- GẶP
GỠ TUỔI TRẺ
- Nói chuyện với sinh viên khoa Sử,
Ðại học Sư phạm Vinh – 1999
Hôm nay các bạn đến chùa. Chùa đối với Việt
Nam chúng ta là một danh từ rất quen thuộc. Từ "Chùa" thường ghép
với một từ đơn là "chiền".
Từ kép gọi là "Chùa chiền". Cả hai từ này rất quen thuộc, bởi
hiện tại trên đất nước chúng ta làng nào cũng có chùa. Ở Bắc, Trung,
Nam đều có hết. Và chùa như là một bộ phận không thể thiếu của dân
tộc Việt Nam. Như nhà thơ Huyền Không đã nói:
Quê tôi có gió bốn mùa,
Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm.
Chuông hôm gió sớm trăng rằm
...
Mái chùa che chở hồn dân tộc.
Vì sao họ
nói vậy? Vì Phật giáo truyền đến Việt Nam kể từ thế kỷ thứ nhất,
lúc chúng ta đang còn lệ thuộc phương Bắc, chưa có một nền độc lập
hoàn toàn tự chủ và vững chắc. Và chính các vị Sư thời ấy là những
người bạn làng của nhân dân, giúp đỡ nhân dân; đem giáo lý từ bi, hỷ
xả, bình đẳng, vị tha truyền bá cho nhân dân; giúp cho nền văn hóa của
chúng ta mạnh lên, có một sắc thái để đứng vững trước sự đô hộ
của phương Bắc để có thể giành được độc lập. Chính cái hồn dân
tộc đó, nó còn mãi mãi trong lòng người dân chúng ta. Cho nên dù trải
qua bao nhiêu cơn sóng gió, khó khăn, cuối cùng chúng ta cũng giành được
độc lập. Nhờ đó, chúng ta có những giai đoạn vong quốc nhưng không
vong bản. Vong bản thì không có thể kéo lại được nhưng vong quốc thì
có thể kéo lại được. Vì cái gốc đã mất rồi thì không làm sao mà
kéo lại. Chính đó là một điều hết sức cần thiết mà bây giờ chúng
ta nói: trở về với cội nguồn dân tộc. Mà khi trở về cội nguồn dân
tộc thì chúng ta đọc trong lịch sử, trong văn hóa, các bản văn được
truyền lại, chúng ta thấy những gì? Thấy những bản văn của các nhà
trí thức yêu nước xưa, đồng thời chúng ta cũng thấy bản văn của các
vị Thiền sư để lại.
Cái sự
nghiệp gọi là tạo dựng nền văn hóa cho Việt Nam, chính các nhà sư xưa
là những người đã đóng góp rất lớn. Ðọc lịch sử Việt Nam mà nếu
không đọc lịch sử Phật giáo Việt Nam thì không trọn vẹn. Cho nên với
các bạn, tôi tin rằng, các bạn học sử Việt Nam, chắc chắn các bạn cũng
đã đọc sử Phật giáo Việt Nam, mà càng đọc thì các bạn càng thấy
rõ sự tương quan giữa lịch sử Phật giáo Việt Nam và lịch sử Việt
Nam ta như thế nào. Nhất là đời Lý và đời Trần, là hai đời mà chúng
ta thấy những ông vua phần nhiều là những đệ tử Phật, tin Phật một
cách thuần thành, chơn chính đồng thời là những ông vua sáng suốt, hùng
mạnh, vô úy; biết đem tinh thần của Phật áp dụng để được tự lợi,
lợi tha. Cho nên các ông vua trong các triều đại đó đã có những đóng
góp, xây dựng cho đất nước một nền độc lập hùng mạnh, vững chắc.
Chúng ta biết rằng, sau một nghìn năm Bắc thuộc, là đến triều Lý, một
triều đại dựng nước lâu bền nhất, trên 200 năm. Một lịch sử tốt
đẹp vừa có sức mạnh đối bên ngoài, vừa có sự cai trị tốt lành đối
với dân chúng bên trong. Và rồi từ triều Lý mới có được triều Trần
nối tiếp, một triều đại chống cả Nguyên Mông - lúc bấy giờ là một
lực lượng hùng cường, đi đến đâu người ta cũng khiếp sợ - nhưng đến
Việt Nam, chúng ta đã đánh thắng được, giữ được độc lập.
Như vậy,
chính những cái đó đã nói lên Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam ta
như thế nào!
Tôi muốn
nói thêm với các bạn, trước hết là lược sử về chùa Từ Ðàm này.
Chùa Từ
Ðàm được khai sáng vào khoảng năm 1690, tức là cuối thế kỷ thứ 17,
đến nay trên 300 năm, lúc đang còn Trịnh, Nguyễn phân tranh.
Ngài Minh Hoằng
Tử Dung - Một vị Thiền sư Trung Hoa, sáng lập ra chùa này. Ðầu tiên
Ngài đặt tên chùa là "Ấn Tông Tự". Ba chữ ở bảng hiệu phía
trước mặt các bạn, đó là tên chùa do Ngài đặt đầu tiên.
"Ấn
Tông" nghĩa là thế nào? "Ấn Tông" theo nhà Phật gọi là
"dĩ tâm ấn vi tông", tức là lấy sự truyền tâm làm tông chỉ.
