷ Sửu)
-
Là những người con xuất thân từ miền đất Quãng
Trị nhưng mấy ai trong chúng tôi đã biết được nơi này. Với thế âm
dương hoà hợp, mang đậm nét tâm linh, làn khói hương nghi ngút
chuyển tải những tâm tư, tình cảm của anh chị em chúng tôi đến với
những người đã khuất.
-
-
Đúng như nhà thơ Lê Bá Dương đã từng nói:
- “Đò lên Thạch Hãn…ơi chèo nhẹ
- Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
- Có tuổi hai mươi thành sông nước
- Vỗ yên bờ, mãi mãi nghìn năm”.
-
Rời thành cổ trong sự bùi ngùi, chúng tôi trở về
Đại An và buổi Pháp đàm tối hôm đó đã kết thúc thêm một ngày nữa.
-
Một ngày mới lại bắt đầu, sáng hôm nay (16/2)
chúng tôi đưa nhau đến với một vùng sâu xa thuộc huyện Hướng Hoá.
Đây niệm Phật đường Trung Sơn Tài tọa lạc tại xã Tân Lập, Hướng Hoá
- vùng đất núi dung hoà đồng bào Kinh lẫn đồng bào Vân Kiều rất thân
thương làm chúng tôi cảm thấy mát dạ dù ngoài kia trời vẫn nóng như
rang.
-
- Từ
Trung Sơn Tài, chúng tôi tiếp tục ghé thăm nhà tù Lao Bão. Dưới cái
nắng gay gắt của buổi trưa, phảng phất chút gió Lào, chúng tôi ngơ
ngác trước cảnh một nhà tù hoang tàn đỗ nát đã mấy mươi năm.
Nhà tù Lao Bảo được xây dựng năm 1908, thực
dân Pháp chọn chôn “thừa thải sự khắc nghiệt” này để giam cầm, hòng
làm giảm ý chí chiến đấu của các Sĩ phu yêu nước. Đây cũng là nơi
giam cầm nhiều chiến sĩ cách mạng, mà sau này là những vị lãnh đạo
cao cấp của Đảng và Nhà nước[1].
Nơi đây biết bao con người đã chịu nỗi đớn đau của những đòn roi vọt
để đem lại sự điều rằng:
- “ Đã đến đây rồi Lao Bảo ơi
- Cảnh vật xé
nát trái tim tôi
- Vang vọng dư
âm từ quá khứ
- Bao tiếng
kêu la xé đất trời.
-
- Giã từ Lao
Bảo lòng trĩu nặng
- Ta quyết tâm
tu để cứu đời
- Rừng hoang
nắng rọi xuyên kẽ lá
- Trĩu lòng
suy nghĩ phút đầy vơi…”
- Rời nơi
đây, chúng tôi lại đến tham quan khu thương mại Lao Bảo, có lẽ đây
chỉ là một cuộc du ngoạn xem đồ mà thôi, vì anh em chúng tôi không
ai mua được một thứ chi cả ngoài việc đổi những đồng tiền Lào làm kỷ
niệm…(khà khà…).
-
- Tiếp
theo, chúng tôi qua thăm biên giới Lào. Một điều mà tôi không thể
quên được đó là nghiệt nỗi chúng tôi không có Visa, những tưởng sẽ
bị bỏ lại ở cổng biên giới để “ngước mắt trông qua nước bạn thôi!”.
Thế là anh chị em chúng tôi rủ nhau đi chụp hình lưu niệm. Trong
đoàn chúng tôi, chỉ có hai sư anh là Nguyện Minh và Quảng Thắng là
có Visa, thế là hai sư anh cứ thoả thích kè vai, tung tăng đưa nhau
sang nước bạn làm tôi thấy ganh tỵ quá đi thôi! Hên quá! Sự xuất
hiện của Đại đức Từ Luận đã giúp cả đoàn chúng tôi cùng sang biên
giới một cách an toàn. Nơi đây không gì ấn tượng cho lắm ngoài cái
nắng khắt khe và ngọn gió Lào làm rát mặt. Khà, khà, khà…cả xe chúng
tôi ồ lên trước cảnh đời éo le khi người có Visa thì phải lội bộ thê
thảm, còn kẻ tay không lại được đưa đón bằng xe. Hai sư anh Nguyện
Minh và Quảng Thắng trông thật tội nghiệp, mồ hôi nhễ nhại khuôn
mặt đỏ bừng đang ngồi bên quán nước xứ Lào. Ôi chao! Trà Dr. Thanh
của Lào ngon tuyệt! ngon hơn Dr.Thanh của nước Việt nhiều,“tôi ghẹo”.
