lòng hiếu
kính đối với cha mẹ, tùy theo mùa tiết hàn, nhiệt, mà chăn nom mền chiếu,
ấm áp hợp thời, để cha mẹ được nghỉ ngơi yên giấc.
b) Làm con mỗi ngày phải dậy sớm, để phân công việc
cho người làm lụng đúng giờ, và lo sắp đặt miếng ăn thức uống cho
cha mẹ được vừa miệng đẹp lòng.
c) Làm con phải gánh vác tất cả công việc nhọc nhằn,
thay thé cho cha mẹ, để cha mẹ được thư thới, vui vẻ trong tuổi già.
d) Làm con phải nhớ nghĩ luôn luôn đền ơn sanh thành, dưỡng
dục, để lo báo đáp cho kịp trong lúc cha mẹ còn sanh tiền.
đ) Làm con, khi cha mẹ đau ốm, phải hết lòng săn sóc, hầu
hạ bên giường, không nài khó nhọc và ân cần rước thầy xem mạch, thuốc
thang điều trị không sợ hao tốn.
2. Bổn phận cha mẹ đối với con,
cũng phải đủ 5 điều
a) Phải dạy dỗ con dứt trừ tất cả điều hung ác, làm
tất cả điều lành, để trở nên người có đức hạnh.
b) Phải khuyên răn con cái, nên gần gũi người trí tuệ.
c) Phải nhắc nhở con cái, cần mẫn học hành.
d) Phải liệu định cưới gả con cái cho kịp lúc xuân thời.
đ) Phải cho con cái bàn tính tham dự việc nhà, cùng góp
công trong sự xây dựng hạnh phúc gia đình.
3. Bổn phận vợ đối với chồng,
phải đủ 5 điều
a) Phải kính yêu và hòa thuận với chồng, khi chồng ra đi
hay trở về, phải đưa đón niềm nở.
b) Khi chồng đi vắng, ở nhà phải lo quét dọn, may vá, cơm
nước sẵn sàng, đợi chồng về mới cùng ăn uống.
c) Phải giữ gìn tiết hạnh, không được ngoại tình.
d) Lúc chồng nóng giận nặng lời, không nên bừng mặt
cãi lẫy, làm mất hòa thuận và có khi phải rã rời giềng môí. Lại khi
chồng có lời khuyên bảo chánh đáng, vợ phải vâng theo; kho có món ngon vật
quí, không nên dùng riêng cho mình.
đ) Mỗi đêm, khi chồng nhủ rồi, phải xem xét cửa nẻo,
trước sau đóng gài kín đáo, cắt đặt cẩn thận, soi rọi khắp cả
trong nhà, rồi mới đi ngủ sau.
4. Bổn phận chồng đối với vợ,
cũng phải đủ 5 điều
a) Khi vợ ra đi hay lúc trở về, phải đưa đón niềm nở.
b) Phải ăn uống cho có giờ khắc, và đừng quá khó khăn,
để vợ khỏi phải làm phiền lòng nấu nướng không chừng, và lo lắng cực
nhọc.
c) Phải tùy phận giàu nghèo của mình, để vợ mua sắm
áo quần và đồ trang sức vừa theo sở thích, không hẹp lòng làm vợ buồn
phiền.
d) Phải tin cậy phó thác cho vợ các công việc nhà.
đ) Không được sanh tâm tà vạy, sớm mận tối đào, làm
cho vợ ghen tuông sầu não.
5. Bổn phận đối với bà con thân
thích, phải có đủ 5 điều
a) Khi thấy bà con có người làm việc chẳng lành, thì phải
thượng xót khuyên can, răn nhắc.
b) Trong bà con thân thích, có người nào bị đau ốm, tai nạn,
tật nguyền, thì phải hết lòng giúp đỡ, hoặc cơm cháo thuốc men, hoặc
áo quần, tiền bạc v.v..
c) Những việc kín đáo, rieng tư của người này, mình có
biết cũng không nên tiết lộ cho người khác biết.
d) Bà con thân thích, phải năng tới lui thăm viếng, nhắc
nhở nhau tránh dữ làm lành. Đoi khi có ý kiến chẳng đồng, cũng nên hoan
hỷ, đừng cố chấp giận hờn nhau.