Nhà Phật cốt ở cái tâm. Tâm mê thì làm việc trái; tâm ngộ thì làm việc
phải. Mọi sự ở giữa đời này cốt ở cái tâm, do tâm chỉ huy. Vì vậy,
vị Thiền sư này đã dùng hai chữ "Ấn Tông" để đặt cho hiệu
chùa. Ðạo Phật chú trọng nơi "ấn tâm", cho nên đạo Phật gọi
là đạo Giác ngộ cũng chính là nói cái tâm giác ngộ.
Ðến thời
Thiệu Trị, vua đặt thêm một tên khác cho chùa nữa, gọi là "Từ
Ðàm Tự". "Từ" là lành; "Ðàm" là đám mây. Vậy Từ
Ðàm là đám mây lành, có ý tượng trưng cho đức Phật như đám mây lành
che mát chúng sanh.
Chùa Từ
Ðàm lúc sơ khai chỉ làm bằng tranh, tre, nứa..., tồn tại lâu dài với một
thời gian gần 300 năm. Trải qua bao thăng trầm thay đổi của lịch sử thì
năm 1935, khi Phật giáo Việt Nam phục hưng sau bao năm bị phân hóa, tan rã,
suy vi dưới thời Pháp thuộc. Cũng vào năm này, Phật giáo ba miền Bắc,
Trung, Nam phục hưng. Khi Phật giáo phục hưng, ở miền Trung, lấy ngôi
chùa Từ Ðàm này làm trụ sở và kiến thiết lại quy mô, trở thành chùa
Từ Ðàm như ngày hôm nay.
Từ khi xây
dựng ngôi chùa này cho đến nay đã có những sự kiện xảy ra. Ðiều thứ
nhất là chùa được làm trụ sở chung cho cả Phật giáo miền Trung. Các tỉnh
miền Trung mỗi năm về đây họp để vạch chương trình hoằng dương Phật
pháp, phát huy Phật giáo. Ðiều thứ hai là, vào năm 1963, dưới chế độ
ông Ngô Ðình Diệm cai trị miền Nam; chính quyền này rất hung bạo và rất
kỳ thị Phật giáo, chèn ép Phật giáo để tâng bốc một tôn giáo khác
lên. Cho nên Phật giáo ở miền Trung này đã có một sự nổi dậy, gọi
là "Cuộc vận động Phật giáo đòi quyền tự do bình đẳng tôn
giáo", thì cũng phát xuất tại chùa Từ Ðàm này. Chuyện này bây giờ
đối với các bạn, nó đã trở thành chuyện dĩ vãng, bởi chuyện xảy ra
từ năm 1963, chắc chắn trong này ít có bạn nào mà sinh trước năm 1963.
Tôi nói
vài nét đặc trưng về lịch sử chùa như vậy để các bạn thấy sự ảnh
hưởng Phật giáo tại Huế và tại miền Nam này như thế nào để có sự
tham gia tốt lành của quần chúng như vậy. Nên lúc bấy giờ dưới thời
chế độ độc tài Ngô Ðình Diệm mà Phật giáo đứng lên chống lại, đó
là một chuyện không phải dễ. Dựa vào đâu mà Phật giáo dám chống đối
như vậy? Tất nhiên là phải có quần chúng ủng hộ. Mà Phật giáo có rất
nhiều quần chúng, có ảnh hưởng rất lớn đến quần chúng, vì quần
chúng tìm thấy cái gì hay, đúng đắn ở đó đối với đạo giáo, với
tín ngưỡng, với tri thức luân lý và đối với dân tộc, cho nên mới có
một sự đứng dậy như vậy.
Ðó là tôi
nói một vài nét về sự ảnh hưởng của Phật giáo ở miền Trung và miền
Nam trong những năm vừa qua như thế nào cho các bạn biết. Bây giờ tôi
nói tiếp đạo Phật là đạo thế nào?
Ðạo Phật
phát xuất từ Ấn Ðộ. Cuối thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, tại Ấn
Ðộ, xứ Ca-tỳ-la-vệ, nay tức là xứ Népal, có một vị hoàng tử ra đời,
tên là Tất-đạt-đa, con vua Tịnh Phạn. Ngài là một vị hoàng tử sẽ
làm vua nhưng Ngài không làm. Bởi vì Ngài thấy làm vua thì cũng rất lợi,
nhưng chỉ lợi cho dân tộc Ấn Ðộ mà thôi. Cho nên Ngài không muốn làm
hoàng tử, làm vua, mà Ngài muốn làm một đấng Giác ngộ, tìm ra một phương
pháp để cởi mở sự vô minh, đen tối của con người, để cứu vớt chúng
sanh. Trong khi mới hạ sinh, Ngài đi bảy bước trên hoa sen, đưa một tay chỉ
trời, một tay chỉ đất và nói rằng: "Trên trời dưới trời chỉ có
Ta là tối thượng". Ngài nói câu ấy là ý nghĩa thế nào? Có hai ý
nghĩa chính:
1. Người
Ấn Ðộ thời bấy giờ, đa số theo Bà-la-môn giáo, họ tin tưởng rằng,
người nào sinh ra ở dưới trần mà có trí tuệ, thông minh, học giỏi
thì họ cho đó là người được Phạm thiên sai xuống. Họ tin tưởng như
thế. Bấy giờ Phật không tin tưởng điều đó. Phật muốn phá sự sai lầm
đó của mọi người nên Ngài nói: "Trên trời, dưới trời chỉ có Ta
là tối thượng". Nghĩa là không có Thượng đế nào sinh ra Ta, không
có đấng tạo hóa nào sinh ra Ta. Chỉ có Ta là tối thắng.
