- Thờ Phật, Lạy Phật, Cúng Phật
- HT. Thích Thiện Hoa
- (Trích từ Phật Học Phổ Thông)
A. MỞ ĐỀ
Xưa nay, những bậc có công ơn lớn đối với quốc gia, xã
hội đều được tôn sùng, ngưỡng mộ. Sự tôn sùng ngưỡng mộ này do
nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là lòng tri ân và sự mong muốn
được noi theo gương sáng.
Tục ngữ ta có câu: "Ăn trái phải nhớ kẻ trồng
cây, uống nước phải nhớ người đào giếng". Lòng tri ân là một đức
tánh quý báu, mà những người có chút công bằng không thể thiếu được.
Một xã hội gồm những phần tử phi ân bội nghĩa, ăn cháo đá bát,
không có thể tồn tại được lâu dài, vì nó làm chán nản những kẻ có
lòng, và làm khô cạn nguồn hy sinh. Vả lại, nếu con người thấy điều
tốt, người hiền mà chẳng hâm mộ, thấy điều xấu, người ác mà
không tránh xa, thì con người ấy là người thiếu căn bản đạo đức,
thiếu mầm thiện, khó có thể tiến bộ.
Vì những lý do trên, ta thấy trên thế giới, bất luận
ở phương trời nào, dân tộc nào, thời đại nào, hễ có kẻ công đức
với làng xóm, thì được làng xóm tôn thờ, kẻ có công đức với quốc
gia, dân tộc, thì được quốc gia, dân tộc tôn thờ, kẻ có công đức với
nhân loại, thì được nhân loại sùng thượng.
Sự thờ cúng trong các tôn giáo cũng không ra ngoài những
lý do đã kể trên. Nhưng ở các tôn giáo, sự thờ cúng có tánh cách thường
trực và thiết tha hơn, vì các vị giáo chủ là những bậc có công ơn lớn
đối với nhân loại và là những gương sáng *đối mà tín đồ cần đặt
luôn luôn ở trước mắt để soi sáng đời mình. Trong các vị giáo chủ,
thì đức Phật là vị được nhiều tín đồ sùng mộ nhất. Sự sùng mộ
ở đây biểu hiện trong sự thờ, lạy và cúng Phật.
- B. CHÁNH ĐỀ
- I. Thờ Phật
- 1. Phật là bậc đáng tôn thờ
Chư Phật là những bậc đã dày công tu luyện phước
đức và trí huệ, cho nên đã được hoàn toàn sáng suốt và có đầy đủ
đức hạnh cao quý. Các Ngài đã dùng cái đức và cái trí ấy để dắt dẫn
chúng sanh ra ngoài biển khổ sanh tử luân hồi, và đưa đến dịa vị sáng
suốt an vui. Trong công việc độ sanh ấy, các Ngài lại không *giữ thối
chuyển ngã lòng mặc dù gặp trở lực khó khăn. Các Ngài đã nguyện độ
cho toàn thể chúng sanh, cho đến khi nào không còn một chúng sanh nào để
độ nữa mới thôi. Thật là đúng với câu: "Tự giác, giác tha, giác
hạnh viên mãn".
Một bậc có đủ ba đức tánh quý báu là Bi, Trí, Dũng, ba
đức tánh căn bản mà một con người muốn được hoàn thiện, toàn mỹ,
toàn chân, không thể thiếu được. Một bậc siêu phàm xuất chúng, có những
lời dạy quý báu, những cử chỉ cao thượng, những hành động sáng suốt,
một đời sống gương mẫu như Phật, mà chúng ta không tôn thờ, thì tôn
thờ ai nữa?
2. Nhưng chúng ta phải thờ Phật như
thế nào mới đúng ý nghĩa
Như trên đã nói, chúng ta thờ Phật là để tỏ lòng tri
ân của chúng ta đối với một vị đã có ân đức lớn với nhân loại.
