- Chánh Giác Tông (Buddhavamsa)
Hòa Thượng
Bửu Chơn
TIỂU TỰA
Người tu Phật ai ai cũng có đức
tin, nhưng nếu không rõ được rành mạch những lịch sử hoặc những
hành vi của các vị Bồ tát phải hành thế nào để thành được một bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác và do nhờ pháp Ba-la-mật (PÀRAMITA) nào đưa các
ngài qua tới bờ giác ngạn là Niết Bàn, thì đức tin ấy có khi cũng mơ
hồ và có khi cũng lầm lạc.
Vì vậy nên tôi không nệ tài hèn
học kém, ráng sao lục tóm tắt theo Tam Tạng Pàli (TIPITAKA) bộ kinh Chánh
giác tông (BUDDHAVAMSA) và quyển Chư Bồ tát vị lai (ANÀGATAVAMSA) để đem lại
một vài tia sáng cho các nhà tu Phật. Ai là người có chí muốn thành một
bậc Chánh Biến Tri, hãy noi theo gương lành của các Ngài và thực hành
theo mới mong chứng quả được.
Trong quyển kinh này có nhiều đoạn
hơi khó hiểu hoặc không thể tin được vì oai lực và pháp Ba-la-mật của
một vi Phật Tổ khác Thường xuất chúng và thời đại cũng khác nhau vượt
qua khỏi trình độ suy nghĩ hoặc hiểu biết của phàm nhơn.
Nên độc giả xem quyển kinh này
nên dùng đức tin mà hiểu biết rằng: "Muốn thành 1 vị Phật Tổ
không phải dễ, không phải ai cũng muốn được, và không phải chuyện bịa
đặt ra, mà trái lại phải thực hành cho đúng theo thời hạn và điều kiện
nhất định và tròng đủ pháp Ba-la-mật mới thành một vi Phật Tổ được."
Với lòng Bác ái,
NÀGA THERA (Tỳ Khưu Bửu Chơn),
Đà Nẳng 1954.
- -ooOoo-
- [01]
- CHÁNH GIÁC TÔNG
NAMATTHU RATANA TAYASSA
Xin nghiêm Thân, Khẩu, Ý trong sạch để làm lễ Tam Bảo.
NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO
SAMMÀSAMBUDDHASSA (3 lần)
Tôi xin thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc A-la-hán Vô thượng,
đã đắc quả Chánh Biến Tri, Tam-miệu Tam-bồ-đề.
PHẬT NGÔN
DHAMMO HAVE RAKKHATI DHAMACÀRIM
DHAMMO SUCINNO SUKHAMÀ VAHATI ESÀNISAMSO
DHAMMESUCINNE NA SUGGATIM GACCHATI DHAMMACÀRÌ
Người thực hành theo Pháp Bảo,
thì Pháp Bảo hộ trì.
Người hằng tích trử Pháp lành thì được đến sự an vui và lợi ích .
Người thực hành theo Pháp Bảo, thì không sanh vào cảnh khổ.
THẬP ĐỘ BA-LA-MẬT
Trước khi giải về pháp Chánh
giác tông tôi xin giải tóm tắt về pháp Thập Độ tín dụng (DASAPÀRAMÌ)
là pháp của chư Bồ-tát (chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh; BODHISATTA)
quá khứ, vị lai và hiện tại nguyện thành một bậc Chánh Biến Tri
(SAMMÀ SAMBUDDHA) đều phải thực hành theo cho tròn đủ và cho đúng thời kỳ
nhất định mới chứng quả vị được.
DASAPARÀMÌ: Mười pháp Ba-la-mật
hay Thập Độ là:
1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí Ba-la-mật (Đáo bỉ ngạn
tới bờ bên kia Niết Bàn).
