- Sám-hối
- HT. Thích Thiện Hoa
- (Trích từ Phật Học Phổ Thông)
- A. MỞ ĐỀ
- Chúng ta sống trên đời này không ai là hoàn
toàn trong sạch
Phật thường dạy: "Phàm còn xuống lên ba cõi, *lặn lội
trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch,
không một giống nào dứt hết tội lỗi".
Thật thế, cõi đời này đã được gọi là cõi trần,
thì làm sao trong sạch được? Người ta thường nói: "ở bầu thì
tròn, ở ống thì dài"; vậy thì ở trong bụi tất cả phải lấm bụi.
Bụi đời đã lâu đời lâu kiếp phủ lên thân, lên đầu chúng ta, và
trong buồng gan lá phổi của chúng ta. Nó làm cho chúng ta mờ mắt không thấy
được đường chánh; nó làm cho chúng ta dục lòng, không thấy được chân
tâm.
Nếu chúng ta muốn sống mãi trong cảnh bụi nhơ, muốn đắm
mình trong tội lỗi, thì không nói làm gì. Nhưng khi chúng ta đã muốn được
trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi cho lòng được nhẹ nhàng,
thư thới, thì tất nhiên chúng ta phải tìm phương pháp để trừ cho hết
bụi bặm, tẩy trừ cho hết tội lỗi. Trong đạo Phật, phương pháp tẩy
trừ ấy gọi là Sám Hối.
- B. CHÁNH ĐỀ
- I. ĐỊNH NGHĨA
Chữ "Sám", tiếng Phạn gọi là Samma; Tàu dịch
là "Hối quá". Kinh nói: "Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả
hối kỳ hậu quá". Nghĩa là Sám là ăn năn lỗi trước, còn hối là
chừa bỏ lỗi sau. Nếu dùng một chữ Sám hay một chữ Hối không, thì chưa
đủ ý nghĩa, nên các Tổ xưa ghép hai chữ lại thành danh từ "Sám hối",
dịch theo tiếng Việt là "ăn năn chừa lỗi".
Như thế trong chữ Sám hối có hàm nghĩa ăn năn, hối hận
vì những lỗi lầm trong quá khứ; bất luận là lâu mau, và bây giờ cho đến
về sau, mình nguyện là không tái phạm nữa. Nếu biết lỗi cũ là bậy,
bây giờ mình xin chuộc lỗi, mà sau này vẫn còn làm lại, thì không phải
là đúng nghĩa Sám hối trong đạo Phật.
- II. CÁC CÁCH SÁM HỐI
- 1. Sám hối sai lầm
Đúng ra chữ Sám hối là danh từ riêng của Đạo Phật.
Khi Sám Hối mà gọi là sai lầm, thì không phải là Sám Hối nữa rồi. Nhưng
để tiện việc diễn đạt, chúng ta hãy tạm dùng hai chữ ấy để nói
chung những cách chuộc tội ở thế gian hay trong các ngoại đạo.
Người thế gian, khi có tội lỗi với ông bà, làng nước,
thường dùng trà rượu, hay heo gà, tiền bạc để tạ tội, xin lỗi. Có
khi người ta lại dùng hình thức "đoái công *thục tội", như khi
phạm tội với triều đình hay trong quân ngũ chẳng hạn. Hình thức lấy
công chuộc tội cũng có chỗ hay, nhưng chưa hoàn hảo và còn thô thiển.
Nó chỉ áp dụng để đối phó với bên ngoài, chứ trong trường hợp những
tội lỗi xảy ra trong nội tâm của chúng ta, những tội lỗi rất vi tế rất
sâu xa, thì khó có thể mà áp dụng được hình thức nói trên.
Trong các ngoại đạo, người ta cũng có dùng nhiều hình thức
chuộc tội: như có đạo dùng máu thú vật để xin rửa tội với thần
linh; có đạo chủ trương xuống tắm ở những sông, suối mà người ta
cho là linh thiêng thì hết tội; có đạo lại đem phẩm vật để xin Thánh
thần xả tội; có đạo lại chủ trương khổ hạnh, ép xác như đánh đập
thân mình, nhịn đói khát, chịu nóng rét, nằm gai nếm mật để được
giải thoát tội lỗi.
