CHÁNH NIỆM
Có lần tôi nói với một học giả ở Tích Lan rằng
tôi đã tập thiền theo đạo Phật. Một cách đùa giỡn, ông hỏi
tôi là đã bay lên trời được chưa. Điều này là một phản ứng
rất phổ biến. Người ta thường lẫn lộn giữa thiền định và
những trạng thái mê đắm tự kỷ ám thị hay là trạng thái làm cho
tâm trí trống rỗng, những cái gì xa vời, không liên hệ gì đến
đời sống hàng ngày. Đó là một lầm lẫn đáng tiếc. Thiền định
đích thực là một cách thức luyện tập tâm trí và có thể chuyển
hóa cả tư tưởng và hành động.
Trong truyền thống đạo Phật nguyên thủy, thực tập
chánh niệm rất quan trọng. Khi ngồi thiền, theo dõi hơi thở, nhiều ý
nghĩ đã đến với tâm ta. Chúng thường liên hệ đến quá khứ hay
tương lai. Những cuộc đối thoại gần đây cũng được nhớ lại.
Những quyết định chưa dứt khoát cứ xoáy vào tâm ta. Cảm giác
khó chịu của thân thể hiện đến. Và thỉnh thoảng, những hình ảnh
chìm sâu trong tiềm thức cũng dần dần trồi lên. Khi tư tưởng và
cảm giác hiện ra trong lúc thiền định, chúng được quan sát một
cách đơn giản. Chúng không được đè nén, đẩy qua một bên, nhưng
chúng cũng không được hoàn toàn tự do nảy nở. Sự hiện hữu
và mất đi của chúng được ghi nhận mà không chỉ trích hay đề cao.
Khi tôi mới bắt đầu tập thiền, tôi khám phá ra
rằng tư tưởng và cảm giác rất lưu hoạt, luôn thay đổi, thường
khó kiểm soát, nhiều khi không hợp lý. Đó là một nhận thức đau
đớn, bởi vì tôi cho rằng tâm tôi được sự kiểm soát trực
tiếp của tôi. Thế nhưng, chính đó cũng là bước khởi đầu cho
tự thức, sự bắt đầu để tìm hiểu tâm ta hoạt động như thế
nào và là cánh cửa dẫn tới sự điều chỉnh những khuôn mẫu
tiêu cực, cố định trong chính đời sống của tôi.
Thiền định như thế là một thực tập chăm chỉ. Nó
không phải là việc làm cho tâm ta trống rỗng, mặc dù nó có thể
dẫn tới sự an bình và yên tĩnh khi mà cái tâm lăng xăng của ta
yên lắng lại và chỉ có giây phút hiện tại nầy thôi. Một tăng
sĩ, thầy tôi, đã nói như vầy: "Thiền định là sự thực
tập tối cao của tinh thần bất bạo động. Buồn khổ, đau đớn, và
giận dữ không được dồn nén mà phải được nhìn rõ, đương
đầu và chuyển hóa."
KHÔNG THÙ HẬN
Trong Trung Bộ Kinh, đức Phật đã dạy các môn đệ:
"Này các Tỳ kheo, ví như có một tên cướp hạ
tiện dùng cưa để cắt tứ chi của các ông ra, cho dù như vậy, nếu
ai trong các ông khởi lòng thù oán, thì người đó không thực
hành đúng giáo pháp của ta. Đây là cách mà các ông nên theo
để tự rèn luyện mình: tâm ý ta không bao giờ nghĩ xấu, cũng như
không nói những lời hung ác, mà phải luôn an trú trong thân thiện
và từ bi, với lòng lân mẫn và không oán hận."
Hình ảnh sống động đó luôn kích động tôi - một
tên cướp đang cưa chân và tay của tôi ra. Và đó không phải là
điều hoang tưởng. Chiến tranh đã giết hại như thế. Sự chà đạp
nhân quyền trong các thể chế chuyên chế cũng đưa đến sự ghê
rợn tương tự. Nỗi sợ hãi, khiếp đảm, hoặc sự trả thù bằng
bạo động để tự bảo vệ mình dường như là phản ứng tự nhiên
với sự tấn công như thế.