2. Câu này
còn có nghĩa là, cuộc sống chết của Ta đều do Ta quyết định. Cuộc đời
của Ta như thế nào; sướng hay khổ; giàu hay nghèo; sang hay hèn... tất cả
đều do Ta quyết định. Cho nên sau này Phật có dạy rằng: "Không cha
mẹ, trời đất hay ai làm cho Ta cao thượng hay thấp hèn, chỉ có hành động
của Ta làm cho Ta cao thượng hay thấp hèn mà thôi; không phải ai khác làm
cho Ta ô nhiễm hay trong sạch, mà chỉ do Ta làm cho Ta ô nhiễm hay trong sạch
mà thôi".
Ðó là ý
nghĩa chính, mà đức Phật nói trong câu: "Trên trời, dưới trời chỉ
có Ta là tối thượng". Ngài muốn khai thị cho chúng ta rằng, mọi việc
trên cuộc đời này là tự mình làm, tự mình quyết định lấy cuộc đời
của mình. Sau này, giáo lý của đức Phật luôn nhắm theo hướng đó; nhắm
theo hướng nhắc nhở chúng sanh phải tự giác ngộ lấy mình. Nếu không tự
giác ngộ lấy mình, thì bao nhiêu tật xấu sẽ dắt dẫn, chỉ huy, chi phối
làm cho chúng ta trở nên xấu xa, ngu muội.
Tại sao
chúng ta cũng như tất cả chúng sanh xấu xa, ngu muội, chưa thể giác ngộ?
Trong các nguyên nhân đức Phật đã dạy, thì có ba nguyên nhân chính mà đức
Phật gọi là ba thứ độc. Ðó là: tham, sân và si.
Tham là sự
đam mê, ham muốn; sân là sự thù hận, hung dữ, ghen ghét; si là sự ngu muội.
Trong ba thứ đó không ai mà chẳng có. Chính ba thứ này là nguyên nhân, là
tai hại mà nếu như chúng ta không sửa nó, thì nó sẽ làm cho tiêu tan mất
sự nghiệp của chúng ta, làm cho con người thấp hèn, bị hạ giá, bị sa
đọa... Cho nên Phật dạy phải trừ ba độc đó đi.
Muốn trừ
ba thứ đó, muốn chỉ cho chúng sanh sự tai hại của nó, nên trong bài
giáo lý mà đức Phật thuyết lần đầu cho hàng đệ tử của mình sau khi
Ngài thành đạo, gọi là sơ Chuyển pháp luân, đức Phật đã dạy về Tứ
diệu đế mà chắc chắn các bạn đã từng học hoặc nghe đến danh từ này,
trong đó Ngài dạy về sự thật thứ nhất, gọi là Khổ đế: Ðời là khổ.
Một bài thuyết pháp mà bây giờ những nhà trí thức khi nghiên cứu Phật
giáo rất thán phục.
Ðời là khổ.
Nói như vậy, có những người mới nghe thì chối tai lắm. Ðời tại sao gọi
là khổ được? Có nhiều chuyện vui lắm, cớ sao gọi là khổ?
Ðức Phật
nói đời là khổ có nhiều thứ, như: Sự sống là khổ; già là khổ; chết
là khổ. Người nào mà mình ưa thích, vật nào mình ưa thích mà bị xa
lìa thì khổ. Người nào mà mình oán hận, cái vật gì mà mình không ưa mà
bị gặp mãi, đụng đầu mãi cũng khổ. Sự mong cầu mà bị thất vọng
không đạt được cũng khổ. Chính những cái khổ đó tôi thiết tưởng rằng,
trên đời này không ai dám nhận rằng tôi không có các khổ đó. Người
giàu tới mấy, đau có thuốc chữa, đủ mọi thứ; ở trong nước chữa không
được, đi ra ngoại quốc chữa, nhưng anh ta không thể chữa hết cái đau
của anh được. Dù cố ý chữa cũng không thể khỏi cái đau được, như
đau chân, bị cưa chân, nhất định là khổ. Bị mổ ruột là khổ. Già bị
lẩm cẩm là khổ. Không muốn chết mà phải chết là khổ. Ðó là cái khổ
hiển nhiên chứ không ai có thể nói đó là sướng được.
Rồi đến
những điều yêu thích. Những điều đó không nằm luôn trong bàn tay ta
được, thế nào cũng có lúc bay đi. Chính bản thân chúng ta là vật yếu
quí nhất, nhưng nó cũng vuột đi. Thì đó là một sự ái biệt ly khổ,
điều ta yêu quí nhưng phải xa lìa là khổ. Rồi những điều ta ghét, tức
là điều ta không ưa, ta chê, ta mắng mà nó cứ sừng sững đi đến. Những
điều thất bại, ta không ưa, những người ta ghét bỏ, ta không thích gặp,
thế mà vẫn gặp, tránh ngả nào cũng không xong. Quả thật là khổ. Vậy
thử hỏi có ai trong chúng ta trên cuộc đời không có những thứ khổ đó?