Chúng ta thờ Phật là để có luôn luôn ở trước mặt một gương mẫu sáng
suốt trọn lành để khuôn rập tư tưởng, lời nói và hành động của chúng
ta được chân, thiện, mỹ như Phật vậy. Người ta thường nói: "Gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng". Chúng ta thờ Phật là muốn luôn
luôn được có bên mình cái *ngọn đèn trí tuệ của Ngài, cái từ bi của
Ngài để được sáng lây, thơm lây, chứ không phải chúng ta có mục đích
cầu cạnh Ngài để Ngài ban phước, trừ họa, để Ngài che chở cho chúng
ta mua may bán đắt một cách bất lương, hay để chúng ta dựa vào thế lực
của Ngài, tha hồ làm những điều bất chính.
Nếu chúng ta thờ Ngài với mục đích sai lạc như vừa nói
ở trên, thì không những chúng ta đã phỉ báng đức Phật, mà chúng ta
còn tự tạo tư tưởng không tốt cho chúng ta nữa.
3. Phải thờ đức Phật nào?
Đức Phật nào cũng có nghĩa vô lượng quang, vô lượng thọ
bao la cùng khắp và công đức tu hành phước trí vô lượng vô biên cả;
nên hễ thờ một đức Phật là thờ tất cả các đức Phật.
Nhưng chúng ta cũng nên tùy theo thời kỳ giáo hóa của mỗi
đức Phật và pháp môn tu hành mà thờ cho xứng lý, hợp cơ. Thí dụ như
hiện nay, chúng ta ở vào thời kỳ giáo hóa của Phật Thích Ca Mâu Ni, thì
lẽ cố nhiên, chúng ta phải thờ Ngài trước hết.
Nếu tín đồ nào tu về "Tịnh Độ Tông", chuyên về
pháp môn "trì danh niệm Phật" để cầu vãng sanh, thì tín đồ ấy
phải thờ đức Phật A Di Đà.
Hoặc giả, nếu Phật tử muốn thờ đủ tất cả các đức
Phật trong ba đời, thì nên thờ đức Thích Ca, Đức A Di Đà và đức Di Lặc,
gọi là thờ "Tam Thế Phật ".
4. Cách thức thờ Phật
Như vậy, trong nhà tín đồ, nếu muốn thờ tượng Phật,
thì nhiều nhất là ba vị. Và nên nhớ rằng, trong khi thờ Tam thế Phật,
phải sắp đặt chung một bàn. Nếu tượng lồng kiếng thì nên treo ngay thẳng,
không được cái cao, cái thấp, cũng không được cái to, cái bé; còn như
tượng gỗ, tượng đồng, tượng sành, thì để ngang hàng đồng bực, không
nên để từng trên, cấp dưới. Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa
nhà, bàn thờ ông bà, thì nên thờ một bên. Nếu nhà lầu thì thờ Phật
ở tầng trên. Tại bàn thờ *vật không nên để tạp vật nào khác, ngoài
bình bông, lư hương, chân đèn và đĩa quả. Những vật này, mỗi ngày đều
săn sóc lau quét sạch sẽ luôn.
Lần đầu tiên thỉnh tượng Phật, tín đồ phải làm lễ
thượng tượng, cũng gọi là lễ an vị Phật. Lễ này không bắt buộc tổ
chức linh đình, chỉ nên làm một cách đơn giản, nhưng không kém vẻ
trang nghiêm và tinh khiết. Muốn được hai đặc điểm ấy, chủ nhà phải
dọn mình sạch sẽ: ăn chay, giữ giới và mời thêm thiện hữu tri thức
đến hộ niệm một thời kinh.
Và bắt đầu từ ngày làm lễ an vị Phật trở đi, tất cả
mọi người trong nhà, mỗi ngày ra vô trong thấy tượng Phật, nên nghĩ nhớ
đến đức hạnh cao cả của Ngài mà chỉnh đốn lại thân tâm mình. Mỗi
ngày đều lo cải thiện lại sự cư xử với nhau, đối nội cũng như đối
ngoại, phải luôn thấm nhuần tinh thần từ bi, bác ái và bình đẳng. Như
thế mới xứng đáng với danh nghĩa của một gia đình có thờ Phật.