Thế nhưng ở đây sự thách đố của đạo Phật là:
đừng trả thù, đừng oán hận; hãy yêu thương mọi người cho dù
họ sắp giết mình. Và sự thách đố này cũng có trong những tôn
giáo khác. Jesus ở Palestine, quằn quại đau đớn vì bị đóng đinh
trên thập giá, nhưng vẫn tha thứ cho những người giết ông, và
vẫn thương mến họ vì sự mù quáng của họ.
Thế nhưng có phải điều này ngầm hiểu rằng đạo
Phật chủ trương rằng chúng ta sẽ không bao giờ tự bảo vệ cho
chúng ta và cho người khác khỏi sự bạo động, rằng chúng ta phải
cam chịu sự bóc lột, rằng khi phải đối đầu với những thế lực
tàn bạo chúng ta phải thụ động, tiêu cực? Nếu trả lời
"vâng" là chúng ta đã hiểu sai đạo Phật. Đạo Phật không
bao giờ ủng hộ sự thụ động khi phải đương đầu với bạo động
và sự tàn ác. Đúng ra, đạo Phật khuyến khích một thái độ tâm
thức can đảm giúp chúng ta có thể đương đầu và phản đối bạo
lực mà không sợ hãi và oán hận.
Không có nơi nào trong kinh sách đạo Phật đề nghị
là chúng ta nên tiêu cực trước sự đau khổ của người khác.
Không có nơi nào đạo Phật cho rằng chúng ta nên nhịn nhục mà
không chống trả khi một người định giết người thân, láng giềng,
hay bạn bè của chúng ta ngay trước mắt ta. Trong tình huống như thế,
đau khổ phải được giải tỏa, bạo lực phải bị lên án, có khi
đòi hỏi cả sự tự hi sinh, mặc dù đạo Phật cũng luôn cảnh
giác rằng lấy oán để báo oán thì oán thù sẽ chồng chất. Điều
mà kinh sách đạo Phật đều nói rõ là nếu lấy oán thù, giận
dữ đối với người gây ra bạo động là chúng ta đã tự bại
hủy. Người mang lòng thù oán sẽ chịu nhiều đau khổ hơn người bị
thù oán.
Trong kinh sách Phật giáo, chúng ta thấy có nhiều câu
chuyện về những người không có lòng sân hận đã làm thay đổi
được sự tàn ác và biến nó thành vô hiệu. Một người đàn
bà, vì bà không mang lòng oán hận, nên đã không bị thương tích gì
khi người vợ cùng chồng với bà đã ghen tuông đổ dầu sôi lên
người bà. Và khi một vị tăng sĩ chết vì bị rắn cắn, đức Phật
đã nói rằng ông ấy không chết nếu như ông rãi tâm từ của
ông vào thế giới rắn. Điều này có vẻ không tưởng trong thế
giới đầy bạo động hôm nay. Những người hoài nghi sẽ viện đến
cái chết của Gandhi ở Ấn Độ, Oscar Romeo ở El Salvador, của Michael
Rodrigo ở Tích Lan để cho thấy rằng những người làm việc hăng say
với đầy thiện tâm vẫn không tránh khỏi cái chết gây ra bởi
lòng tham và oán hận của kẻ khác.
Thế nhưng sức mạnh của giáo huấn này vẫn còn đó.
Bạo lực không thể được khắc phục bởi bạo lực. Oán hận
không thể được giải trừ bởi oán hận. Đời sống của chúng ta
sẽ không an toàn hơn nếu chỉ có ước vọng bảo vệ chúng. Để
đương đầu với cái chết mà không oán thù và sợ hãi, ngay cả
với những tên sát nhân, là con đường thiêng liêng, thánh thiện.
Đó là những sự thật vĩnh cửu.