Không nhiều thì ít, không ai tránh được. Cho nên, đức Phật tổng kết lại:
đời là khổ.
Ðời là khổ.
Ðó là khởi điểm để cho cuộc hành trình đi tìm giác ngộ giải thoát của
đức Phật. cũng y như nói tấm thân nô lệ, đó là khởi điểm cho những
nhà đi làm cách mạng tiến tới nền độc lập tự do. Nếu không nhận thức
rằng mình là con người bị nô lệ thì sẽ không có ai làm cách mạng hết.
Cả hai việc trên đều như nhau. Có người chưa hiểu kịp, nói đạo Phật
là đạo bi quan, yếm thế, mở miệng là nói khổ. Nhưng cái khổ của đạo
Phật nói là khởi điểm để đi tìm giác ngộ. Có một ký giả phỏng vấn
một vị Tăng Tây Tạng tên Dagpo Rimpoche, có tiếng là một trí thức, đồng
thời cũng là một giáo sư về văn hóa Tây Tạng ở Ðại học Pháp. Câu hỏi
mở đầu về chữ khổ:
- Các tôn
giáo Thiên Chúa gán cho sự khổ của một giá trị cứu rỗi. Người ta giải
thích rằng khổ giúp ta đạt đến một tương lai tốt hơn.
- Trả lời:
"Phật giáo không nghĩ như vậy. Ðối với Phật giáo, khổ không bao giờ
được xem như hoặc được trình bày như một giá trị. Khổ là cái phải
diệt nó. Tất nhiên, phải thực tế: ai cũng nằm dưới luật khổ. Thế
thì, thay vì để cho khổ dẫm nát, ta hãy dùng khổ để vươn lên, dùng khổ
như là một khí cụ để học cách hiểu mình hơn và hiểu người khác hơn.
Sửa đổi bên trong của mình toàn vẹn, lìa ra khỏi khổ, điều đó rất
cần thiết để phát triển từ bi và có lẽ sau đó một thái độ vị tha
giúp người khác thoát khổ. (Theo lời GS. Cao Huy Thuần trích từ tạp chí
Pháp: Express 307/5.8.1998).
Những cái
khổ đó có rất nhiều nguyên do, nhưng lý do chính vẫn ở nơi lòng ta mà
ra, chính chúng ta; đức Phật nói do tham ái, tham dục. Tham ái, tham dục,
nói cách khách quan có nghĩa là đam mê cờ bạc, đam mê rượu chè, đam mê
sắc dục, đam mê của cải, đam mê quyền lực... Bao nhiêu cái đam mê đó
nó dày vò trong lòng mọi người.
Người đam
mê cờ bạc, thấy sự đam mê cờ bạc không thỏa mãn được, không vui
được thì chạy sang đam mê sắc dục. Thấy sự đam mê sắc dục không thỏa
mãn, không vui được, thì chạy sang đam mê quyền lực. Lại cũng thấy không
thỏa mãn không vui được, thì chạy sang đam mê khác, cuộc đời của một
người với bao nhiêu đam mê như vậy, chác chắn là một cuộc đời sa đọa,
một cuộc đời gây nên tội ác. Vì những sự đam mê đó, cầu cho thỏa
mãn đam mê; muốn thỏa mãn đam mê không phải là một chuyện dễ. Không
phải là ta đam mê một cái gì là đều đạt được cái đó. Không phải
là chuyện dễ nên ta mới đi tìm, tìm cách này không được ta tìm cách
khác. Từ con người đang tốt trở nên con người xấu, ăn cắp ăn trộm,
ăn hối lộ, bán hàng giả v.v... Thường thường, vì sự đam mê đó cho
nên người ta nhiều khi tranh nhau, lừa gạt nhau, so bì nhau mua nhà, sắm
xe... Vì sự đam mê đó mà làm cho tâm niệm tối tăm, cái lòng từ bi sáng
suốt thu hẹp lại hoặc bị mất đi. Vì vậy đức Phật nói sự đam mê
tham dục là nguồn lực chính, cơ bản nhất của sự đau khổ.
Cụ Nguyễn
Du có nói: "Tu là cội phúc, tình là giây oan". "Tình" đây
không chỉ là tình ái, mà "tình" đây còn chỉ mọi sự đam mê đó.
Chúng ta biết
rằng, những sự đam mê đó gây biết bao nhiêu tai hại, khổ sở ở giữa
xã hội, ở giữa hàng thanh niên, ở giữa học đường... Cho nên đức Phật
nói chính sự đam mê tham dục là nguyên nhân gốc rễ của đau khổ. Vậy,
muốn trừ đau khổ thì trước hết chúng ta phải trừ đam mê ấy. Khi
chúng ta đã trừ hết đam mê ấy rồi, thì tâm của chúng ta sẽ sáng suốt,
chúng ta sẽ nhận thức được những việc của mình làm như thế nào cho
có lợi, như thế nào cho đừng thất nhơn ác đức, như thế nào cho đừng
gây thêm tai họa cho người khác. Nếu chúng ta tối mắt chạy theo cái đam
mê đó, thì chúng ta trở nên bị tha hóa, không làm chủ được mình nữa.
Một người say rượu, khi đó rượu làm chủ; một người mê cờ bạc, dục,
khi đó sắc dục làm chủ, bị tha hóa, mất tự chủ.