2. SÌLA PÀRAMÌ: Trì giới Ba-la-mật.
3. NEKKHAMMA PÀRAMÌ: Xuất gia Ba-la-mật
4. PANNÀ PÀRAMÌ: Trí tuệ Ba-la-mật
5. KHANTÌ PÀRAMÌ: Nhẫn nhục Ba-la-mật
6. VIRIYA PÀRAMÌ: Tinh tấn Ba-la-mật
7. SACCA PÀRAMÌ: Chân chánh Ba-la-mật
8. ADHITTHÀNA PÀRAMÌ: Nguyện vọng Ba-la-mật
9. METTA PÀRAMÌ: Bác ái Ba-la-mật.
10. UPEKKHÀ PÀRAMÌ: Xả Ba-la-mật
Trong mỗi pháp trên đây đều chia
làm 3 bực là: hạ, trung, thượng, thành ra 30 pháp. Mỗi pháp chia làm 3 bực
là:
1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí bực hạ.
KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ PUTTA DÀRASSA PARICÀGO
DÀNA PÀRAMÌ NÀMA.
Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh vì
lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí của cải, vợ, con, gọi
là bố thí Ba-la-mật bậc hạ.
2. DÀNA UPPA PÀRAMÌ: Bố thí bậc
trung.
KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ ANGA PARICÀGO DÀNA
UPPAPÀRAMÌ NÀMA.
Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh vì
lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí tay, chân, thịt, mắt,
mũi, mình gọi là bố thí Ba-la-mật bậc trung.
3. DÀNA PARAMATTHA PÀRAMI: Bố thí bậc
thượng.
KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ JIVITA PÀRICÀGO DÀNA
PARAMATTHA PÀRAMÌ NÀMA.
Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh
lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí mạng sống (là cắt đầu
hoặc mỗ lấy tim mình mà cho kẻ khác) gọi là bố thí Ba-la-mật bậc thượng.
Còn 9 pháp kia khi thực hành cũng
mường tượng như trên.
Chỗ nói đúng thời kỳ nhất định
là: Phải biết chư Bồ-tát (là chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh, chớ
không ai gọi là Phật Bồ-tát bao giờ), chia làm 3 bậc:
1- PANNÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về huệ
lực, phải tu trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu.
2- SADDHÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về
tín lực là có nhiều đức tin, phải tu trong 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại
kiếp.
3- VIRIYÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về tấn
lực và nhiều sự tinh tấn, phải tu trong 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp
quả địa cầu.
Nói về sự nguyện vọng của mỗi
vị Bồ-tát chia ra làm 3 thời kỳ:
1. Chư Bồ-tát thuộc về Huệ lực:
a. Thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời,
là 7 A-tăng-kỳ.
b. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ ký là 9 A-tăng-kỳ
.
c. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành tròn đủ 30 pháp
Ba-la-mật và thành đạo là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
2. Chư Bồ-tát thuộc về Tín lực:
a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 14 A-tăng-kỳ
b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp Đức Phật thọ ký
là 8 A-tăng-kỳ.
c. Thời kỳ gặp một vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày thành đạo quả
là 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
3. Chư Bồ-tát thuộc về Tấn lực:
a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 28 A-tăng-kỳ.
b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp một vi Phật thọ ký
là 36 A-tăng-kỳ .
c. Thời kỳ gặp 1 vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày thành đạo quả là
16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
-oOo-
Tất cả chư Bồ-tát trên đây nếu
nói tóm lại thì chỉ còn có hai bậc là:
1/ ANIYATA BODHISATTA: Bất Thường Bồ-tát là chư
Bồ-tát chưa thành tựu được nguyện vọng, là chư Bồ-tát nào đã nguyện
trong tâm hoặc nói ra nhưng mà chưa gặp được một vị Phật tổ nào thọ
ký cho thì chưa chắc sẽ thành một bậc Chánh giác được.
2 / NIYATA BODHISATTA: Thường trụ Bồ-tát là chư
Bồ-tát đã thành tựu được nguyện vọng là Bồ-tát đã được truyền
hoặc một vị Phật tổ thọ ký, chắc chắn sẽ thành Chánh giác trong
ngày vị lai.