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Có lần một vị giáo sư về Phật giáo nguyên thủy
đã hỏi tôi: "Trong hầu hết các cuộc hội nghị về tôn giáo mà
tôi dự, tại sao người ta cho rằng Thượng Đế là điểm hội tụ
giữa các tôn giáo? Lẽ ra, chúng ta nên tập trung về các vấn đề
của con người hơn là của thần linh."
Khi nói về những tín hữu cầu nguyện một đấng Sáng
Thế Tối Cao hay một Thượng Đế Toàn Năng thì Phật tử và các tín
đồ đạo Kỳ Na (Jains) không có trong đó. Tuy Phật tử tin rằng có
những vị thần sống trong những thế giới tốt đẹp khác, nhưng họ
không cho rằng các vị thần đó có quyền năng sáng tạo, cũng như
họ không tin rằng các vị thần đó có ảnh hưởng gì đến việc
giải thoát của con người.
Vì thế, niềm tin vào Thượng Đế không thể là nền
tảng chung giữa Phật tử và tín hữu các đạo khác như Ky Tô
giáo, Hồi giáo, hay Do Thái giáo. Thế nhưng có thể có một nền
tảng chung nào giữa các tôn giáo khi nói về con người và về các
hoạt động phục vụ xã hội loài người? Tôi tin rằng câu trả
lời là "Có". Đạo Phật nói về "Tứ Vô Lượng
Tâm" mà phẩm tính tốt đẹp của nó đã thấm nhập vào toàn
thể giáo pháp. Đó là Từ, Bi, Hỉ và Xả.
Từ là lòng thương yêu vô hạn tỏa đến mọi loài -
bạn hữu và kẻ thù, những người quen biết và những người chưa
quen biết, những gì ta yêu thích và những gì không yêu thích. Đó
là một khuynh hướng tâm lý nhằm chuyển đổi hành động. Bi được
thể hiện khi người ta xúc động trước những đau khổ của kẻ
khác và làm việc không ngừng nghỉ để giải trừ những đau khổ
đó. - một mức độ cao hơn, Bi đòi hỏi phải hành động. Hỉ là
một đức tính mà tôi gặp nhiều thách thức nhất. Để biểu tỏ
tâm Hỉ là biểu tỏ niềm vui trước sự thành công của kẻ khác,
hoàn toàn tự tại trước sự ganh ghét và tị hiềm, chia xẻ niềm
vui và sự thành công của kẻ khác ngay cả khi mình gặp cảnh đau
buồn.
Về Xả, thường bị hiểu lầm là sự lãnh đạm, thờ
ơ, hờ hững trước sự đau khổ của con người, một điều hoàn
toàn tương phản với lòng từ bi. Nhưng Xả chính là sự tự do
đích thực vượt khỏi tự ngã ích kỷ đã che mờ sự hiểu biết
và hủy diệt sự sáng suốt. Người với tâm Xả không bị lôi kéo
theo hướng này hay hướng khác bằng những phản ứng đầy cảm tính
- những phản ứng đầy vị kỷ hơn là quan tâm đến kẻ khác. Họ
hành động với sự hiểu biết.
Tứ Vô Lượng Tâm đã chỉ cho tôi những lý tưởng
có thể hướng dẫn cuộc đời chúng ta - những lý tưởng có thể
kiến tạo một xã hội mà những người có lòng tín ngưỡng luôn
mong mỏi. Một xã hội như thế là một xã hội mà lòng từ bi chiến
thắng lòng tham ái, một xã hội mà sự thành công của một người
không phải do sự bóc lột và chèn ép người khác, một xã hội
mà những người cai trị được hướng dẫn bằng những nguyên tắc
rõ ràng, công chính hơn là sự theo đuổi quyền lực và danh vọng.
Tứ Vô Lượng Tâm là một hình ảnh toàn thiện, là niềm hi vọng
của mọi tôn giáo và có thể mang đến một mục đích chung, độc
lập với quan niệm về Thượng Đế.