đ) Trong thân bằng quyến thuộc, có kẻ giàu người nghèo,
lẽ cố nhiên người dư ăn dư để, phải giúp đỡ cho kẻ thiếu hụt.
6. Bổn phận chủ đối với người
giúp việc trong nhà, phải có đủ 5 điều
a) Chủ nhà trước khi sai khiến người giúp việc làm gì,
trước phải biết họ, đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức
khỏe và vui lòng làm lụng.
b) Lúc nào n giúp việc làm gì, trước phải biết họ, đói,
no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui lòng làm lụng.
b) Lúc nào người giúp việc bị bịnh loạn, phải chăm non
thuốc thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi bổ sức khỏe lại.
c) Khi họ có phạm lỗi gì, phải xét coi họ cố ý hay vô
tình. Nếu vô ý lầm lỡ, thì nên dung thứ; nếu họ quyết lòng phá hại,
thì phải làm nghiêm trách hẳn hoi, với lời lẽ thanh nhã, cho họ biết lỗi
để chừa.
d) Khi họ tiện tặc tích góp được số tiền riêng, không
nên tìm cách thâu đoạt.
đ) Khi muốn thưởng công lao cho họ, phải giữ mực công
bình, tùy công lao của mỗi người mà phân chia cho cân xứng.
7. Bổn phận người giúp việc đối
với chủ nhà phải có đủ 5 điều kiện
a) Mỗi buổi sáng phải thức dậy trước chủ nhà, không
đợi kêu.
b) Phải biết phần việc nào của mỗi nagỳ, cứ y như
thường lệ mà thi hành, không đời chủ sai bảo.
c) Khi làm việc phải thận trọng đồ dùng của chủ,
không làm vụt chạc, hư hao.
d) Phải hết lòng kính mến chủ nhà, lúc chủ ra đi, phải
ân cần đưa tiễn, lúc chủ trở về, phải vui mừng tiếp đón.
đ) Không nên chỉ trích, nói xấu chủ với người ngoài.
III. BỔN PHẬN ĐỐI VỚI NGƯỜI
NGOÀI GIA ĐÌNH
Những người ngoài gia đình, chúng tôi muốn nói ở đây,
không phải những người xa lạ, hay hàng xóm láng giềng, mà chính là những
người có sự liên quan mật thiết với chúng ta, nhưng không cũng quyến
thuộc, không ở chung dưới một mái nhà, nên tạm gọi là những người
ngoài gia đình.
Những người nầy giữ vai trò quan trọng trong đời sống
của chúng ta, lái chúng ta đi trên con đường hiểu biết đạo đức, góp
một phần lớn lao trong việc xây dựng hạnh phúc cho chúng ta. Đó là những
vị thầy dạy dỗ và những vị Tăng già và thiện hữu tri thức.
1. Bổn phận học trò đối với thầy,
phải đủ 5 điều
a) Phải kính mến thầy như cha mẹ
b) Phải vâng lời thầy dạy bảo.
c) Phải giúp đỡ thầy trong cơn hoạn nạn.
d) Phải siêng năng học tập cho vui lòng thầy.
đ) Khi thôi học rồi, cũng phải năng tới lui thăm viếng
thầy, để tỏ lòng cảm mến công ơn dạy dỗ và quý trọng tài đức của
Thầy..
2. Bổn phận thầy đối với trò,
cũng phải đủ 5 điều
a) Phải cần mẫn dạy dỗ học trò.
b) Phải cố gắng làm sao cho học trò mình mau tiến bộ hơn
học trò khác, về tài năng cũng như về đức hạnh.
c) Phải để ý đến những điều cấn yếu làm sao cho học
trò in sâu mãi vào tâm trí.
d) Phải giảng giải rõ ràng các lý thuyết mắc mỏ và hỏi
lại nhiều lần cho học trò không lầm lạc.