Những cách chuộc tội như thế đều sai lầm hết. Tội lỗi
thuộc về tâm lý, không có hình tướng. Vậy thì làm sao có thế lấy vật
chất như nước, máu huyết, phẩm vật hay xác thân để làm cho sạch tội
được.
2. Sám hối chân chính
Đức Phật dạy rằng: Tội lỗi do tâm của người tạo
ra, không ai có quyền thưởng phạt. Kẻ *giống gieo giống xấu thì ăn trái
dở, người trồng giống quý thì hưởng quả ngon. Tội lỗi đã từ tâm tạo,
thì cũng từ tâm mà sám. Lời nói thật rõ ràng, chí lý, hợp với thực
nghiệm. Vậy chúng ta muốn hết tội, phải y theo những pháp Sám Hối chân
chánh của Đạo Phật mà thật hành. Trong đạo Phật, có 4 pháp Sám Hối
sau đây, có pháp thuộc về sự, có pháp thuộc về lý:
- Tác pháp sám hối (sự);
- Thủ tướng sám hối (sự);
- Hồng danh sám hối (sự);
- Vô danh sám hối (lý).
a) Tác Pháp Sám Hối
Pháp sám hối này thuộc về sự; phải lập giới đàn và
thỉnh thanh tịnh Tăng chứng minh, nên gọi là tác pháp. Khi vào giới
*tràng, mình phải thành thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí
tâm ăn năn và nguyện về sau không tái phạm nữa. Một lòng thành kính
sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh, tức là hết tội.
b) Thủ Tướng Sám Hối
Pháp này thuộc về sự và khó hơn pháp trước. Phật chế
pháp này, là pháp sám hối thuộc quán tưởng, cho những người tu hành có
trình độ cao, hoặc ở chỗ không có Tăng, hay có, nhưng không được thanh
tịnh.
Muốn tu pháp này, hành giả phải đến trước tượng Phật
hay Bồ Tát, thành tâm lễ bái, trình bày những tội lỗi đã phạm, và
nguyện ăn năn chừa bỏ. Làm như thế từ một ngày, ba ngày, bảy ngày, 49
ngày, và mãi cho đến khi nào thấy được hảo tướng: như thấy hào
quang, hoa sen báu, thấy Phật, Bồ Tát đến xoa đầu v.v..thì mới thôi.
c) Hồng Danh Sám Hối
Pháp Hồng Danh Sám Hối này cũng thuộc về sự, do Ngài Bất
Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật
trong Kinh "Ngũ Thập Tam Phật " tức là từ đức Phật Phổ Quang
cho đến Phật Nhứt Thế Pháp Tràng *Mán Vương, và rút 35 hiệu Phật trong
Kinh "Quán Dược Vương, Dược Thượng" với pháp thân đức Phật
A Di Đà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Đại Nguyện, thành nghi sám hối này,
tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.
Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành kính lễ, thì sẽ
diệt trừ những phiền não và tội lỗi đã tạo, trong đời hiện tại
cũng như nhiều đời về quá khứ. Đức Phật Tỳ Bà Thi nói: "Nếu
chúng sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức kiếp không
đọa vào ba đường ác". Đức Phật Thích Ca nói: "Thuở xưa, đời
Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu
53 vị Phật này, và thành tâm lễ bái, mà tránh khỏi những đau khổ trong
đường sanh tử luân hồi nhiều kiếp". Còn 35 danh hiệu Phật sau, từ
đức Phật Thích Ca cho đến đức Phật Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ
Vương, thì trong Kinh Bửu Tích nói: "Nếu tất cả chúng sanh, hoặc phạm
tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không thể sám hối, chỉ xưng
danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái, thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu
trừ".
Về sau Ngài Từ Vân Pháp Sư vì những người yếu đuối
hoặc không quen lạy nhiều, nên dã soạn ra một nghi thức sám hối, rất
*gọ dễ và đầy đủ ý nghĩa, cũng gọi là pháp tiểu sám hối, để cho
Phật tử có thể hằng ngày sám hối tội lỗi của mình.
d) Vô Danh Sám Hối
Pháp này thuộc về lý sám hối rất cao và khó, bực thượng
căn mới có thể thực hành được. Có hai cách sám:
- Quán tâm vô sanh:
Nghĩa là quan sát tự tâm mình hiện tiền không sanh.