Lại nữa,
đức Phật còn nói sự đau khổ vì do vô minh (Vô minh chắc các bạn học
triết cũng đã biết). Nếu phá hết vô minh thì được giác ngộ, khi giác
ngộ thì hết đau khổ.
Vô minh như
thế nào? Sự vật trước mặt ta rõ ràng như thế đó mà ta không nhận ra
thực tướng của nó, lại nhận khác đi, đó gọi là vô minh. Hiểu một
cách sai lầm, nhà Phật gọi đó là vô minh. Ví dụ, bây giờ đây tôi
đưa ngón tay, xin hỏi các bạn ngón tay này dài hay ngắn? Chắc chắn không
ai nói được. Có đậu mấy bằng Tiến sĩ cũng chịu thôi, không nói được.
Nhưng nếu tôi đem một cây diêm để so sánh, thì chúng ta sẽ nói ngón tay
dài. Ðem cây thước để so sánh thì ta sẽ nói ngón tay ngắn. Dựa nơi cây
thước mà nói ngón tay ngắn, chứ vốn ngón tay có dài có ngắn không?
Không dài không ngắn. Dài ngắn như vậy, tốt xấu như vậy, đen trắng
như vậy, hơn thua như vậy, cao thấp... cũng đều như thế ấy. Như vậy,
sự thật của sự vật là gì? Sự thật của sự vật là không dài không
ngắn, sở dĩ có dài có ngắn là tại vì người này đem diêm so với ngón
tay của người này nói dài; người kia đem thước để so thì người kia nói
ngắn. Thế rồi một người cho là ngón tay ngắn, một người cho là ngón
tay dài. Người này cho mình phải, người kia sai; người kia cho mình phải,
người này sai. Cả hai không chịu thua ai, cãi qua cãi lại, cuối cùng sinh
ra đánh lộn nhau. Ðánh lộn nhau vì sao? Vì vô minh? Vô minh là sao? Là vì
ngón tay nó không ngắn không dài, nhưng cứ đem tâm so sánh ngón tay với
cây diêm, ngón tay với cây thước, bóp méo tướng ngón tay theo ý mình, quyết
chắc cho thế là chơn tướng nên sinh ra đánh lộn nhau. Ðánh lộn nhau là
vô minh. Chuyện rõ ràng, sờ sờ trước mắt thế mà ta nhận không ra, thì
đạo Phật gọi là vô minh.
Hoặc tỷ dụ,
ta tên là A. thật ra tên đó khi cha mẹ sinh ra chưa có. Cha mẹ chỉ sinh ra
cục thịt chứ không có A, B gì hết.
Nhưng đến khi đặt tên A, lúc đầu ta không chấp nhận, có người nào gọi
ta là A thì cũng bỏ lơ. Nhưng đến khi bỏ lơ không được, bỏ lơ thì bị
đánh. Vì vậy, khi gọi tên A thì ta chấp nhận liền, từ đó người ta gọi
A mãi. Nên ta cứ đinh ninh ta là A, A là ta, đồng hóa ta với A làm một.
Khi đồng hóa ta với A làm một rồi, bây giờ ở trong nhà nghe người nào
đi ngoài đường gọi tên A lên để mắng chửi, thì thấy khổ vô cùng.
Hoặc có người nào đi ngoài đường gọi tên A lên mà ca ngợi, thì thấy
vui sướng lắm. Lúc đầu cha mẹ đặt tên A, thì lúc đó ai muốn khen chê
gì cũng mặc, ta không sướng không khổ gì hết. Nhưng khi ta đồng hóa
tên A là ta, ta là A rồi, ai khen A thì sướng lắm, ai chê A thì khổ lắm.
Họ khen chê tên A không thôi chứ không đụng gì tới thân thể, họ khen
chê cái tên, một cái hư danh thôi nhưng mà sướng lắm, khổ lắm. Nếu
như ta biết suy nghĩ một chút, tên A là một tên giả tạo, chắc gì chỉ
có ta mới có tên A? Tên A có rất nhiều người. Người đó có thể khen A
khác, chứ đâu phải khen A này đâu mà sướng! Chê A khác chứ đâu phải
chê A này đâu mà khổ! Thế nhưng ta cứ níu tên A vào ta, ngoài ta không
có ai tên A nữa hết. Nên nghe khen là sướng, nghe chê là khổ, có phải
vô minh không?
Lúc đức
Phật còn tại thế, một hôm Ngài dẫn một đoàn đệ tử đi trên đường.
Ði sau Ngài có hai thầy trò ngoại đạo tên Phạm-ma-đạt. Thầy thì dùng
mọi lời lẽ xấu xa, chỉ trích, chê bai Phật, chê bai đệ tử Phật; còn
người học trò thì dùng mọi lời lẽ hay ho khen Phật, khen đệ tử Phật.
nhưng Phật vẫn làm thinh không nói gì cả. Ðến khi về tinh xá thụ trai
xong, các vị đệ tử ngồi lại bàn tán: họ khen chê như vậy mà đức Thế
Tôn có nghe hay không! Nếu Ngài có nghe thì tại sao Ngài lại làm thinh,
không nói gì cả? Chúng đệ tử thắc mắc. Ðức Phật đi ngang qua nghe
được liền hỏi các thầy bàn tán chuyện gì. Các thấy trả lời Phật:
Các con bàn chuyên khi nãy. Có hai thầy trò ngoại đạo Phạm-ma-đạt đi
sau lưng, người thầy thì chê mà người trò thì khen. Không biết đức Thế
Tôn có nghe không mà không thấy Ngài nói gì cả. Phật dạy: "Ðừng,
khi nghe ai khen chớ vội mừng, vội mừng thì bị sa đọa; khi nghe ai chê chớ
vội buồn, vội buồn thì bị sa đọa. Bình tĩnh xét người khen đó có đúng
với ta hay không đúng với ta". Sự bình tĩnh đó quan trọng lắm. Có
bình tĩnh thì mới sáng suốt, có bình tĩnh mới đối phó đúng đắn, nếu
không có sự bình tĩnh, thì chúng ta sẽ xử sự sai.