đ) Phải có lòng rộng rãi, mong muốn làm sao cho học trò
mình được trở nên giỏi hơn mình.
3. Bổn phận Tín đồ đối với
chư Tăng và thân hữu phải đủ 5 điều
a) Phải hết lòng thành thật đối với chư Tăng và thiện
hữu tri thức.
b) Phải cung kính và vâng lời dạy bảo của quí vị minh sư
và các thiện hữu.
c) Phải chăm chỉ nghe lời giảng dạy của các vị Tăng già
đức độ, thẩm xét cho kỹ lưỡng rồi như pháp mà tu hành.
d) Phải cầu học với chư Tăng và thiện hữu những chỗ
bí yếu về đạo lý mà mình chưa hiểu.
đ) Phải cầu thỉnh các vị minh sư chỉ dạy cho mình những
pháp môn cần yếu, như "tham thiền", "niệm Phật " để ngày
đêm chuyên tâm tu trì, không gián đoạn.
IV. CÁCH XƯNG HÔ VÀ MỘT SỐ NGHI THỨC
CẦN THIẾT CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA
Ngoài những bổn phận nói trên, Phật tử tại gia còn cần
phải biết cách xưng hô khi tiếp xúc với quý vị Tăng già, và những nghi
thức cần thiết khi đến chùa, khi lễ Phật , cầm kinh v.v...Đã là Phật
tử , thì những điều này, mặc dù là hình thức, cũng không thể không biết
đến.
1. Cách chào hỏi và xưng hô với Tăng
già
Phật tử phải biết cách đối xử, xưng hô với chư Tăng
cho phải phép:
a) Khi gặp một vị hay nhiều vị Tăng tại chùa hay ngoài
đường, nên chắp tay kính cẩn chào, bằng cách niệm: "Nam mô A Di Đà
Phật ", với vẻ mặt hoan hỷ với mình. Lối chào ấy biểu lộ một
tình cảm đậm đà, còn hơn lối chào bắt tay của người Âu Tây. Sở dĩ
chào nhau bằng một câu bảo hiệu Phật , là để nhắc rằng ai cũng có Phật
tánh (bản tánh A Di Đà), nếu quyết chí tu, rồi cũng đến được cảnh
giới Tịnh độ và cuối cùng sẽ thành Phật.
b) Về cách xưng hô, Phật tử tại gia không nên kêu chư
Tăng bằng Huynh hay Sư huynh hay Đạo hữu mà nên kêu bằng thầy, mặc dù vị
ấy là đồng sư.
Những tiếng Thượng Tọa, Đại Đức không nên quá lạm dụng,
không phải đối với vị sư nào cũng gọi là Thượng Tọa hay Đại Đức
được cả. Chỉ đối với những vị sư có đạo hạnh, nhiều niên lập
(tuổi Đạo), và đối với mình chưa quen thân lắm, mới nên dùng chữ Thượng
Tọa hay Đại Đức. Đối với các vị Bổn sư, các vị Tăng già mình thường
quen biết, dùng chữ "Thầy" là phải cách và đầy đủ ý nghĩa nhất.
Thầy là có ý tôn kính như cha (quân, sư, phụ) và là người thường dạy
bảo mình trên đường tu tập. Thầy có vẻ vừa tôn kính, vừa thân mật,
vừa chân thật, chứ không như chữ Thượng Tọa hay Đại Đức có vẻ xã
giao kiểu cách, đãi bôi, bề ngoài. Hiện nay đang lan tràn cái dịch, dùng
danh từ Thượng Tọa và Đại Đức. Chúng ta nên thận trọng mỗi khi dùng
những chữ ấy, để khỏi bị người ngạo đạo hiểu lầm là quí vị Tăng
già muốn được gọi như thế, vì còn thích chức tước, hư danh.
c) Trước khi vào Chánh điện lễ Phật , phải rửa mặt, súc
miệng, rửa tay cho sạch sẽ, để giấy gút ngoài thềm cửa, đừng mang vào
Điện mà tổn Phước. Khi tiến tới Điện thì đi ở phía trái, khi ra thì
đi về phía hữu, theo cách "hữu nhiễu" của nhà Phật (đi quanh
theo chiều hữu, ab hay bảy vòng, để tỏ lòng kính mến Phật ).