- Chúng
tôi đến thăm một ngôi chùa Lào, nhà Sư nơi đây có những lời giáo
huấn nhưng chúng tôi không hiểu, bởi sư nói tiếng Lào.
-
- Rời
nước bạn, chúng tôi quay về niệm Phật đường Khe Sanh để giao lưu
sinh hoạt Phật Pháp với các Đạo hữu nơi đây. Thời gian chúng tôi
dừng chân tuy không bao lâu nhưng cũng đủ để lưu lại những gì thân
thương nhất giữa chúng tôi với đồng bào Phật tử xứ này:
- “Giữa trời oi
bức tôi ghé thăm
- Tân Thuận Sơn Tài xứ khe Sanh
- Bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến
- Bên bóng áo lam đượm thắm tình.
-
- Này Mệ, này O với cả Dì
- Này Chú, này Bác
đông dữ ri!
- Ừ hí, Khe Sanh
tuy xa thiệt
- Nhưng mà không
thiếu hương Từ bi”.
-
- Khi bóng đêm dần buông, chúng tôi
cũng giã từ Khe Sanh, kết thúc ngày thứ 4 của chuyến đi này.
- Và sáng
nay (17/2), sau khi điểm tâm ở chùa Đại An, anh chị em chúng tôi lại
tiếp tục đi vào Hải Lăng. Đến Đông Dương - một vùng đất bao dung
những tấm lòng đầy tình thương chân quê mộc mạc, được thể hiện qua
từng dĩa dưa môn giúp chúng tôi no lòng sau một buổi làm việc.
- “Tôi đến Đông Dương một sáng ngày
- Bên đường đồng mạ gió hây hây
- Một miền cát trắng vùng Quãng Trị
- Thấm đượm tình thương chính ở đây.
-
- Hai hàng Phật tử vui chào đón
- Tăng Ni tề tựu đến nơi này
- Trao niềm an
lạc trong Chánh Pháp
- Dưới ánh Từ
quang vui sum vầy”.
-
- Chiều
tối hôm ấy, chúng tôi cùng nhau có mặt tại Chiêu Linh Đài (Đại Lộ
Kinh Hoàng) để kịp tham dự lễ đốt nến kỳ siêu cho những anh hùng
chiến sĩ vị quốc vong thân và đồng bào tử nạn. Trời nhá nhem tối,
khí trời đã lạnh nay càng lạnh hơn, kịch sao nỗi sự linh cảm giữa
hai cảnh giới âm dương: “Hỡi chư Hương linh! Lúc này đây, chúng
tôi cảm nhận được sự hiện hữu của quý vị qua làn gió phảng phất đêm
xuân, qua bóng mây lang thang vô định, qua sự lung linh của ngọn nến
hồng lạp trên tay..”
-
-
Trong làn khí lạnh với những giọt mưa lất phất,
đêm cầu nguyện đã xong, anh chị em chúng tôi lại trở về Đại An để
chuẩn bị cho ngày giỗ Tổ tại Tổ Đình Sắc Tứ Tịnh Quang.
-
Sáng hôm ấy (18/2), trong cái rét cắn răng, chúng
tôi quy tụ về tháp Tổ để làm lễ tưởng niệm ngày huý nhật, đồng thời
ôn lại cuộc đời và sự nghiệp của vị Tổ khai sơn. Đây cũng là dịp
giúp chúng tôi biết rõ hơn về Tông phong Tổ Ấn của mình.