Thành thử
đức Phật ra đời cốt là để khai thị cho chúng sanh những cái gì thấy
trước mắt phải hiểu cho rõ, nhận thức cho đúng. Phải thay đổi cách
nghĩ sai lầm đối với sự vật. Khi đã hiểu rõ, nhận thức đúng rồi
thì ta sẽ có sự xử sự đúng. Xử sự đúng thì bao giờ cũng đem tới
an vui lợi lạc. Lợi ích của đạo Phật là vậy. Người theo đạo Phật
hiểu chừng nào, thực hành chừng nào thì càng thấy sự vui vẻ chừng đó.
Chính đức
Phật là người đã tự giác. Giáo lý của Ngài đã dạy chúng ta sự tự
giác, nhắc chúng ta phải làm chủ lấy mình, nhìn lại lòng mình, từng
hành động của mình trong từng ngày, từng giờ có đam mê điều gì xấu
xa, điều gì u tối, điều gì độc ác hay không, nếu có thì trừ diệt đi. Tự soi lại trong lòng mình ngày
nay có được điều thiện nào không, có nghĩ được điều tốt điều hay
nào cho ai không? Nếu chưa có thì cố gắng phát huy. Nếu mỗi ngày mà
mình tự tin, phản tỉnh lại mình như vậy (tự giác) thì chắc chắn
chúng ta sẽ trở thành một con người sáng suốt, một con người hiền lành;
con người có đạo đức. Nếu thiếu sự tự giác đó, thì tất nhiên
chúng ta sẽ sa đọa mãi, mà khi đã sa đọa rồi thì không thể làm lợi
cho ai được hết. Ðạo Phật được gọi là đạo Giác ngộ cũng vì vậy:
Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
Những người
đến với Phật giáo, nhất là những người đã thấm nhuần giáo lý đạo
Phật, người ấy sẽ thấy rằng, đến với Phật giáo thì tâm hồn ta sẽ
mở rộng thêm chứ không phải thu hẹp lại; tâm hồn ta sẽ sáng lên chứ
không tối tăm lại; tâm hồn ta sẽ hiền ra chứ không phải độc ác. Ðến
với đạo Phật mà nếu ta đến với một sự chân thành và hiểu rõ, cộng
với lòng ưa thích giáo lý của đức Phật, tất nhiên ta sẽ trở nên con
người tốt.
Tôi mong rằng
các bạn hiểu điều này để chúng ta tự giác tỉnh. Trong đạo Phật có
một phép Thiền định để tu luyện tâm tính. Thiền là gì? Thiền là tập
trung tư tưởng. Tâm của chúng ta bây giờ đây nó chạy bậy đủ thứ.
Khi tâm như vậy thì làm một bài tập thấy đã khó. Vậy nên các bạn phải
tập trung tư tưởng lại, không cho tư tưởng chạy qua việc khác, mà phải
tập trung vào bài tập đó. Chính sự tập trung này đạo Phật gọi là Thiền.
Tham thiền (ngồi thiền) tức là ngồi định lại, yên lặng gom tất cả tư
tưởng chạy loạn của mình có sức tự chủ. Luyện tâm mình như người
luyện võ, một anh luyện võ, người đó luyện một cách thuần thục, tuyệt
diệu rồi, thì khi bị đánh sau lưng anh đỡ sau lưng; đánh trước mặt
anh đỡ trước mặt. Khi ta có được cái tâm tự chủ định rồi, thì trước
mọi hoàn cảnh đều có thể bình tĩnh đối phó được hết. Còn nếu như
không, nhiều khi người ta vô tình nói lỡ một câu nói trái ý, thì đã lồng
lộn lên, và căm tức suốt mấy ngày. Vô tình mình mang lại cái khổ cho
mình, mà không tự biết, ngủ không được, ăn không ngon. Nếu như ta không
có một sức bình tĩnh tự chủ thì ta sẽ đối phó sai lầm, đối phó sai
lầm là đau khổ. Nếu ta có một sức tự chủ, nhận xét, thì trước mọi
sự ta sẽ sáng suốt để đối phó. Ðó là điều mà tôi muốn nhắc nhở
các bạn luôn luôn tự giác, mà muốn tự giác thì ta phải tập thêm một
tính tự tin. Mỗi ngày nên để mười lăm hoặc hai mươi phút để ngồi lại,
ngồi lắng lòng lại, gạt tất cả những chuyện hơn thua, hay dở, được
mất ra ngoài ý nghĩ, gạt hết tất cả để cho tâm hồn của chúng ta được
bình an, định tĩnh một lúc.
