- Thập Thiện Nghiệp
- HT. Thích Thiện Hoa
- (Trích từ Phật Học Phổ Thông)
A. MỞ ĐỀ
Thập Thiện Nghiệp là cội gốc của tất cả pháp lành thế
gian và xuấ thế gian
Trong hai bài "Nhân quả" và "Luân hồi" mà
chúng ta đã học, chúng ta đã thấy một cách tường tận rõ ràng: hễ
chúng ta gieo nhân gì thì chúng ta gặt quả ấy hoặc ngay trong đời hiện tại,
hoặc trong những đời sau. Nhân nhỏ thì qủa nhỏ, nhân lớn thì quả lớn.
Nếu muốn được quả làm người thì phải gieo nhân làm
người. Nhân làm người là sự chuyên giữ năm giới (không sát sanh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu). Với nhân nầy,
ta được cái quả trong hiện tại là mọi người từ trong gia đình quyến
thuộc cho đến ngoài xã hội, đều thương yêu quí trọng. Nhưng nếu chúng
ta muốn tiến xa hưon một bực nữa, chúng ta gắng tu Thập Thiện Nghiệp,
chúng ta sẽ hưởng được cuộc sống an lạc trong hiện tại và đời sau,
chúng ta sẽ sanh lên sáu từng Trời cõi Dục, hưởng cảnh vui thú, an
nhàn.
Nếu chúng ta muốn vượt khỏi ba cõi thế gian, để chứng
quả tam thăng (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát), ta phải tu nhân Tứ Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên và Lục Độ. Tuy thế, muốn thực hiện được các
môn tu nầy, không thể bỏ qua được môn tu Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện
Nghiệp như là nấc thang quan trọng cần phải vượt qua, nếu muốn trèo
lên cao nữa. Nó như là cơ sở căn bản, hạ tầng vững chắc nhất, để
xây dựng lau đài cao lớn lên trên. Vì lẽ đó, người ta nói Thập Thiện
Nghiệp là cội gốc của tất cả các pháp lành thế gian và xuất thế
gian.
B. CHÁNH ĐỀ
I. ĐỊNH NGHĨA
"Thập Thiện Nghiệp" là 10 nghiệp lành.
"Nghiệp" là gì? "Nghiệp" là tiếng người
Trung Hoa dịch từ chữ Phạn Karma mà ra. Nó có nghĩa là tạo ác, hành động.
Nghiệp có thể chia ra ba tánh cách: lành, dữ, hoặc không lành không dữ
(vô ký). Lành, theo đạo Phật, nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện
tại cũng như trong tương lai. Dữ, nghĩa là có hại cho chúng sinh trong hiện
tại cũng như trong tương lai.
II. CHỖ PHÁT KHỞI MƯỜI NGHIỆP DỮ
VÀ NGHIỆP LÀNH
Nghiệp thì nhiều, không thể kẻ xiết được. Nhưng tựu
trung, người có thể phân ra mười loại nghiệp lành và mười loại nghiệp
dữ. Những loại nghiệp nầy do ba chỗ phát khởi sau đây: Thân (việc
làm), Khẩu (lời nói), Ý (ý nghĩ).
1. Những nghiệp dữ
Những nghiệp dữ chia ra như sau:
a) Những nghiệp dữ về Thân có ba là: Sát sanh, trộm
cắp, dâm dật.
b) Những nghiệp dữ về Khẩu có bốn là: Nói dối,
nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.
c) Những nghiệp dữ về Ý có ba là: Tham lam, giận hờn,
si mê.
Cộng tất cả Thân, Khẩu, Ý thì có mười nghiệp dữ.
2. Những nghiệp lành
Nếu con người làm ngược lại với 10 nghiệp dữ trên đây
thì sẽ có được 10 nghiệp lành. Mười nghiệp lành chia ra như sau:
a) Về Thân có ba: Không sát sanh, không trộm cắp,
không dâm dật.
b) Về Khẩu có bốn: Không nói dối, không nói thêu dệt,
không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác.
c)Về Ý có ba: Không tham lam, không giận hờn, không
si mê.
III. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA MƯỜI
NGHIỆP LÀNH
1. Không sát sinh
Không có sự vui mừng nào hơn sự vui mừng khỏi bị giết.
Cũng chẳng có ân huệ nào hơn ân huệ không hại mạng.
Khi một con chim sặp bị cắt cổ nhổ lông, một con cá sặp
bị chặt kỳ, đánh vẩy, thế mà được thả ra, thì hãy tưởng tượng nỗi
vui sướng của chúng, lớn lao là bao nhiêu ! Chim sẽ nhảy nhót, tung bay,
kêu hót giữa khoảng trời rộng; cá sẽ vùng vẫy, bơi lội, giữa khoảng
nước sâu. Thế mới rõ, thoát nạn giết hại, chúng sanh nào lại không khấp
khởi vui mừng? Cho nên, không sát sanh mà lại phóng sanh là nghiệp lành đứng
đầu trong Thập Thiện Nghiệp.
Không sát sanh cũng như không ăn thịt chúng sanh thì khỏi
phạm hai tội lớn sau đây:
a) Giết hại các bực vị lai Phật. Vì Phật nói: "Tất
cả chúng sinh đều là chư Phật vị lai"
b) Giết lộn bà con nhiều đời, ăn lầm bà con nhiều
kiếp.
Trong kinh Bồ Tát giới có nói: "Tất cả lục đạo chúng
sinh đều là họ hàng ta, cha mẹ ta đã chết đi rồi sanh lại trong nhiều
đời nhiều kiếp".
Người hằng ngày không sát sanh thì trong đời sống hiện
tại sẽ mở rộng thêm lòng từ bi, là một nhân chánh để tu hành thành
Phật, và được mười pháp lành, như kinh Thập Thiện Nghiệp đạo đã
nói, dưới đây:
- a) Tất cả chúng sinh đều kính mến
- b) Lòng từ bi mở rộng đối với tất cả chúng sinh
- c) Trừ sạch thói quen giận hờn
- d) Thân thể thường được khỏe mạnh
- đ) Tuổi thọ được lâu dài
- e) Thường được Thiên thần hộ trợ
- ê) Ngủ ngon giấc và không chiêm bao giữ
- g) Trừ hết các mối oán thù
- h) Khỏi bị đọa vào ba đường ác.
- i) Sau khi chết, được sanh lên cõi Trời.
2. Không trộm cướp
Không trộm cắp là không lấy những vật gì không thuộc
quyền sở hữu của mình, và người ta không cho mình.
Quyền tư hữu là một quyền quan trọng. Đã đành, mạng sống
là quý trọng, nhưng nếu có mạng sống mà không có đủ vật thực, áo quần,
nhà cửa, những thứ cần thiết để cung cấp cho thân mạng, thì người
không thể sống được. Vì thế, mọi người đều thấy mình cần phải nỗ
lực làm viẹc, để có tài sản đủ bảo đảm cho đời sống hiện tại
và tương lai của mình và con cháu. Người đời quý trọng tài sản là vì
thế. Nếu vì một lý do, bất chính, người ta bị tướt đoạt mất tài sản,
thì người ta cũng đau khổ, buồn phiền như chính mình bị mất một phần
sanh mạng. Tiền của là huyết mạch, cho nên khi bị trộm cắp hết của cải,
nhièu người đã thất vọng, buồn phiền đến sinh đau ốm, có khi đến
quyên sinh. Như vậy, ai nỡ lòng nào trộm cắp cho đành !
Vả lại, theo lẽ công bình, mình không muốn ai lấy của
mình, thì mình đừng lấy của ai. Việc gì mình không muốn người làm
đau khổ cho mình, thì mình cũng đừng làm đau khổ cho người. Xã hội chỉ
tồn tại được, khi mọi người đều tôn trọng lẽ công bằng.