Thờ phụng lâu năm, tượng Phật bị hư rách, không thể sơn
phết hay sửa chữa lại được, thì nên thay đổi tượng mới rồi thì tượng
cũ phải dâng vào chùa để chờ dịp nhập tháp, chứ không nên bạ đâu bỏ
đó, mà mang tội.
- II. LẠY PHẬT
- 1. Ý nghĩa lạy Phật
Ngày xưa, khi đức Phật còn tại thế, các đệ tử từ
vua quan cho đến dân chúng, mỗi lần được may mắn gặp đức Phật Thích
Ca, đều cúi xuống ôm chân Phật và đặt trán mình lên chân Ngài để tỏ
lòng ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng: Bi, Trí siêu phàm. Cử
chỉ ấy là một cử chỉ vô cùng khiêm tốn, nhu thuận và hoàn toàn tin cậy
đối với đức Phật.
Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem Ngài như
tại thế, và cái cử chỉ cúi xuống ôm chân Phật vẫn còn tiếp nối tồn
tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái cử chỉ ấy chỉ có cái
công dụng làm cho tín đồ bao giờ cũng hình dung như đức Phật còn ngồi
trước mặt mình để chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết tha của
mình.
2. Phải lạy như thế nào mới đúng
ý nghĩa
Để cho đúng với ý nghĩa trên, khi lạy Phật phải quỳ
xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cúi lưng xuống
đặt trán mình lên trên hai lòng bàn tay.
Trước khi lạy Phật, phải dọn mình cho sạch sẽ: rửa mặt,
súc miệng, lau chân tay, thay y phục và mặc áo tràng. Xong xuôi, mới đốt
hương ra trước bàn Phật, đứng ngay thẳng, tay chắp để trước ngực, mắt
nhìn tượng Phật, tâm tưởng đến tướng tốt và những đức hạnh cao cả
của Ngài, và tỏ bày nguyện vọng chân chánh của mình, xá rồi cắm hương
vào lư, đánh tiếng chuông và lạy Phật 3 lạy.
Lễ Phật như thế mới đúng phép: trong Kinh gọi là
"thân tâm cung kính lễ" nghĩa là thân thì hăng hái tề chỉnh,
nghiêm trang, tâm thì hớn hở vui mừng và hết lòng thành kính như gặp
được Phật còn tại thế.
Trái lại, nếu chúng ta lễ Phật với lòng ngã mạn (trong
kinh gọi ngã mạn lễ), hay với tâm cầu danh (trong kinh gọi là cầu danh lễ),
thì đã không có kết quả gì, mà còn mang thêm tội.
- Ngã mạn lễ
là khi lạy Phật mà trong tâm còn ngạo nghễ, kiêu căng,
năm vóc (đầu, hai tay, hai chân) không sát đất, đứng lên cúi xuống một
cách cẩu thả, qua loa cho có chuyện.
- Cầu danh lễ
là khi thấy có đông người thì miệng liền to tiếng
dài hơi xưng danh hiệu Phật, thân lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ,
có ý để được mọi người khen ngợi. Trái lại, khi không có người thì
thân lại biếng nhác, tâm lại giải đãi, không muốn lễ bái gì cả.
Hai cách lễ bái trên này rất giả dối, vậy những ai muốn
tiến trên đường đạo, phải nên tránh ngay.