-oOo-
SAMODHÀNA DHAMMA: 8 pháp tròn đủ.
Chư Bồ-tát phải có tròn đủ 8 pháp:
1- MANUSSATTAM: Phải là loài người chớ không phải
trời hay thú.
2- LINGA SAMPATTI: Phải là nam nhơn chớ không phải
là phụ nữ hay là bán nam bán nữ.
3- HETU: Có đủ duyên lành để đắc quả Alahán
trong kiếp ấy (ví dụ như đạo sĩ Sumedha là Bồ-tát tiền thân Phật tổ
Thích Ca)
4- SATTHÀRA DASSANAM: Gặp được Đức Phật ra đời
và được làm một điều phước thiện nào tới Đức Phật ấy.
5- PABBAJJÀ: Phải là người xuất gia.
6- GUNA SAMPATTI: Phải đầy đủ những pháp của
bậc cao nhơn là có ngũ thông và bát thiền.
7- ADHIKARO: Đã được làm phước báu cao thượng
là bố thí mạng sống mình và vợ con mình do tâm nguyện cho thành Chánh
giác.
8- CHANDATÀ: Phải có ý nguyện đầy đủ quyết
cho thành một bậc Chánh giác dầu cho khó khăn, khổ sở thế nào cũng không
nao núng và thối chuyển.
Chư Bồ-tát nào có tròn đủ 8 pháp
trên đây, thì mới được chư Phật thọ ký cho và từ ấy mới gọi là
NIYATA BODHISATTA, là Bồ-tát chắc chắn sẽ thành Chánh giác không sai.
-oOo-
BUDDHA BHÙMI: 4 Pháp căn cứ của chư Bồ-tát đã được thọ ký.
1) USSÀHA: Rất siêng năng dõng mãnh trong sự làm
điều thiện.
2) UMMAGGA: Có trí tuệ phân biệt thiện ác, để
xa lánh điều dữ và hành theo điều lành.
3) AVATTHANA: Có chí quả quyết và cứng rắn là
khi đã làm một điều thiện nào không hề thối chuyển và ráng làm cho tới
thành tựu.
4) HITACARIYÀ: Khi làm một việc nào toàn là việc
hữu ích cho mình và cho kẻ khác.
Chư Bồ-tát đã được thọ ký một khi làm một
việc chi đều lấy 4 pháp trên để làm căn cứ cho tâm mình.
-oOo-
AJJHÀSAYA: 6 khuynh huớng của Bồ-tát
Chư Bồ-tát đã được thọ ký đều
có 6 khuynh hướng.
1) ALOBHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không tham, và
luôn luôn có tác ý muốn dứt bỏ của cải mình để làm việc hữu ích
cho kẻ khác.
2) ADOSAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không sân, và
luôn luôn có tâm từ bi đối với kẻ khác.
3) AMOHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không si, và có
trí tuệ suy xét rõ rệt rồi mới tin.
4) NEKKHAMMAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn xuất
gia, và có ý dứt bỏ các sự quyến luyến.
5) PAVIVEKAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng ở nơi thanh vắng,
và có ý muốn xa lánh các bè bạn và nơi hội hợp đông đảo.
6) NISSARANAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn giải
thoát khỏi ái dục, phiền não và sự khổ não của cõi thế gian.
Chư Bồ-tát đã được thọ ký rồi
thì luôn luôn có những tư cách và nết hạnh đã kể trên.
-oOo-
ACCHARIYA DHAMMA: 7 pháp xuất chúng của chư Bồ-tát đã được thọ ký.
1) PÀPPATIKUTHA CITTO: Có tâm gớm ghê điều xất
xa tội lỗi, là tâm của Bồ-tát đã được thọ ký rồi thì hổ thenï
và ghê sợ điều tội lỗi cũng như người bị phỏng lửa thấy lửa ghê
sợ vậy.