Vả lại, của phinghĩa, thường vào cửa trước ra ngõ sau,
tiêu hao mau lẹ như nước xoi, cát chảy, rốt cuộc, tay trắng cũng lại hoàn
tay trắng, mà còn lại bị người đời khinh khi, phỉ nhổ, xấu hổ cho mình
và con cháu về sau.
Trái lại, người không trộm cắp, bao giờ lòng dạ cũng
được thảnh thơi, không sợ luật pháp truy tầm, chẳng lo ai thù oán. Một
xã hội không có trộm cắp, thì nhà nhà khỏi đóng cửa, của đánh rơi
không mất, cảnh tượng giành giựt không diễn ra, xã hội được thái
bình an lạc:
Nếu không gian tham trộm cắp, mà lại làm hạnh bố thí
thì theo kinh Thập Thiện Nghiệp, được những pháp lành như sau:
a) Tiền của có dư không bị nạn giặc giả cướp mất,
chánh quyền tịch thâu, không bị nạn lụt trôi, lửa cháy và con cái phá
tán.
b) Được nhiều người tin cậy
c) Không bị lừa dối, gạt gẫm.
d) Xa gần đều khen ngợi lòng ngay thẳng của mình
đ) Lòng được an ổn, không lo sợ vì sự tổn hại gì cả
e) Khi chết rồi được sanh lên cõi Trời
3. Không tà dục
Dâm dật là cái nhân sanh tử luân hồi. Nó là ma chướng làm
ngăn trở bước đường tu giải thoát. Bởi vậy, người xuất gia muốn chứng
quả, thành đạo, phải đoạn trừ dâm dật ở thân cũng như ở tâm. Kinh
Lăng Nghiêm nói: "Lòng dâm không trừ, thì không thể ra khỏi trần
lao".
Còn người tại gia, Phật chỉ ngăn tà dâm, nghĩa là vợ
chồng có cưới hỏi chánh thức mới được ăn ở, nhưng phải có tiết
độ, không lang chạ, ngoại tình.
Trong gia đình, chồng không tà dâm, vợ không lang chạ, thì
cuộc sống chung được đầm ấm, an vui. Do đó, gia đình được hạnh phúc,
sự làm ăn tấn phát, sự nghiệp vững bền, bà con đôi bên vui vẻ, dòng
họ hai phí thơm lây, xóm giềng vừa lòng, làng nước quí chuộng.
Kinh Thập Thiện Nghiệp đạo nói: Không tà dục và giữ
được tịnh hạnh sẽ được bốn điều lợi:
a) Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn
toàn
b) Đoạn trừ hết những sự phiền não, quấy nhiễu.
c)Không ai dám xâm phạm vợ chồng con cái
d) Được tiếng tốt, người đời khen ngợi
4. Không nói dối
Không nói dối là nghĩ thế nào nói thế ấy, trong lòng và
lời nói không trái nhau, việc phải thì nói phải, việc quấy thì nói quấy,
việc có thì nói có, chuyện không thì nói không.
Có người cho rằng nói dối để lừa phỉnh chơi, thì
không hại gì. Thật ra, sự nói dối ấy vẫn có hại, vì nó làm cho ta
quan với thói xấu ấy, và làm cho người chung quanh không tin ở lời nói của
ta nữa, dù đôi khi ta nói thật.
Nói dối vì sợ hãi, khiếp nhược, lại càng nên tránh,
vì nó làm cho ta quen tánh che giấu tội lỗi, và không chịu sửa chữa.
Nói dối để thu lợi hay khoe khoang, lại càng nặng tội.
Nhà buôn nói dối rất dễ ế hàng; và nhất là kẻ học Đạo, nếu nói dối
rằng mình đã chứng quả Thánh, hay đắc đạo để cho người kính phục,
sùng bái mình, thì sẽ mắc tội đại vọng ngữ, bị đọa vào ba đường
ác.