3. Bốn phép lại (thuộc về
lý)
Về phương diện Lý, thì có 4 phép lễ.
a) Phát Trí Thanh Tịnh Lễ. Trong phép này, người hành
lễ phải *thấu suốt rằng cảnh giới của chư Phật đều tùy tâm hiện
bày, nên lạy một đức Phật, tức là lạy tất cả chư Phật, lạy một
lạy là lạy tất cả các Pháp Giới, *vì Pháp thân của Phật dung thông.
b) * Biến Nhập Pháp Giới Lễ. Trong phép này, người
hành lễ phải tự quán thân, tâm cùng tất cả các pháp, từ hồi nào đến
bây giờ đều không rời pháp giới.
c) Chánh Quán Lễ. Trong pháp này, người hành lễ lạy
đức Phật ngay nơi tự tâm của mình, chứ không duyên với đức Phật nào
khác, vì tất cả chúng sanh từ xưa đến nay, đều sẵn có Phật tánh
viên mãn, bình đẳng và chân giác.
d) Thật Tướng Bình Đẳng Lễ. Trong phép lễ này, người
hành lễ không thấy có tự, có tha; người và mình là một, phàm và thánh
nhứt như; thế và dụng không hai. Do đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có
nói: "Năng lễ, sở lễ tánh không tịch", nghĩa là người lạy *và
đấng mình lạy, thể tánh đều vắng lặng. Như thế mới thấu đáo và hợp
với lý Bát Nhã.
Bốn cách lễ này, lý cao khó nghĩ bàn, nếu chẳng phải
là bực thượng căn thượng trí, thì không thấu nổi và khó làm theo được.
III. CÚNG PHẬT
Cúng Phật là nói tắt, nói cho đủ là cúng dường Tam Bảo:
Phật, Pháp, Tăng. Cúng dường có nghĩa là cung cấp và nuôi dưỡng.
1. Ý nghĩa về cúng Phật
Có người sẽ hỏi: Tại sao đức Phật đã là bất sanh, bất
diệt mà còn lại cúng dường?
Thật ra, đức Phật đã thoát ra ngoài vòng sanh tử, thì đâu
còn *hạn hụt trong sự ăn uống. Nhưng, đây chỉ là hình thức để ngụ
ý rằng, mặc dù Phật đã nhập diệt lâu rồi, nhưng đối với chúng ta,
bao giờ cũng xem như Ngài còn tại thế. Xưa, các đệ tử, các đàn na thí
chủ đã cúng dường Ngài như thế nào, nay chúng ta vẫn cứ tiếp tục cử
chỉ ấy. Sự cúng dường này làm cho chúng ta gần với Phật, có cảm tưởng
như bao giờ cũng ở bên cạnh Phật. Cũng nhơn sự thờ phụng, lễ bái
cúng dường này mà chúng ta được kết duyên lành với Phật, hình dung rõ
rệt được cuộc đời của Ngài để quyết noi theo bước chân của Ngài.
2. Phải cúng Phật với những gì? (về
sự)
Vẫn biết rằng chúng ta nên cúng dường Phật để hình
dung như Ngài còn tại thế, nhưng nếu chúng ta, mỗi khi cúng Phật, lại
bày biện đủ mọi thức ăn uống, nào yến tiệc cỗ bàn linh đình thì thật
là phí của, phí công mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa sâu xa của sự
cúng Phật
Vậy, muốn cúng Phật đúng ý nghĩa thì chỉ nên dùng hương
thơm, đèn sáng hoa tươi, trái tốt, nước trong và đôi khi thêm cơm trắng
là đủ.
3. Năm món diệu hương để cúng Phật
Đoạn trên là nói về Sự, về hình tướng bên ngoài khi
cúng Phật. Còn về phương diện Lý, thì phải dùng năm món diệu hương để
cúng Phật như sau:
a) Giới hương. Pháp thân của Phật rất thanh tịnh,
nếu về Sự, chúng ta đã dùng hương trầm đốt cúng, thì về mặt Lý,
chúng ta cũng phải trì giới cho trang nghiêm thanh tịnh, để lễ cúng dường
được đủ cả về Sự và Lý.
