- Học Phật bằng cách nào ?
- HT. Thích Thanh Từ
Hỏi học Phật bằng cách nào,
tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian môn học nào cũng có
phương pháp riêng của nó. Ví như môn toán học, người học trò trước
phải biết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng trừ nhơn
chia, lên nữa phải học công thức, phương trình v.v... Môn văn chương,
trước phải biết chữ cái, học ráp vần, viết chánh tả, học văn phạm,
tập cách làm văn v.v... Phương chi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà
không có phương pháp riêng của nó hay sao ?
Phương pháp học Phật tức là ba
môn Huệ học : Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Bởi vì muốn vào cửa giác
ngộ, không phải anh tướng trí huệ thì không sao vào được. Phật pháp
là chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn đuốc trí huệ soi
sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự vật ở chung quanh, không cần trí huệ,
chỉ dùng lòng tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật là sai
lầm lớn lao. Đây là chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời.
Cần chữa lành bệnh này. Chúng ta phải ứng dụng triệt để ba môn Huệ
học vào công trình tu học Phật pháp.
THẾ NÀO LÀ VĂN
HUỆ ?
Văn là nghe, do nghe giáo lý của Phật
pháp, trí huệ mở sáng, gọi là Văn huệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời
giảng dạy của chư tăng, của thiện hữu tri thức đã tu học trước ta.
Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trong đó
chứa toàn lời lẽ chơn chánh, chỉ bày mọi sự vật cho chúng sinh. Càng
nghe trí huệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúng ta trực tiếp đọc kinh sách Phật,
khiến mở mang trí huệ cũng thuộc Văn huệ. Chịu khó nghe giảng dạy, chịu
khó nghiên cứu kinh sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn huệ tiến
thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.
THẾ NÀO LÀ TƯ
HUỆ ?
Tư là suy xét phán đoán, do suy xét
phán đoán những lời dạy trong Phật pháp, trí huệ càng tăng trưởng. Chúng
ta được nghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong kinh Phật ra,
song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật. Buộc chúng ta phải
dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếu quả thật đúng, từ đó chúng ta
mới tin. Có thể, mới thực hành đúng câu "các người phải tự thắp
đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với chánh pháp", trong kinh Pháp
Cú. Chúng ta muốn mở mang trí huệ, song tự mình làm sao mở được, phải
mồi ngọn đuốc trí huệ của mình với ngọn đuốc chánh pháp của Phật,
trí huệ mới phát sáng.
MỒI BẰNG CÁCH
NÀO ?
Ví như chúng ta nghe vị Sư giảng rằng
: "Tất cả thế gian đều là vô thường". Sau đó phải dùng
trí huệ của mình phán đoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi
: tất cả thế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoài luật
lệ ấy chăng ? Nếu có, câu nói này chưa phải là chân lý. Bằng không, mới
thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi, ta tự khảo sát
:
Con người có phải vô thường không
? Từ ông bà đến cha mẹ chúng ta đều sanh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già
yếu, rồi chết. Kể luôn cả ta, khi nào còn nhỏ bé, lớn lên, bệnh hoạn,
già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộc chúng ta đã thế,
ngoài xã hội cũng thế, cả nhơn loại trên thế giới cũng thế; ngàn xưa
là thế, mãi sau này cũng thế. Quả là con người vô thường.
Đến những sự vật, nào nhà cửa,
bàn ghết, xe cộ v.v... có bị vô thường không ? Chính cái nhà của mình,
khi mới cất thì tốt đẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến
năm mười năm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng xem bóng
loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơn khờn mặt, rồi đây
sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới toanh, chạy
được một năm võ đã rách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ
hư. Thế là, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần dùng bên cạnh
chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trăm ngàn vật khác, nếu
khảo sát đều thấy đồng một số phận như nhau.
Chúng ta có thể kết luận rằng :
"Tất cả thế gian là vô thường", quả thực là chân lý. Ta
tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi, cũng không làm lay động được lòng
tin của ta. Bởi lòng tin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó
vững chắc không dễ gì lung lay.
Lại một thí dụ, chúng ta nghe vị
Sư giảng lý luân hồi, bảo rằng : "Muôn vật ở thế gian đều
xoay quanh vòng luân hồi". Ta tự đặt câu hỏi : Tại sao muôn vật
đều luân hồi ? Có vật nào không luân hồi chăng ? Chúng ta bắt đầu xét
từ thực vật :
Cây cối thành hình bắt nguồn từ
hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, nở hoa, kết trái; trái sanh hạt,
hạt lại nẩy mầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là sự lộn
đi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân cây ấy có đảo lộn
vậy không ? Cũng lộn đi đảo lại như thế. Thân cây hiện sống đây, do
châm rễ hút đất nước... nuôi dưỡng mới được sinh trưởng, dần dần
thành đại thọ. Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng
biến thành phân đất, càng gãy mục cũng thành phân đất, thân cây ngã gục
cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đất nước sinh trưởng, khi ngã
mục lại trở về đất nước.
Nước do ánh nắng bốc thành hơi,
hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống thành nước, nước lại
bốc hơi... mãi mãi không cùng.
To như quả địa cầu vẫn quay tròn
quanh cái trục, sáng rồi tối, tối lại sáng. Căn cứ vào sự quay tròn của
nó, người ta chia ra ngày, giờ, tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông,
xoay vần thế mãi không cùng.