Nói dối, chỉ trong trường hợp để cứu khổ độ nguy
cho người và vật mới không phạm tội.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói dối
mà lại nói lời ngay thật, thì được những điều lợi ích như sau:
a) Miệng thường thơm sạch
b) Thế gian và nhânm, thiên đều kính yêu
c) Lời nói không lầm lộn và vui vẻ
d) Trí tuệ thù thắng, không ai hơn
đ) Được hưởng lạc thú như ý nghuyện và ba nghiệp đều
sạch.
5. Không nói thêu dệt
Không nói thuê dệt, nghĩa là không trau chuốt lời nói,
không thuê hoa, dệt gấm, không ngọt ngào đường mật, để lung lạc lòng
dạ của người, để quyến rũ làm những điều sái quấy. Những kẻ nói
lời thuê dệt là những kẻ có lòng dạ bất chính, lợi dụng lòng dễ
tin của người để trục lợi. Những người nầy thường bị người đời
chê cười, khinh rẻ và tránh xa, để khỏi bị tổn hại tài sản, danh
giá và tánh mạng nữa.
Theo kinh Tập Thiện Nghiệp đạo, người không nói lời
thuê dệt sẽ được ba điều lợi ích:
a) Được người trí thức yêu mến.
b) Hay đáp được những câu hỏi khó khăn.
c) Được làm người có uy đức, cao quý trong cõi nhân
thiên.
6. Không nói lưỡi hai chiều
Không nói lưỡi hai chiều, hay nói hai lưỡi, nghĩa là
không đến bên nầy nói xấu bên kia, không đến bên kia nói xấu bên này;
không đem chuyện người nầy ra dèm pha, mà cũng không khuê chuyện người
nọ ra nhạo báng; không làm cho đôi bên san hận đấu tranh, cũng không đứng
trung gian gây ác cảm cho hai đàng thù oán. Tóm lại, người không nói hai lưỡi
là người không có ác tâm, không dùng lời trái ngược để làm cho những
kẻ thân thành thù, gần thành xa.
Người không nói hai lưỡi, không khi nào có chuyện lôi
thôi với bà con, và cũng không có việc phiền muộn với hàng xóm, nên
được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần kính mến. Người không
nói hai lưỡi mà còn nói những lời êm ái hòa thuận, làm cho bạn bè
thêm kính trọng nhau, bà con thêm tin yêu nhau, khiến cho ai ai cũng vui vẻ bằng
lòng nhau. Những người ấy đi đến đâu cũng được tiếp đãi tử tế,
gặp việc gì khó cũng dàn xếp được dẽ dàng.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói hai lưỡi,
sẽ được những điều lợi ích sau đây:
a) Bà con, dòng họ được luôn luôn sum họp
b) Tình bằng hữu của thiện tri thức được vững bền bất
hoại
c) Đức tin bất hoại
d) Pháp hạnh bất hoại
7. Không nói lời hung ác
Không nói hung ác là không nói những lời hung dữ ác độc,
cộc cằn, thô tục làm cho người nghe khó chịu; không mắng nhiếc làm cho
người nghe hổ thẹn, tủi đau v.v...
Người không nói lời hung ác, chẳng hề bươi móc việc
không hay của ai, mà trái lại, ưa bày những điều tốt đẹp của kẻ khác.
Lời lẽ của họ thốt ra dịu dàng, thanh nhã, hiền hậu, toàn là lời đạo
đức, từ bi, lợi lạc cho tất cả chúng sinh, ai nghe cũng hân hoan, kính trọng.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói lời
hung ác mà lại nói lời ôn hòa, được những công đức như sau:
a) Nói lời nào cũng khôn khéo đúng lý và lợi ích
b) Nói điều gì, ai cũng nghe theo và tin cậy
c) Nói ra lời nào cũng không ai chỉ trích mà còn được mến
yêu.