2) PASÀRANA CITTO: Có tâm vui thích theo điều thiện,
là tâm của Bồ-tát lúc nào cũng vui tươi thỏa thích đến điều lành việc
phải, một khi đã làm điều thiện nào thì sốt sắng vui vẻ làm cho đến
khi được thành tựu không bao giờ bỏ dỡ.
3) ADHIMUTTA KÀLAKIRIYÀ: Tâm nguyện ngưng tuổi thọ
đã nhứt định, là khi Bồ-tát sanh về cõi trời làm cho ngưng trệ sự tạo
pháp Ba-la-mật để độ chúng sanh ở thế gian, ngài bèn nguyện cho tuổi
thọ ở cõi trời ấy cho giảm đi để sanh xuống trần gian độ đời, liền
khi ấy tuổi thọ giảm bớt và sanh liền xuống cõi thế gian.
4) VISESAJANATTAM: Là một bậc khác thường hơn tất
cả chúng sanh khi ở trong bụng mẹ, vì tất cả chúng sanh khi ở trong bụng
mẹ thì ngồi chồm hổm, hai tay nằm lại đở càm, mặt day vào lưng mẹ,
đầu đội đồ mẹ mới ăn vào, mình ngồi trên vật thực cũ dơ dáy gớm
ghê, còn Bồ-tát thì ở trong bụng mẹ rất sạch sẽ, mặt day ra phiá trước
ngồi xếp bằng như vị pháp sư.
5) TIKÀLANNÙ: Có sự nghi nhớ và biết rõ 3 thời
kỳ, khi kiếp chót sẽ thành đạo thì: khi đầu thai vào lòng mẹ, biết
rõ ta đầu thai vào lòng mẹ, khi ở trong bụng mẹ cũng biết rõ đương
ở trong bụng mẹ, lúc sanh ra khỏi lòng biết rõ đương sanh ra khỏi lòng.
Còn chư Phật Độc Giác và hai Thượng Thinh văn thì chỉ biết trong hai thời
kỳ, trừ lúc ra khỏi lòng mẹ thì không biết, còn 80 vị đại A-la-hán
thì chỉ biết có một thời kỳ là lúc vào thai bào mà thôi.
6) PASÙTIKÀLO: Khi sanh ra thì Phật mẫu đứng
sanh. Lúc ấy Bồ-tát xuôi hai tay xuống và tuột ra, cũng như vị pháp sư từ
trên pháp tọa đi xuống vậy.
7) MASSUNA JATIYO: sanh ra trong loài người là tất
cả chư Bồ-tát khi kiếp cuối cùng sẽ thành Chánh Giác thì sanh ra làm người,
chớ không phải trời hoặc là súc sanh. Nếu sanh làm trời mà thành đạo
thì loài người lại thối thoát kiếm cớ cho là trời mới tu thành Phật
được, còn nếu sanh làm súc sanh thì loài người cho thấp hèn hơn mình cũng
không chịu tu theo, nên chư Bồ-tát mới sanh ra làm người để độ chư
thiên, loài người và súc sanh cũng được. Hơn nữa khi làm người lúc nhập
Niết Bàn mới có Xá Lợi lại cho chư thiên và nhân loại lễ bái cúng dường.
7 pháp trên đây là xuất chúng (lạ
thường) của chư Bồ-tát đã được thọ ký.
Tất cả chư Bồ-tát đã giải
trên đây đều phải thực hành theo 10 pháp Ba-la-mật đúng theo khuôn khổ
nhất định của thời kỳ và đã được một vị Phật tổ thọ ký, tiên
tri cho biết trước rằng còn bao nhiêu năm, tháng, ngày v..v... sẽ thành
môt vị Phật tổ, chừng ấy mới gọi là "Thường trụ Bồ-tát"
và thế nào cũng đắc quả Chánh Biến Tri "A-nậu-la tam-miệu tam-bồ-đề"
không sai vậy.