Vậy thì hãy đặt lòng từ bi nhằm cải thiện xã hội
làm điểm quan trọng hàng đầu trong mọi đối thoại tôn giáo. Mong
rằng những ai xuất thân từ những truyền thống độc thần nhận
thấy rằng họ có thể chia sẻ nhhững hi vọng của họ cho một xã
hội công chính với những người bạn Phật tử. Mong rằng những
người Phật tử thấy rằng họ có thể kết hợp với những
người bạn Do Thái giáo, Ky Tô giáo, Hồi giáo trong việc xây dựng
một thế giới mà lòng từ bi, bác ái thay chỗ của lòng tham và
sân hận.
CÁI "TÔI" TRONG ĐẠO PHẬT
VÀ ĐẠO KY TÔ
Sri Pada, ở Tích Lan, cao hơm 7,000 bộ và là một nơi
hành hương trong nhiều thế kỷ qua. - trên đỉnh có một dấu chân
lớn, mà tùy theo tôn giáo khác nhau, có người cho là của đức
Phật, của Adam, hay của thần Shiva. Từ tháng Chạp đến tháng Năm là
mùa hành hương. Mỗi đêm, hàng ngàn người mộ đạo leo lên những
bậc thang của một con dốc dài, chiếu sáng. Nhìn từ xa, ngọn núi như
có một xâu chuỗi kim cương lấp lánh bên sườn. Đôi khi, nhóm
người hành hương quá đông nên người ta phải dừng lại ở mỗi
bậc thang. Sức nặng đè lên bắp chân thật là khủng khiếp. Một
người bạn Phật tử của tôi đã hành hương vào một đêm như
thế. Bà bảo tôi rằng chỉ có một cách duy nhứt để giúp đôi
chân của bà vượt qua cơn thử thách là bà nói với sự đau
đớn: "Nỗi đau này không phải của tôi, nó không phải là
tôi."
Bà đã lặp lại như vậy trong buổi thiền quán, và
tôi cũng học làm như thế. Trong khi ngồi thiền bất động, sự kích
thích hiện đến, muỗi cắn, hai đầu gối tê cứng, nhột ngứa khắp
nơi. Thế nhưng ta có thể chiến thắng ước muốn nhúc nhích hay gãi
ngứa bằng cách nhìn rõ một cách đơn giản rằng sự khó chịu chỉ
là sự khó chịu và nó không tùy thuộc vào cái "tôi".
Sự khó chịu trở thành một đề tài thiền quán. Nó có thể
được quan sát. Nó không giống với sự phản ứng thông thường
của chúng ta đối với sự kích thích, mà chúng ta thường cho là
"của mình" và tìm cách dẹp bỏ nó.
Tất cả những điều này liên quan đến "vô
thường", một quan niệm của Phật giáo về sự không có bản
ngã hay là không có một linh hồn bất tử. Vô thường được các
nhà truyền giáo đạo Ky Tô vào thế kỷ 19 ở Tích Lan coi như là
điều đã chứng minh rằng đạo Phật là một hư vô luận tuyệt
đối. Thí dụ như, Linh mục Thomas Moscrop, một nhà truyền giáo Methodist,
vào năm 1889, đã cho rằng đạo Phật "quá bi quan, quá lãnh đạm,
quá tương phản với thể chất của nhân tính để có thể chinh phục
thế giới (The Ceylon Friend, 16 October 1889). Nhưng tôi không tìm thấy chủ
nghĩa hư vô trong những điều mà đức Phật dạy về "vô
ngã".