-
Rời Sắc Tứ Tịnh Quang, đoàn chúng tôi lại tiếp
tục cuộc hành trình đến Chùa Cam Lộ. Ở đây, chúng tôi đã cùng với
Hoà thượng trụ trì Thích Thiện Tấn và Thượng toạ Thích Viên Giác
chung tay trao những viên thuốc cảm, những chai dầu gió…đến với bà
con nghèo. Suốt một ngày đêm ròng rã, chúng tôi lại giã từ Cam Lộ và
trở về Đại An để tham dự lễ Bá Nhật chi tuần của Hoà thượng Trưởng
ban trị sự Phật giáo tỉnh Quãng Trị, và cũng chính chiều hôm đó
(20/2) đoàn chúng tôi bùi ngùi giã từ vùng đất mẹ yêu thương, để trở
về lại với miền đất phương Nam.
-
Luyến lưu biết mấy! nhớ thương biết mấy! Khi mẹ
hiền đang dõi mắt trông theo chiếc xe chuyển bánh, cuốn theo những
lớp bụi hồng lúc ẩn lúc hiện qua những đoạn đường cong, anh chị em
chúng tôi sưởi ấm lòng nhau bằng những bài ca thâm trầm mà sâu lắng.
-
Thế là một chuyến Về Nguồn của đại gia
đình chúng tôi đã khép lại với cả niềm vui xen lẫn nỗi buồn. Mười
ngày đêm, một khoảng thời gian không phải gọi là dài cho một kiếp
người, nhưng cũng không thể bảo là ngắn cho những Tăng Ni trẻ xa quê
như chúng tôi trong cuộc hành trình về thăm quê mẹ, bao nhiêu đó
thôi cũng đủ cho anh chị em chúng tôi đồng cảm được cuộc sống và
tình thương của con người Quãng Trị. Chúng tôi cũng không quên rằng:
- “Dù có phiêu bạt muôn phương
- Làm người
phải có quê hương trong lòng.”
-
Đối với tôi, chuyến đi này là kết tinh của những
trái tim tràn ngập tình yêu quê hương, yêu giống nòi và yêu nhân
loại của những người con Phật như chúng tôi, là sức mạnh giúp chúng
tôi vững bước trong những tháng ngày sống ở tha hương. Thật là:
- “Hương tình
thương vẫn ngàn năm còn mãi
- Như giọt
hồng cho lá thắm cây xanh
- Bên thời
gian và cuộc sống an lành
- Vẫn thắm mãi
trong dòng đời muôn thuở.”
-
Người con xa quê
-
Thông Chánh
-
- ____***___
- Gởi Về Quê Hương
-
-
(Xin gởi về miền đất Quãng Trị yêu thương !)
-
- Ai về Quãng Trị người ơi
- Cho tôi nhắn gửi những lời yêu thương
- Dẫu cho xa mấy dặm trường
- Bên cầu Ai Tử còn vương câu hò
- Cửa Tùng tấp nập thuyền đò
- Dòng sông Thạch Hãn quanh co tấc lòng
- Sự đời biết mấy đục trong
- Mà người thiếu phụ hoài lòng vọng phu
- Gio Linh nắng táp, sương mù
- Trường Sơn heo hút hoang vu núi đồi
- Nơi đây biết mấy thân người
- Đã nằm xuống để cho đời bình yên.
- Ai ơi nhớ ghé Cồn Tiên
- Thăm cùng đồng đôi nơi miền thiên thu.
- Chiều chiều nhớ tiếng mẹ ru
- Khe Sanh, Lao Bảo, Trung Du, Đồng Bằng
- Triệu Phong, Gio Hải, Triệu Lăng
- Đông Hà, Dốc Miếu, Hải Lâm cùng lòng
- Con người Quãng Trị quyết tâm
- Trồng cây ươm hạt gieo mầm chồi xanh
- Cho vườn cỏ ở Cổ Thành (Thành cổ)
- Luôn luôn tươi tốt thắm xanh đất trời
- Ai về Quãng Trị người ơi!
- Cho ta nhắn gửi những lời yêu thương ...
-
-
Người Con Viễn Phương