8. Không tham muốn
Ở đời, có 5 món dục lạck, mà người ta thường tham muốn
nhất là: tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Ngũ trần
dục lạc ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều. Như tham tiền của phải đày
đọa thân sống, đôi khi còn dùng những phương tiện bất chính, để thâu
tóm về mình, và khi mất thì lại vô cùng đau khổ. Tham sắc thì tồn tiền
nhiều, lại mất sức khỏe và hao tổn tinh thần; nhiều khi lại tìm những
mưu chước tồi tệ để thỏa lòng ước muốn; nếu không được, lại
đam ra ghen tương, thù hận, giết chóc. Tham danh vọng, quyền tước thì phải
vào lòn ra cúi, lao tâm khổ trí, mất ăn bỏ ngủ, đôi khi lại còn làm
trò cười cho người chung quanh. Tham ăn uống cao lương mỹ vị, thì bị
nhiều bịnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Tham nghủ
nghỉ, ngủ sớm dậy trưa, thì trí napõ hóa đần độn, tối tăm.
Ngũ dục lạc chính là những nguyên nhân chính ràng buộc
kiếp người vào vòng sanh tử, Luân hồi, sa đọa.
Người không tham muốn những thứ ấy, là người biết tu
hành Thiểu Dục và Tri Túc. Thiểu Dục là muốn ít; Tri Túc là biết đủ.
Người Thiểu Dục, Tri Túc thì có một đời sống giản dik, thanh cao và an
toàn.
Xã hội nếu chỉ gồm những hạng người ấy, thì những
thảm trạng: kẻ mạnh hiếp người yếu, kẻ giàu đàn áp người nghèo,
người nghèoi oán hận kẻ giàu, không còn tiếp diễn, và cõi đời cũng
được sống trong cảnh thanh bình an lạc.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không tham muốn
thì được thành tựu những điều tốt đẹp sau đây:
a) Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) được tự tại, vì nhân các
căn đều đầy đủ
b) Của cải không mất mát, hay bị cướp giựt
c) Phúc đức tự tại
d) Những sự tốt đẹp sẽ đến với mình, mặc dù mình
không mong ước.
9. Không giận hờn
Không giận hờn là vẫn giữ sự bình tĩnh, điềm đạm,
nhu hòa trước những cảnh trái ý nghịch lòng.
Giận hờn là một tánh xấu rất tai hại, nó như một ngọn
lửa dữ, đót cháy cả mình lẫn người chung quanh. Kinh Phật có câu:
"Một niệm giận hờn nổi lên, thì trăm, nghìn cửa
nghiệp chướng đều mở. Lửa tức giận một phen phát ra, liền đốt tất
cả rừng công đức".
Khổng giáo cũng có nói:
"Dằn tâm giận xuống một lúc thì khỏi lo sợ cảm
trăm ngày. Nên chi việc đáng nhịn thì nhị, chuyện đáng răn thì răn. Nếu
chẳng nhịn chẳng răn, thì việc nhỏ hóa ra to. Baonhiêu điều phiền não,
đều do chảng nhìn mà ra".
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người nào không giận tức,
thì được tám món tâm pháp, vui mừng như sau:
- a) Không tâm khổ não
- b) Không tâm giận hờn
- c) Không tâm tranh giành
- d) tâm nhu hòa ngay thẳng
- đ) tâm từ bi như Phật
- e) Thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sanh
- ê) Thân tướng trang nghiêm, chúng sinh đều tôn kính
- g) Có đức nhẫn nhục, được mau sanh lên cõi Phạm Thiên.
10. Không si mê
Không si mê là biết phán đoán rành rẽ, nhận định rõ
ràng, đúng đắn, không cố chấp theo sự hiểu biết riêng của mình,
không tin những thuyết không hợp chơn lý, nhất là không mê tín dị đoan.