-oOo-
GIẢI VỀ A-TĂNG-KỲ: ASANKHÀYA
Một hôm có vị Tỳ khưu bạch với
Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, 1 A-tăng-kỳ là bao lâu? Phật giải
rằng: Không thể nói là bao nhiêu năm được, chỉ ví dụ cho hiểu thôi.
Theo trong Tam tạng (quyển 32 chương
86): Ví dụ như có 1 khối đá vuông vức 1 do tuần (16 cây số) trong 1 trăm
năm có 1 vị Chư thiên xuống, lấy tấm lụa thật mõng quét khối đá ấy,
rồi cách một trăm năm sau cũng quét như thế, cho tới khi nào khối đá
ấy bằng mặt đất thì mới gọi là 1 A-tăng-kỳ. Hoặc ví dụ như 1 cái
thùng vuông vức 1 do tuần đầy hột cải, trong 1 trăm năm mới có 1 vị Chư
thiên tới lấy ra 1 hột, rồi cách 1 trăm năm sau lấy ra 1 hột nữa, lần
lượt như thế cho đến khi lấy hết những hột cải trong thùng ấy mới
gọi là A-tăng-kỳ.
Hay là viết 1 con số 1 rồi thêm
140 con số không (zéros) nữa cũng gọi là 1 A-tăng-kỳ, đây là A-tăng-kỳ
của kiếp trái đất chớ không phải làm năm.
KIẾP (KAPPA): 1 thời gian
Chổ nói kiếp có 4 là : Thành, Trụ,
Hoại, Không
1) Bắt đầu từ khi quả địa cầu cấu tạo đầu
tiên như bọt nước rồi dần dần đặc lại như bột và cứng như đất
thật lâu, không thể kể là bao nhiêu năm tháng nhưng chưa có ai ở (sanh)
trên mặt địa cầu gọi là kiếp Thành.
2) Bắt đầu từ khi có 1 người đầu tiên sanh
vào quả địa cầu cho tới khi người ta sanh ra vô số như hiện nay gọi là
kiếp Trụ.
3) Bắt đầu từ khi trên mặt địa cầu không
còn ai ở (sanh) nữa cho tới khi nước bể cả khô khan vì sức nóng của
ánh thái dương rồi cháy luôn quả địa cầu đi gọi là kiếp Hoại.
4) Bắt đầu từ khi quả địa cầu đã tiêu hoại
chỉ còn khí hư, u u, minh minh, không không vô cùng vô tận tạo nên quả địa
cầu khác gọi là kiếp Không.
4 kiếp kể trên đây nhập lại
thành 1 đại kiếp, mà chư Bồ-tát phải thực hành pháp Ba-la-mật cho đúng
thời kỳ nhất định của những đại kiếp ấy.
-ooOoo-
- [02]
- NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ GIẢI THÍCH VỀ CHÁNH GIÁC
TÔNG
Một hôm đại đức Xá Lợi
Phất ở trên núi Kỳ xà quất (GIJJHAKUTA) tại xứ Vương Xá (RAJÀGAHA)
cùng 560 vị Tỳ khưu đều là bậc A-la-hán cả, thấy Đức Phật đang dùng
phép thần thông hoá đường đi kinh hành bằng ngọc trên hư không gần
thành Xá Vệ (KAPILAVASSU), trong người Phật phóng hào quang 6 màu sáng ngời
rực rỡ, có cả Chư thiên và Phạm thiên trong 10 ngàn thế giới ta bà
đang chầu chực tại chổ Đức Phật đi kinh hành.