Như trong Kinh Kim Cang nói: "Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại
chẳng có, tâm vị lai cũng không ". Quán trong ba thời gian đều không
có tâm, thì vọng niệm không từ đâu mà có, thì các tội lỗi cũng không.
Kinh nói: "Tội từ nơi tâm sanh ra mà cũng từ nơi tâm diệt. Nếu tâm
này không sanh, thì tội kia cũng chẳng còn, thế mới thật là sám hối".
Quán pháp vô sanh: Nghĩa là quan sát thật tướng
(chơn tánh) của các pháp không sanh. Chữ "thật tướng", nghĩa là
cái tướng ấy không sanh không diệt, không hư dối; từ xưa đến nay nó vẫn
thường như thế, không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển dời,
suốt xưa thấu nay, nên gọi là "thật tướng" (tướng chân thật).
Nó cũng có tên là chơn như hay chơn tâm...
Khi nhận được thật tướng rồi, thì các giả tướng đều
không còn. Lúc bấy giờ những tội lỗi (giả tướng) kia, không còn gá nương
vào đâu mà tồn tại. Trong Kinh *Quán Phổ Hiền có chép: "Muốn sám hối,
phải quán thật tướng của các pháp, thì tội mới hoàn toàn tiêu diệt".
III. PHÁT TRIỂN HẠNH LÀNH MỚI, ĐỂ TIÊU
TRỪ TỘI LỖI CŨ
Làm lễ sám hối xong, cần phải phát triển những hạnh
lành cho nhiều, để tiêu trừ tội lỗi cũ.
1. Luận về tội lỗi thời đã qua
Những tội lỗi xưa của chúng ta rất nhiều, có thể nói
là vô số. Sự sống của chúng ta tiếp nối liên lạc với nhau từ đời
nọ đến đời kia, như một sâu chuỗi dài vô tận. Rồi cứ trong mỗi đời,
từ sanh đến tử, từ tử đến sanh, chúng ta cứ tạo thêm tội mãi. Từ
cái tệ này bắt qua cái dở khác, từ cái lỗi nhỏ đi tới cái tội lớn,
cái đà ấy cứ tăng tiến mãi tạo thành một sức mạnh gọi là nghiệp lực,
dắt dẫn chúng ta vào đường khổ não mê lầm, tức là dòng sanh tử mà
chúng ta đang thọ vậy.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phổ Hiền Bồ Tát nói: "Nếu
tội lỗi của chúng sanh có hình tướng, thì tất cả hư không cũng không
thể chứa hết". Thật thế, tội lỗi của chúng sanh chất chồng từ
muôn vạn kiếp, và truyền nối qua thời gian, bởi di truyền, phong tục,
thói quen v.v...Chẳng hạn như tánh tham, chúng ta mới sanh, nào có ai dạy
cho chúng ta đâu, thế mà chúng ta vẫn biết! Cũng không ai bảo chúng ta giận
hờn, vậy gặp điều gì trái ý, là chúng ta cau có, la lối liền. Những
tánh xấu ấy có một lần với thân và rất sâu sắc, khó dứt trừ. Trong
Kinh gọi chúng nó là "*câu sanh phiền não", hay "bổn hữu chủng
tử", nghĩa hạt giống có từ lâu. Những hạt giống xấ
鵠này lại còn làm duyên sanh ra các tội lỗi khác, mà
trong kinh luận gọi là "Phân biệt phiền não" hay "thỉ khởi
chủng tử", nghĩa là hạt giống mới nhiễm do ảnh hưởng thời đại,
tập quán, phong tục chi phối. "Phân biệt phiền não" thì có thể
trừ, nhưng "câu sanh phiền não" rất khó trừ. Chúng như cỏ cú,
đâm sâu gốc rễ rất xa; nếu người làm vườn khinh thường nó thì
không dễ gì dọn đất sạch cỏ.
Cho nên chúng ta cũng không nên sám hối lấy lệ, lấy có
được ! Chúng ta phải làm sao cho:
a) Những tánh xấu kia yếu bớt dần dần, do sức mạnh của
lòng thành khẩn và chí cương quyết;
b) Rồi dứt tuyệt các tánh xấu không cho chúng tái sanh.