Người không si mê, tức là người có trí huệ, giản trạch,
tin có nhân quả luân hồi, nên không tạo tội mà cứ làm phước, thường
tu hạnh Bát nhã, dứ trừ vô minh, để tiến mãi trên con đường giải thoát.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không si mê, thì
thành tựu được 10 pháp công đức sau đây:
a) Được ý vui chơn thiện và bạn chơn thiện
b) Tin sâu nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác.
c)Chỉ quy y Phật, chứ không quy y thiên thần và ngoại đạo
d)Tâm sanh ngay thẳng, chánh kiến
đ)Sanh lên cõi trời, khỏi bị đọa vào ba đường ác
e) Phúc huệ không lường, thường tăng lên mãi
ê) Dứt hẳn đường tà, chăm tu đạo chánh
g) Không lòng chấp ngã, bỏ hết ác nghiệp
h) Yên ở vào nơi chánh kiến
i) Khỏi bị nạn dữ
C. KẾT LUẬN
Mười nghiệp lành, cũng như mười nghiệp dữ, đều do thân,
khẩu, ý phát khởi ra. Nghiệp dữ ví như cỏ, nghiệp lành ví như lúa, đều
mọc chung trên một đám ruộng. Cỏ thường làm chướng ngại lúa, không
cho sanh trưởng tốt tươi. Nếu muốn lúa tốt để mãn mùa thu hoạch được
nhiều, thì phải nhổ sạch cỏ. Cũng thế, muốn được nghiệp lành, thì
cần phải dứt hẳn mười nghiệp dữ.
Hàng phục mười nghiệp dữ, mỗi ngày cứ phát triển nghiệp
lành mãi, thì sẽ được bốn điều lợi ích sau nầy:
1. Cải tạo thân tâm
Thân tâm con người thường bị nghiệp lực chi phối. Sự
thực hành mười nghiệp lành, sẽ hoán cải thân tâm con người trở thành
tốt đẹp. Dụ như không sát sanh mà lại phóng sanh, thì lòng hung ác sẽ
đổi ra lòng từ bi, sự oán thù sẽ đổi ra thành ân nghĩa.
2. Cải tạo hoàn cảnh
Hoàn cảnh cũng như tấm gương lớn phản ảnh tất cả những
cử chỉ hành động, đời sống của mỗi người.Nếu ta cười thì tấm gương
cười lại; nếu ta khóc, tấm gương cũng khóc lại. Cũng thế, nếu ta làm
các việc lành, giúp ích đồng loại, cứu vớt chúng sanh, thì hoàn cảnh
đối với ta, sẽ trở thành cảnh giới tốt đẹp. Chẳng hạn, hki ta không
giận hờn, lại tu hạnh nhẫn nhục, thì hoàn cảnh không có sự đáu tranh
giết hại, mà chỉ là sự tương thân tương ái.
3. Chánh nhân thiên giới
Tu Thập Thiện Nghiệp là gieo nhân tốt để đời sau gặt
kết quả đẹp đẽ là sanh lên cõi Trời, hưởng phước lạc đầy đủ.
4. Căn bản Phật quả
Mười phương ba đời, các vị hiền thánh thoát khỏi sanh
tử, chứng quả vô thường, đều lấy mười nghiệp thiện làm căn bản;
vì mười nghiệp lành nầy, có công năng ngăn ngừa các hành vi độc ác,
làm cho ba nghiệp (Thân, Khẩu, Ý) được thanh tịnh, nhờ đó, con người mới
thoát ly sanh tử, chứng qủa Niết Bàn. Nếu đem mười nghiệp lành nầy, hồi
hướng cho toàn thể chúng sanh, thì sẽ được Phật quả.
Tóm lại, tu Thập Thiện Nghiệp thì trong đời hiện tại,
thân tâm ta được cải thiện đẹp đẽ, hoàn cảnh ta sống được sáng sủa
tươi vui; và tương lai ta tránh khỏi ọa lạc chốn tam đồ, lại được
hưởng phước báo cõi Nhân, Thiên và Niết Bàn
Vậy ước mong tát cả mọi người, nên tu Thập Thiện Nghiệp
để tạo hạnh phúc cho mình và cho tất cả chúng sanh. Có như thế mới là
bực trí huệ làm theo lẽ phải. Vì một phen được thân người mà không
tu để tiến hóa lên, thì khi mất nhân thân rồi, muôn kiếp khó trở lại
được.
Chân thành cảm ơn cư sĩ Tâm Diệu đã gởi
tặng phiên bản điện tử. ĐPNN, 24-8-2000