Khi đi ra, phải chú ý coi chừng dưới chân, để tránh khỏi
sự dẫm đạp trùng kiến. Giữ được như thế, được phước đức hơn
là phóng sanh mà không biết giữ.
d) Khi tụng kinh, phải chắp hai tay ngang ngực, mười ngón
tay từng cặp bằng nhau, không so le, hai lòng bàn tay khít lại, đừng để
trống giữa. Chân đứng ngang bằng, hình chữ "bát", mắt ngó xuống,
chăm chỉ tụng cho các câu rành mạch, không nên ỷ giọng hay, tụng to tiếng
động chúng. Phải tụng cho ăn nhịp, theo tiếng mõ và tiếng tụng của
ông Duy na (dẫn đầu).
Khi lễ Phật , năm vóc phải sát đất, nghĩa là đầu, hai
tay, hai gối, phải sát chiếu, hết lòng thành kính mà lễ. Khi lạy phải
xích qua một bên, vì phía sau còn có chùa thờ Hộ pháp hay tượng Phật và
nhương chỗ cho ngôi Trụ trì. Khi lễ Phật xong, đi ra phải bước lui, mắt
ngó tượng Phật , đừng quay lưng lại.
đ) Trước khi cầm kinh hay tụng phải rửa tay. Cầm kinh sách
đem đi đâu, nên ôm trên ngực, đừng cặp bên nách như quyển sách thường,
vì kính kinh như kính Phật. Nếu cầm kinh mà muốn chào người, thì phải
để kinh trên bàn trước khi chào. Gặp trường hợp không có chỗ để
kinh, thì ôm vào ngực mà chào: "A Di Đà Phật " là được. Kiêng
nhất là cầm quyển kinh mà xa chào người.
Trên đây là kể sơ lược một số oai nghi tế hạnh mà Phật
tử tại gia phải giữ gìn. Oai nghi của người xuất gia thì nhiều lắm,
nhưng không phải phạm vi của bài này, nên không nói đến.
C. KẾT LUẬN
Khuyên Phật tử tại gia giữ tròn bổn phận
Bổn phận của Phật tử tại gia như vừa trình bày ở
trên, tuy kể ra thì nhiều, nhưng không có gì là cao kỳ khó khăn phức tạp.
Những điều ấy, một người chưa phải là Phật tử , nhưng có chút đức
hạnh, cũng đã hiểu rồi, biết rồi.
Nhưng điều quan trọng ở đây, không phải là hiểu biết
mà là thực hành, những điều đã hiểu biết ấy. Trong cuộc sống tầm
thường hằng ngày, làm tròn bổn phận có nhiều khi còn khó hơn là ra trận
giết quân thù, hay trèo non lội suối. Những công việc khó khăn như bất
thường này chỉ cần vận động sự cố gắng và hăng hái trong một khoảng
thời gian nhất định, chứ những bổn phận tầm thường hằng ngày, muốn
làm cho tròn, phải vận dụng sự kiên nhẫn và cố gắng suốt cả đời.
Vì lý do ấy mà tục ngữ ta có câu: " Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ,
thứ ba tu chùa".
Vậy chúng ta không nên xem thường những bổn phận tầm
thường của chúng ta, mà phải luôn luôn cố gắng làm cho tròn. Sự cố gắng
này sẽ đem lại cho chúng ta một phần thưởng chắc chắn thật là đưa dần
chúng ta lên đường giải thoát.
Chân thành cảm ơn cư sĩ Tâm Diệu đã gởi
tặng phiên bản điện tử. ĐPNN, 24-8-2000