Do sự khảo sát trên, chúng ta khẳng
định rằng "muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi"
là sự thật không còn gì phải nghi ngờ.
Trên đây tạm cử vài ví dụ làm
căn bản cho công cuộc suy xét phán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây,
chúng ta phán xét những lời Phật dạy, hoặc chư Tăng dạy trong những
trường hợp khác. Có thể, mới phân biệt được chánh tà và mới đúng
tinh thần người học Phật.
THẾ NÀO LÀ TU
HUỆ ?
Sau khi phán xét lời Phật dạy là
đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hàng ngày của mình, khiến
chánh lý càng bày hiện sáng tỏ, là tu huệ. Ví như, biết rõ "Tất
cả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng sự vô thường vào
đời sống mình, trong những trường hợp như sau :
Đã biết rõ thế gian là vô thường,
khi gặp vô thường đến với bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ
bình tỉnh không hốt hoảng sợ hãi. Vì biết chắc điều đó ở thế gian
không ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vô ích. Bởi
không sợ nên tâm ta bình tỉnh sáng suốt, giải quyết mọi việc một
cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải cho những người
đồng cảnh ngộ bớt đau khổ.
Biết rõ thế gian là vô thường, mọi
sự tranh giành danh lợi, tài sắc... lòng ta nguôi lạnh. Tranh giành những
thứ bạm bợ ấy làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau khổ cho
người, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng. Lòng tham lam giành
giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.
Do thấy rõ lẽ vô thường, chúng
ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu
cơn vô thường đến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm được. Lại
biết quý tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lại được, phải
cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người, không thể chần chờ.
Đó là ba trường hợp do biết
"thế gian vô thường", chúng ta khéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống
hiện tại của mình. Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng
trưởng. Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt, nên gọi
là "Tu huệ".
Ví dụ khác, chúng ta nhận rõ
"muôn vật luân hồi", liền ứng dụng lý luân hồi vào cuộc sống
của mình. Nếu phải luân hồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp,
an ổn hơn. Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt, nẩy mầm, sinh trưởng
thành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... chúng ta nên chọn lựa
hạt tốt giống ngon đem ương. Để sau này kết quả ngon, cho ta và mọi người
được tthưởng thức vị ngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta
cũng không thoát khỏi, ta cần tạo những nhơn tốt, nhơn an vui, để mai
kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.
Đã biết muôn vật luân hồi,
chúng ta phải tìm xem nguyên nhân nào lôi cuốn vào trong ấy. Biết rõ
nguyên nhân rồi, phải tìm cách thoát ra ngoài vòng luân hồi. Không đầu hàng
khuất phục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như các nhà khoa học
nghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cách chế phi thuyền
đủ sức mạnh vượt ra ngoài vòng hút của quả đất, đi thẳng vào quỹ
đạo v.v... Biết luân hồi để tìm cách thoát ra, chính là tinh thần
"Tu huệ".
Văn huệ, Tư huệ rất cần thiết,
song tu huệ lại càng quan trọng hơn. Nếu có văn huệ, tư huệ mà thiếu
tu huệ thì chỉ là huệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống
con người. Nhờ tu huệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trên
và giúp cho văn, tư được kết quả viên mãn.
Vì thế, Đức Phật dạy hàng Phật
tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni rồi cần phải thưa
hỏi Phật pháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phải phán
xét, phán xét rồi phải tiến tu. Được vậy mới đúng tinh thần Phật tử
(Phỏng theo bài kinh Ma Ha Nam trong Tạp An Hàm). Bồ Tát Quán Thế Âm cũng trình
với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngài gặp Phật dạy tu phương pháp văn,
tư, tu được vào chánh định và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm).
Chính trong giới Bồ Tát, Phật cũng dạy "dù ở xa trăm ngàn dặm, nghe
có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ Tát cũng phải mang
kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quả nhiên Đức Phật không chấp
nhận đệ tử tu hành tối dốt, phải đầy đủ ba môn Huệ học, mới xứng
là đệ tử của Ngài.
Ba môn Huệ học này hoàn toàn
thích hợp với tinh thần khoa học hiện nay. Bất luận môn học nào, trước
tiên học lý thuyết, kế phê bình lý thuyết, sau thí nghiệm hay thực hành
lý thuyết. Lý thuyết tức là văn huệ; phê bình tức là tư huệ, thí nghiệm
tức là tu huệ. Có như vậy môn học mới tiến bộ và phát minh những điều
mới lạ.
Tuy nhiên về mục tiêu chính yếu
Phật học vẫn khác khoa học. Khoa học cốt phát minh mọi sự thật của
ngoại giới, chinh phục giành quyền làm chủ thiên nhiên, bắt thiên nhiên
làm theo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi dào sung túc cho nhơn
loại. Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình, gạn lọc đào thải những
tâm thức nhơ xấu, kiến tạo một tâm hồn trong sáng an vui tự tại. Bởi
khoa học gây tạo điều kiện vật chất dồi dào, nên con người dễ tranh
đua giành giật kình chống lẫn nhau, Phật học cốt xây dựng tâm hồn
trong sáng, nên người biết tu theo, lòng sẽ mở rộng thương yêu bảo học
lẫn nhau.
Vì thế, ba môn Huệ học đều đặt
căn cứ trên nguyên tắc "xem lại chính mình". Nắm vững nguyên tắc
này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận định phán xét không bị sai lầm.
Chân thành cảm ơn Hải
Hạnh đã phát tâm đánh phiên bản điện tử. ĐPNN, 24-9-2000