Đại đức Xá Lợi Phất nghĩ rằng:
Đức Phật vô cùng oai hùng và cao thượng hơn tất cả Chư thiên và Phạm
Thiên, không biết oai lực quý báu của chư Phật quá khứ ra sao? Ông bèn mời
500 vị A-la-hán cùng đi với ông đến xin Đức Phật giảng giải cho biết
oai lực của chư Phật quá khứ, liền khi ấy 500 vị A-la-hán cùng ông
dùng thần thông bay tới chổ Đức Phật đi kinh hành và bạch với Đức
Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, xin ngài mở lòng bác ái giảng giải về
oai lực của chư Phật quá khứ để đem lại đức tin và sự lợi ích cho
tất cả Chư thiên và nhân loại... Tùy lời hỏi, Đức Thế Tôn bèn giảng
như sau:
28 VỊ PHẬT QUÁ KHỨ
Đức Phật giảng rằng: Nầy Xá Lợi
Phất! Trong một thời gian quá khứ, trải qua 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức
Phật nào ra đời tế độ sanh linh, môt hôm có 1 ngưới lái thuyền tên
MÀTUDÀRA MÀNAVA bị thuyền đắm giũa bể khơi, y rán sức cõng mẹ trên lưng
lội dưới bể trong 7 ngày, mặc dầu mệt nhọc vô cùng, vẫn can đảm hy
sinh vì mẹ, làm cảm động một vị Đại phạm thiên. Ngài bèn xuôi khiến
cho người lái thuyền phát tâm trong sạch nguyện thành môt bực Chánh Giác
để độ chúng sanh thoát khỏi sông mê bể khổ. Từ đó người lái thuyền
trở thành 1 vị Bồ-tát, để tập sự nguyện trong tâm trọn 7 A-tăng-kỳ
rồi phát nguyện bằng lời nói, tu tập thêm 9 A-tăng-kỳ cho tới khi gặp
Đức Phật Nhiên Đăng (DIPANKÀRA) thọ ký và tiên tri cho biết rằng còn 4
A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu nữa sẽ thành một vị
Chánh Đảng Chánh Giác tên GOTAMA. Đức Bồ-tát trên đây là tiềân thân
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà chúng ta đang học và hành theo giáo lý của
ngài vậy.
CHUYỆN BỒ-TÁT THÍ SINH MẠNG
Có 1 kiếp Bồ-tát tu làm đạo sĩ,
cùng 500 học trò ẩn tu nơi rừng núi. Một hôm ngài ra mé núi thấy dưới
hố sâu có con cọp mẹ gầy ốm, đương dợm ăn cho con đỏ đói. Vị đạo
sĩ thấy vậy động lòng thương xót, liền kiếm cớ biểu học trò về, rồi
ngài gieo mình xuống hố, thí thân cho cọp mẹ ăn. Khi người học trò lớn
trở lại kiếm, biết thần mình đã bố thí thân mạng cho cọp ăn, cũng
nhảy theo xuống hố làm mồi cho cọp. Người học trò ấy tức là Đức
Phật Di Lặc trong ngày vị lai.
Cách đây độ 20 A-tăng-kỳ, có 1
người em gái của Đức Phật PURÀNA DIPANKÀRA, có lòng trong sạch đem dầu
cúng dường Phật, rồi nguyện thành 1 vị Chánh giác và xin Phật thọ ký
cho. Phật giải rằng: vì em là phụ nữ nên không thể nguyện thành Phật
được, chờ 16 A-tăng-kỳ nữa em sẽ thành đàn ông rồi chừng ấy sẽ
có Phật thọ ký cho.
Nhân đó Đức Phật mới giảng cho
các thầy Tỳ khưu nghe 4 điều khó là:
1- Khó sanh được làm người.
2- Phụ nữ khó sanh làm nam nhân.
3- Làm nam nhân khó được xuất gia.
4- Khó gặp Phật ra đời.
Khó gặp Đức Phật ra đời, vì muốn
nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ
như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví
như mãnh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt
cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn mình hoặc chạy
vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ
xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu mình mà bố thí nhiều
hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt mình bố thí nhiều hơn
sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất
định thì mới mong thành 1 vị Phật Tổ được.