Nếu muốn
dễ dàng hơn nữa thì các bạn chú ý nơi hơi thở ra vào. Ðức Phật có
phép quán gọi là Sổ tức quán. Là đếm hơi thở ra vào, theo dõi hơi thở
ra vào. Bởi vì trong người của chúng ta con mắt có khi nhắm lại, lỗ tai
có khi không nghe, cái chân cái tay có khi không cử động chứ còn hơi thở
lúc nào vẫn có. Ngủ cũng thở, thức cũng thở, ăn cũng thở, thậm chí
khi cãi lộn cũng thở... Vì vậy, đức Phật dạy chú định tâm nơi hơi
thở, khi tâm chú định nơi hơi thở, chúng ta có được một sức mạnh rồi,
thì khi đó y như ngọn đèn có một cái bóng che chở thì ngọn đèn đó mới
sáng soi, sự vật mới rõ, chứ còn ngọn đèn để trước gió, chao qua liệng
lại thì vật gì cũng chỉ thấy lờ mờ, không rõ.
Ý nghĩa ở
trong nhà Phật dạy chữ "tự giác" tức là dạy chúng ta điều đó.
Muốn có tự giác thì hằng ngày phải để dành một thì giờ thật yên lặng.
Trong giờ phút ấy không để chuyện gì vướng trong đầu hết, phải giữ
cho tâm thật yên lặng, sáng suốt. Thân bình lặng, tâm bình lặng thì dễ
sáng suốt.
Ðó là tôi
nói những khái quát căn bản về đạo Phật cho các bạn thấy. Bây giờ
tôi nói tiếp Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam ta như thế nào.
Nói đến
đạo Phật hay Phật giáo, thì đối với những người đã học nhiều về
lịch sử Việt Nam, lịch sử Phật giáo Việt Nam, họ thường có câu nói:
"Ðạo Pháp và Dân tộc". Vì sao nói vậy?
Nói Ðạo
pháp và Dân tộc tức là muốn nói sự gắn liền, sự hòa nhập của đạo
Phật vào trong dân tộc Việt Nam. Như trên tôi đã nói, đạo Phật đã ăn
sâu và bám gốc rễ vào dân tộc Việt Nam trên hai nghìn năm nay nên những
đặc tính của Phật giáo đã thấm vào da thịt của mỗi người dân, đến
nay vẫn còn ngấm ngầm tồn tại ở trong đó. Ngày nay mặc dù có nhiều
người đi chùa, lạy Phật thì lạy chứ không hiểu Phật là sao, lời của
Phật dạy thế nào. Nhưng họ vẫn đi chùa, vẫn lạy Phật, là vì sao? Vì
sao mà lạy? Một là vì truyền thống từ xưa đã huân tập thành chủng tử
ở trong máu huyết của dân tộc ta. Hai nữa là vì cái tình cảm, cái sự
đối đãi của Phật giáo đối với dân tộc này có một sự hòa điệu.
Ðạo Phật đi đến với Việt Nam chúng ta một cách hiền lành, như người
bạn quý đến với nhau, không có một cái gì mưu mô, thủ đoạn, hung dữ.
Dân tộc chúng ta đã tiếp nhận đạo Phật và đạo Phật đã hòa nhập
vào dân tộc chúng ta một cách êm thắm, và đã góp sức xây dựng cho nền
độc lập vinh quang của Việt Nam. Thế nên, ngày nay trong máu, trong tâm,
trong truyền thống gia tộc của chúng ta có không ít thì nhiều, không nhiều
thì ít cái mầm Phật giáo trong đó. Cho nên, từ chỗ đó nếu như chúng
ta đến gần hơn để tìm hiểu đạo Phật nhiều hơn nữa, thì chúng ta sẽ
thấy ngày trước Tổ tiên chúng ta theo đạo Phật rất có ý nghĩa, các
Ngài không phải tầm thường. Cũng vì sự theo đó nên trên nền lịch sử
Việt Nam, đạo Phật đã đóng góp một phần rất lớn, rõ rệt nhất là
hai đời Lý, Trần mà bây giờ đây trong văn hóa, trong nếp sống và trong
phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam đã bàng bạc ý nghĩa cũng như
tinh thần Phật giáo. Ðó là một ảnh hưởng lớn, mà những người nào
đã đến với Phật, chắc chắn đã hiểu rõ.
Tháng 3 vừa
rồi trong buổi liên hoan phim Truyền hình tại Huế, có một nhóm phóng
viên truyền hình đã thực hiện một cuốn phim đề tài là "Nét đẹp
chùa Huế", được giải huy chương bạc. Trước đó họ đến chùa
quay phim, có hỏi tôi đạo Phật ảnh hưởng đến quần chúng như thế nào
và động cơ nào đạo Phật cuốn hút được nhiều tín đồ đến với chùa
như vậy. Tôi nói, sự ảnh hưởng của
đạo Phật cũng như những người đến với đạo Phật, như thế này: Bởi
từ xưa đến nay, người ta tin tưởng đạo Phật là đạo Từ bi, là đạo
hiền lành, đạo vị tha và là đạo hòa bình... Vì sự tin tưởng đó, cho
nên khi đến chùa, tự nhiên cảm thấy
mình gần với đức Phật. đó là điều thứ nhất. Ðiều thứ hai là cảnh
trí chùa chiền luôn luôn trang nghiêm, thanh tịnh, ở đó không có sự
giành giật, mưu mô; không có sự lấn ép, dối gạt. Chính những tinh thần
đó bàng bạc trong cảnh chùa, ngấm ngầm nơi cây cỏ. Nên những người sẵn
có thiện tâm khi đến cảnh chùa thấy tâm hồn mình khỏe khoắn, thanh thản.