Đạo Phật và đạo Ky Tô không có đối kháng nhau ở
đây. Cơ cấu nền tảng thì khác nhưng con đường thực tin nhằm giải
thoát con người thì cả hai đều đề cập đến. Cả hai tôn giáo
đều nói đến ý niệm sai lầm về cái tôi. Đạo Phật cho rằng:
Đừng nghĩ rằng bạn luôn cố định, không bao giờ thay đổi. Bạn
luôn trôi chảy, xê dịch, dính liền với toàn vũ trụ. Đừng bao
giờ nghĩ rằng bạn là một cá thể biệt lập và cố gắng tranh đấu
với thế giới để có một bản ngã riêng. Ky Tô giáo cũng có
những điều tương tự. Methodist, một tông phái của Ky Tô giáo
được thành lập vào thế kỷ 18 ở Anh, trong buổi l vào chủ nhật
đầu tiên của tân niên trong đó họ cam kết vâng lời Thượng
Đế, trong đó họ nói: "Tôi không còn là chính tôi mà là
các bạn." Thánh Paul, trong nhiều bức thư gởi cho giáo hội
cũng đã nói đến việc đánh mất cái tôi xưa cũ của mình. Tất
cả những lời nói đó đều nhằm tiêu diệt cái tôi tự cao tự
đại của con người.
Cả đạo Phật và Ky Tô giáo đều cho rằng cái tôi
biệt lập với mọi cái khác là cái đáng bị kết án. Đạo Phật
cho rằng một cái tôi như thế không có một hiện hữu khách quan như
là một bản vị không thay đổi. Ky Tô giáo cho rằng cái tôi phải
chết để dọn đường cho một tình yêu đầy quyền năng hơn. Tôi tin
chắc rằng nếu chúng ta không coi sự đau khổ, sự khó chịu, và sự
sợ hãi như là "của chúng ta" nhưng chúng ta chấp nhận chúng
như một phần của dòng hiện hữu, nếu chúng ta không cố tìm cách
để bảo vệ cá tính và sự an toàn bằng mọi giá thì chúng ta có
thể leo cao hơn đỉnh Sri Pada.
VÔ CHẤP VÀ TỪ BI
Có lần một nhà truyền giáo Ky Tô giáo đã hỏi tôi
một cách chân thành rằng: "Hình ảnh của đức Phật cho tôi
thấy sự lạnh lùng, thờ ơ, quay lưng lại cuộc đời. Tôi thích hình
ảnh của Jesus Christ với chiếc áo dơ bẩn dính đầy mồ hôi của kẻ
nghèo."
Có một ấn tượng về đạo Phật là tôn giáo nầy
đề cao sự rút lui khỏi thế giới đầy đau khổ, sự từ bỏ mọi
hoạt động tích cực về xã hội. Tôi vẫn còn nhớ mãi một hội
nghị liên tôn mà tôi tham dự cách đây vài năm bởi vì có một
tham dự viên Tây phương đã nhấn mạnh rằng lòng từ bi hướng về
những hoạt động bên ngoài không phải là điều quan trọng trong
đạo Phật. Sự tiếp xúc của tôi với đạo Phật đã thúc đẩy
tôi phải thách đố với ấn tượng này. Tôi đã làm điều này
ngay tại hội nghị đó và tôi sẽ tiếp tục làm việc này. Chính là
những người bên ngoài - những nhà quan sát người Âu và những
người tìm kiếm sự chạy trốn khỏi thế giới này - đã nghĩ rằng
đạo Phật khuyến khích sự lãnh đạm, hờ hững trước những đau
đớn, quằn quại của đời người. Điều này không đúng với
đạo Phật. Dĩ nhiên, đạo Phật có nói đến sự xuất gia, từ bỏ,
và buông bỏ, nhưng đó là sự buông bỏ khỏi những gì có tác
dụng ngăn chận lòng từ bi phát khởi - như sự sở hữu, sự ganh
đua, và sự ích kỷ. "Viraga", một từ Pali được dịch
là buông bỏ, vô chấp, thực ra có nghĩa là "không có
raga" - không có luyến ái, không có tham ái - chứ không phải
là không có quan tâm đến thế giới.