b) Định hương. Thân tâm chúng ta bị mê nhiễm và thường
loạn động trong mọi hoàn cảnh. Nếu để truông trôi mãi trong tình trạng
ấy, thì chúng ta chẳng tu hành gì được. Vậy hằng ngày, hằng giờ, hằng
phút, hằng giây, hằng sát na chúng ta phải cố gắng tập định tỉnh tâm
hồn, đừng để cho những ý nghĩa, hành động xấu xa xâm chiếm tâm hồn
và làm cho chúng ta phải loạn động. Làm cho tâm tư lắng xuống, như thế
gọi là dùng Định hương cúng Phật.
c) Huệ hương. Huệ hương cúng Phật là lúc nào cũng
phải lưu tâm vào ba món sáng tỏ: Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ. Văn huệ là
hằng nghe những lời giáo hóa quý báu của chư Phật và Thánh Hiền Tăng;
Tư huệ là đem những lời giáo hóa quí báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm,
biết thế nào là phải, thế nào là quấy, cái nào là chân thật, cái nào
là luống dối để khỏi lầm lạc vào đường tà; Tu huệ là quyết tâm
thực hành những điều *mà mình cho là phải, trừ bỏ những điều cho là
trái, thực hiện đúng đắn giáo lý sáng suốt của đức Phật.
d) Giải thoát hương. Giải thoát hương cúng Phật là
quyết tâm phá trừ ngã chấp, nguồn gốc của bao sự đau khổ luân hồi.
Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngã, không nhận chiếc thân tứ đại này
là mình, cũng không nhìn cái nghiệp thức phân biệt là mình, để được
thoát lý ra ngoài vòng sanh tử luân hồi.
đ) Giải thoát tri kiến hương. Chúng ta đã biết
quán vô ngã, để phá trừ ngã *chấp thì được giải thoát, song vẫn còn
"Pháp chấp" ràng buộc, nên chưa đến được cảnh giới tự tại,
vô ngại như Phật. Còn Pháp chấp nghĩa là còn thấy các pháp như: đất,
nước, gió, lửa là có thật; còn thấy vui,buồn, sướng, khổ là có thật.
Khi nào chúng ta thể nhận được rằng tứ đại sở dĩ in tuồng có thật
là vì chúng ta còn ở trong nghiệp người, chớ đối với các loài khác,
như cá chẳng hạn, thì nước đâu phải là nước như chúng ta quan niệm,
mà chính là lâu đài, nhà cửa; dối với loài mọt, thì gỗ đâu phải là
chúng ta quan niệm, mà là thức ăn nhà ở; cho đến vui, buồn, sướng, khổ
đều là đối đãi với nhau mà sanh ra. Vậy thì Pháp cũng như Ngã, đều là
giả dối, không có thật, mà chỉ là những danh từ suông mà thôi. Luôn
luôn quán như thế, để được giải thoát ra khỏi sự chấp Pháp, như thế
gọi là "Giải thoát tri kiến hương" cúng Phật.
4. Cúng dường Tăng bảo
Nếu chúng ta đã thành tâm thờ cúng Phật, thì tất nhiên
chúng ta phải kính trọng Tăng. Chư Tăng đã thay Phật mà truyền giáo lý của
Ngài lại cho chúng ta, lẽ nào chúng ta lại làm ngơ không biết đến? Chúng
ta không nên phân biệt Tăng ở xứ nào, chùa nào, hay phái nào. Vị Tăng nào
có đủ giới đức chúng ta cũng sẵn lòng cung phụng cả, như thế gọi là
cúng dường Tam Bảo.
- C. KẾT LUẬN
- 1. Lợi ích của sự thờ, lạy và cúng Phật
Như các đoạn trên đã nói, chúng ta thờ lạy và cúng
Phật là do lòng tri ân sâu xa của chúng ta đối với bậc đã hy sinh tất
cả *hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng sanh; lý do thứ hai của sự thờ lạy
và cúng ấy là để chúng ta luôn luôn có trước mắt, trên đầu chúng ta,
một cái gương mẫu hòan toàn chân, thiện, mỹ để noi theo.