Có giận hờn ở bên ngoài bao nhiêu đi nữa, nhưng đến chùa tự biết rằng, đức Phật là từ bi, nhẫn
nhục, dạy con người từ bi nhẫn nhục. Tự nhiên người ta cảm nhận
được điều đó, mà sự thù hằn lúc ấy cũng vơi bớt đi. Ở ngoài tham
lam đến mấy độc ác đến mấy mà người ấy đến chùa biết đó là chỗ
từ bi, hỷ xả, thì thế nào tâm hồn họ cũng nhẹ bớt chuyện tham lam độc
ác ấy đi. "Gần mực thì đen; gần đèn thì sáng", đó là lẽ tất
nhiên.
Vả lại,
có những người khi thấy lòng mình bận rộn, bứt rứt, phiền não, họ
liền tìm tới chùa. Nhìn Phật cũng được, lạy Phật hoặc không lạy cũng
được, ngồi bên gốc cây hoặc ở một nơi nào đó, lắng lòng ngồi im lặng,
liền tự thấy lòng mình an. Ðó cũng là một lợi ích rất lớn. Lúc có
những điều trong lòng bứt rứt, rối rắm, bất an, thì chính những lúc
đó, tiền bạc không làm cho an được, mà chỉ có tinh thần vô ngã vị
tha, tinh thần từ bi hỷ xả phá chấp của đức Phật mới đem lại sự
an lòng cho ta. Do đó, nhiều người đến với Phật, tự nhiên thấy lòng
mình nhẹ nhàng, an lạc. Và cũng vì lẽ này, tinh thần Phật giáo được
lan truyền và nhiều người đến với Phật giáo.
Chính tại
thành phố Huế này, trong và ngoài Thành nội có hàng chục ngôi chùa. Mà
chính những ngôi chùa này toàn do Cư sĩ quản lý. Chư Tăng khi nào có lễ
lượt mới về thuyết kinh, giảng dạy giáo pháp, còn bình thường thì Cư
sĩ quản lý để đến tụng niệm, tu học. Ðến các làng ở thôn quê bây
giờ hầu như làng nào cũng có chùa, có làng đến ba hoặc bốn ngôi chùa.
Cũng như miền Bắc nước ta, nhưng miền Bắc phần nhiều chùa lớn, chứ
không nhiều khắp xã thôn như ở Thừa Thiên-Huế.
Như vậy
điều đó đã nói lên cái gì? Nói lên sự ảnh hưởng của đạo Phật đối
với dân chúng, và cũng nói lên cái tinh thần dân chúng đi đến với đạo
Phật. họ thấy được cái hay, cái an tâm, cái vui thích cho họ thì họ mới
đến với đạo Phât. Bởi vì đạo Phật truyền bá không có gì hơn, không
đem tiền bạc, của cải; không đem sức mạnh để truyền, mà chỉ truyền
bằng giáo lý, truyền bằng đạo đức; truyền bằng tinh thần cởi mở, vị
tha, hỷ xả của đức Phật mà thôi.
Trước đây,
có một ông Ðốc học ở tỉnh Tiền Giang dẫn một đoàn học sinh ra thăm
Huế. Sau khi đã thăm viếng một số cảnh chùa, khi đến đây, ông nói với
tôi: "Ði đến chùa rồi, tôi thấy đây là một chỗ tắm gội linh hồn
của dân thành phố".
Tại sao
ông ta có thể nói như vậy? Bởi vì con người sống giữa thành phố với
giành giựt, với hơn thua, bon chen... đủ thứ, lâu lâu họ đến chùa một
lần, tâm hồn họ sẽ gột rửa bớt đi, sạch bớt đi. Ðó là một lời
cảm nhận rất sâu sắc. Tất cả chúng ta đều biết vậy. Chúng ta đi vào
một chỗ toàn mùi hôi thối, khi đi ra tự
nhiên y phục, da thịt của
chúng ta cũng đượm mùi hôi thối. Ði vào một rừng hương thơm thì khi
đi ra tự nhiên y phục da thịt ta cũng
thơm. Ðó là một hiện tượng tự nhiên. Ðến với đạo Phật có được
sự bình an, cởi mở thì cũng là lẽ tự nhiên.
Tục ngữ
có câu:
"Kiếp xưa hẳn có nhân duyên,
Thỉnh thoảng ai dễ chống thuyền đến đây".
Hôm nay tôi
và các bạn gặp nhau để nói chuyện Phật hẳn đã phải có nhân duyên từ
trước. Mong rằng việc gặp gỡ này của chúng ta sẽ lưu lại trong lòng
những thiện cảm tốt giữa các bạn và chùa. Tôi xin chúc các bạn luôn
luôn tinh tiến, dõng mãnh và thành tựu sự nghiệp của mình.
Từ Ðàm, một buổi
chiều
http://www.buddhismtoday.com/viet/batdau/gap_go_tuoi_tre.htm