Muốn dứt tuyệt chúng, mà nếu không có phương pháp thích
hợp, thì chẳng khác gì lấy đá đè cỏ: nó nằm bẹp tạm thời, nhưng
khi dời đá đi, nó sẽ mọc lên mạnh mẽ hơn trước. Phương pháp thích hợp
trong sự sám hối là: phát triển hạnh lành, để tiêu trừ tội lỗi cũ.
2. Phát triển hạnh lành
Trong lòng mỗi chúng ta không phải toàn chứa đựng những
tánh xấu xa. Nếu tánh xấu đã có từ muôn đời, thì tánh tốt cũng có từ
vô thỉ. Chúng ta mỗi người đều có Phật tánh là cái mầm của muôn hạnh
lành, cái mầm ấy đã bị chôn vùi dưới bao lớp dục vọng, si mê. Bây
giờ muốn tiêu trừ dục vọng thì chúng ta phải tạo điều kiện, cho cái
mầm Phật tánh trổ lá, lên hao kết trái Bồ đề. Điều kiện làm cho mầm
Bồ đề phát triển là những hạnh lành như Từ Bi, Hỷ Xả, Bố Thí, Trì
Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn v.v...Nếu chúng ta phát triển những tánh tốt
ấy, tất nhiên những tánh xấu không có đất mọc lên nữa.
C. KẾT LUẬN
Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, người thế gian
hay các tôn giáo đều có những cách thức ăn năn ngừa lỗi cả. Song, chỉ
có pháp sám hối của đạo Phật mới dứt trừ được tội lỗi, do chỗ
lấy sự cải ác, tùng thiện làm cốt yếu.
Trong 4 pháp sám hối của đạo Phật, có pháp về Sự, có
pháp về Lý, có pháp cao, có pháp thấp. Vậy phải tùy theo căn cơ và hoàn
cảnh của mỗi người mà áp dụng. Người thượng căn, thì quán pháp Vô
Sanh Sám Hối. Người không gặp cảnh thuận tiện, không có giới đàn,
không gặp cao Tăng, thì dùng pháp Thủ Tướng Sám Hối. Người được cảnh
thuận tiện có giới đàn thanh tịnh, có cao Tăng đại đức thì dùng pháp
Tác Pháp Sám Hối. Còn thấy mình tội chướng nặng nề, và thấy các
pháp trên khó thực hành được, thì cứ mỗi đêm, hay những bữa ăn chay
và ngày sóc vọng, tùy tiện đến chùa hoặc ở nhà chí tâm lạy Hồng
Danh Sám Hối hoặc tiểu sám hối cũng tốt.
Trong các pháp sám hối của Đạo Phật, mặc dù có lạy
có quỳ, có lễ bái, nhưng không phải để cầu cạnh van xin được tha tội
đâu. Trong cái lạy cái quỳ ấy, có chứa không biết bao nhiêu ý nghĩa và
ích lợi. Vẫn biết lạy và quỳ, nhứt là trong pháp Hồng Danh Sám Hối,
thật là hao hơi mệt xác thân, có cái vui tinh thần, trong cái sự tướng bên
ngoài có hàm cái lý nghĩa bên trong.
Thật vậy, tuy có lạy nhiều, niệm lâu, nhưng vẫn không
ra ngoài những mục đích sau:
1 Tìm cách thiết thực làm cho tâm tánh con người được
trong sạch, hết sự lỗi lầm ở trong đời hiện tại, mà cũng tiêu trừ
những tội ác trong đời quá khứ.
2 Tìm cách phát triển những hạnh cao cả, noi theo những gương
mẫu sáng suốt của các bực Thánh Hiền.
Tóm lại, các pháp sám hối của đạo Phật, nếu thực hành
một cách đứng đắn, sẽ đem lại những kết quả quí báu sau đây:
- Làm phát triển tánh *thành thật;
- Trao dồi đức tánh cương quyết trong sự diệt trừ tánh xấu;
- Dứt được tội, sanh phước;
- Mau thắng đến chỗ giải thoát an vui.
Nhờ pháp sám hối của đạo Phật, con người có thể cải
hóa lòng mình tốt đẹp hơn. Nhờ pháp sám hối, con người có thể làm
cho đời sống cá nhân được hạnh phúc, và đời sống xã hội được hòa
bình, an lạc.
Vậy ai là người muốn lấ
鹠