Sự thờ, lạy và cúng Phật, nếu thực hành một cách
thành tâm, thiện *trí và đúng ý nghĩa, thì sẽ đem lại cho người rất
nhiều lợi ích trong hiện tại và vị lai:
1. Trong hiện tại, mỗi chúng ta và gia đình chúng ta bao giờ
cũng như sống trong bầu không khí xán lạn, trong ảnh hưởng tốt lành, đạo
vị của chư Phật. Chúng ta luôn luôn sống trong nghiêm chỉnh, trong lễ
nghi, trên thuận dưới hòa, vì mỗi ý nghĩa, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói
của chúng ta đều được đôi mắt sáng suốt của đức Phật soi xuống.
Chúng ta không dám sống bừa bãi, làm xằng, nghĩ quấy khi đức Phật đang
ngự trị trong gia đình và trong lòng mỗi chúng ta. Chỉ những tâm hồn trống
rỗng, không tin tưởng, không tôn thờ một vị thiêng liêng cao cả nào, mới
dễ sa ngã, trụy lạc. Cho nên gia đình, muốn có hạnh phúc trong hiện tại,
muốn sống một đời sống có ý nghĩa, muốn con em đừng bê tha, trụy lạc,
thì người gia chủ nên thiết bàn Phật để ngày lể bái và cúng dường
Ngài và tập cho con em sống hiền lương và đạo vị.
2. Khi lâm chung ,nghiệp lành mà chúng ta đã huân lập trong
hằng ngày của chúng ta sẽ cảm ứng lòng từ bi của chư Phật và Bồ
tát. Do "luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", chư
Phật và Bồ tát sẽ tiếp dẫn giác linh chúng ta về cỏi tịnh độ an vui
tự tại.
2. Khuyên phát chánh tín trong sự thờ,
lạy và cúng Tam Bảo
Muốn có được kết quả tốt đẹp như trên, chúng ta phải
phát tâm chánh tín. Nếu thờ, lạy và cúng dường Tam Bảo một cách sai lạc
không những không ích lợi gì cho ta lại còn mang thêm tội, và trôi lăn mãi
trong cảnh sanh tử luân hồi.
Chúng ta phải tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng:
1. Đức Phật là bực hoàn toàn giác ngộ, *siêu thanh,
thoát tử, có năng lực độ thoát chúng sanh khỏi nẻo luân hồi, và xứng
đáng làm thầy chúng sanh khỏi nẻo luân hồi, xứng đáng làm thầy chúng
sanh trong ba cõi. Vì thế nên chúng ta thờ Ngài.
2. Phật Pháp là phương pháp thần diệu, trừ được tất
cả nguyên nhân đau khổ của chúng sanh; vì thế cho nên chúng ta phải thờ
Phật Pháp.
3. Chư Tăng nếu có đủ giới tính thanh tịnh, là những thầy
sáng, bạn lành của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải kính thờ, thân cận
các Ngài để học hỏi đường lối tu hành.
4. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt, nếu
chí tâm tu luyện theo Phật Pháp thì chắn chắc sẽ thành Phật.
5. Lý nhân quả không hề sai chạy, nếu tạo nhân lành thì
hưởng quả tốt. Trong các nhân lành, không có nhân lành nào thù thắng hơn
là nhân "thờ Phật, lạy Phật và cúng dường Tam Bảo", đủ Sự
và Lý. Vẫn biết rằng thờ, lạy và cúng đủ cả hai phương diện Sự và
Lý là khó, nhưng xung quanh chúng ta, ở trong thế giới này sẵn có vô lượng
vô *số Kim Cang Bồ tát và Hộ Pháp Thiên Vương, đồng phát tâm giúp đỡ,
hộ niệm cho tất cả những người phát tâm chánh tín thờ cúng Phật,
thì lo gì công của chúng ta không tròn, quả của chúng ta không mãn?