Khi tôi kể cho một tăng sĩ Phật giáo ở Tích Lan nghe
về hội nghị liên tôn, ngài đã nói rằng: "Không có lòng
từ bi thì không thể có đạo Phật". Và lòng từ bi đó là
một đức tính tích cực. Buddhaghosa, một luận sư vĩ đại ở thế kỷ
thứ năm, người đã từ Ấn Độ sang giáo hóa ở Tích Lan, đã
đưa ra nhiều định nghĩa về từ bi. Ngài viết: "Khi có sự đau
khổ ở kẻ khác thì tâm từ bi sẽ làm cho những người thiện tâm
xúc động. Một cách khác, tâm từ bi chiến đấu chống lại sự đau
khổ của kẻ khác và nhằm chấm dứt sự đau khổ đó. Hay một cách
khác nữa, tâm từ bi chan hòa đến những ai đau khổ, đến với họ
với đầy tình thương." (Thanh Tịnh Đạo). Chan rãi tâm từ đến
với người khác là một phần quan trọng trong thiền tập, nhưng nó
cũng quan trọng như thế trong cố gắng tranh đấu nhằm chấm dứt sự
đau khổ. Chiến đấu để chấm dứt sự đau khổ không phải chỉ có
việc giảm thiểu sự gây đau khổ cho người khác mà còn đòi hỏi
hành động nhằm giải thoát người khác khỏi những lực lượng
xã hội vô nhân đạo và khỏi những khuôn mẫu tư tưởng tù túng
nữa. Hành động như thế có thể thấy được trong chính đời sống
của đức Phật và những người thực sự giác ngộ.
Đối với tôi, hình ảnh của Jesus Christ với bộ áo
dính đầy nỗi đau khổ của người nghèo và hình ảnh của đức
Phật không có gì chống chọi nhau. Họ không xung đột hay cạnh tranh
nhau. Lòng từ bi đã kết hợp họ lại. Jesus đã chìa đôi tay của
ngài ra đến với những người nghèo và những người bị khinh
miệt trong xã hội của ngài, và tự mình gánh chịu mọi tội lỗi
của loài người. Đức Phật, với lòng từ bi đối với chúng sinh
đầy đau khổ, đã lìa bỏ vợ đẹp con thơ để lên đường tìm
đường giải thoát cho tất cả chúng sinh.
- Polonaruwa, một thành phố cổ nay đã bị tàn hủy, đã
từng là thủ đô của Tích Lan. có một ngôi đền đá (the Gal Vihara),
nơi có ba bức tượng lớn bằng đá. Trong đó có hai bức tượng
Phật. Niềm an lạc đã tỏa ra từ đó và trải dài hơn 800 năm nay.
Tuy nhiên đó không phải là niềm an lạc của sự lãnh đạm và
thờ ơ. Đó là niềm an lạc của trí tuệ và từ bi. Niềm an lạc có
được khi bản chất đau khổ của sân hận và tham ái đã được
nhận thức toàn vẹn. Đó không phải là sự thống khổ, tiếng thét
quằn quại của nỗi giày vò và bản tính của thế giới vô nhân
đạo, nhưng đó là một biểu hiện bằng đá một cách tài tình, im
lặng về sự thông cảm, lòng từ bi và dũng lực. Ngay trước
những bức tượng này, Thomas Merton, một linh mục Ky Tô người Mỹ
trong thế kỷ này mà hành trình tôn giáo của ông đã đưa ông
đến rất gần với đạo Phật, đã viết: "Tượng đá, mọi
hình sắc, đều chan hòa với pháp thân (dharmakaya)... tất cả là
không và tất cả là từ bi."
Vì thế, hình ảnh của đức Phật đã chỉ cho tôi,
trước hết là trí tuệ để nhìn thấy rõ mọi nguyên nhân đã gây
đau khổ cho con người, và lòng từ bi đã nằm ngay nơi trái tim của
sự giác ngộ chân chính. Và nó đã thúc giục tôi phải cố gắng
làm những điều nhằm chấm dứt sự đau khổ trong thế giới của
chúng ta.