Còn phụ nữ khó sanh làm nam nhân,
vì phải có nhiều duyên lành phước báu mới có thể sanh làm đàn ông
được, phụ nữ không thể nào nguyện thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác,
Độc giác Phật, hoặc là Chuyển Luân Vương Bồ-tát được. Phụ nữ muốn
sanh làm nam nhân phải rán tu hành tinh tấn, thọ trì ngụ giới, bát quan
trai giới hoặc xuất gia trọn đời xa lánh tình dục, gìn vẹn trinh tiết,
rồi nguyện cho thành nam giới.
Khó sanh làm người, vì phải tạo
nhiều phước báu cao thượng, mà chúng sanh lại ưa làm tội hơn làm phước,
bởi tội dễ làm hơn phước. Trong kinh có câu: Vạn kiếp nan sanh đắc cá
nhân - Muôn kiếp khó sanh được làm người.
Khi được phước lành cấu tạo
sanh ra đàn ông thì lại quên căn lành, say đắm theo ngũ trần lục dục,
quyến luyến theo vợ con gia đình nên khó mà ly gia cắt ái để xuất gia
tu hành cho được.
-oOo-
CÁC VỊ PHẬT THỜI QUÁ KHỨ
Đức Thích Ca Mâu Ni giảng giải
cho Đại đức Xá Lợi Phất rằng: cách đây 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại
kiếp có 4 Đức Phật tổ nối tiếp ra đời trong quả địa cầu. Vị Phật
thứ nhất là TANHANKARA, ngài tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, đắc
đạo dưới gốc cây bông sứ, sau 7 ngày hành đạo, tuổi thọ 10 muôn năm.
Vị Phật tổ thứ 2 tên MEDHANKARA,
tu 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, hành đạo trong nữa tháng đắc đạo
quả, dưới cây Vông đồng, tuổi thọ 9 muôn năm.
Vị Phật tổ thứ 3 tên SARANANKARA,
tu 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, hành đạo trong 1 tháng, đắc đạo
quả, dưới cây cẩm lai. Tuổi thọ lúc ngài còn ở thế gian là 7 ngàn năm,
tuổi thiệt không rõ là bao nhiêu vì trong kinh không thất nói tới.
Bồ-tát tiền thân Phật tổ Thích
Ca sanh ra đều có gặp 3 vị Phật tổ trên đây, nhưng chưa đuợc lời tiên
tri của vị nào thọ ký cho.
-oOo-
Vị Phật tổ thứ 4 tên DIPANKÀRA
ra đời, tại xứ RAMMAVATÌ, cha ngài tên ATISARASUDEVA, mẹ tên SUMEDHÀ, vợ
tên PADUMÀ, con trai tên USABHAKHANDHA, lúc còn ở thế có 3 muôn cô hầu.
Một hôm đi dạo ngoài thành thị
thấy 4 điềm là: người bịnh, già, chết và người tu rồi chán nản xuất
gia hành đạo trong 7 ngày, đắc đạo dưới cây sơn, tuổi thọ 10 muôn
nam, 40 muôn Thinh Văn đệ tử của ngài đều đắc lục thông, luôn luôn
theo hầu ngài.
Đại đức SUMANGALA là Thượng
thinh văn phía mặt, Đại đức MAHATISSA là Thượng thinh văn phía trái. Tỳ
khư ni NANDÀ là nữ Thượng thinh văn bên mặt. Tỳ khưu ni SUNANDÀ là nữ
Thượng thinh văn bên trái. Đại đức SAGATA là đệ tử hầu hạ luôn theo
Phật. Có hai đại thiện nam là TAPUSSA và BHALLIKA, và hai đại tín nữ là
SIRIMÀ và SONÀ. Phật cao 40 thước tây (80 hắc tay), có 32 tướng tốt và
80 tướng phụ. Ngài độ Chư thiên và nhân loại đắc đạo quả Niết Bàn
vô số kể.
Khi đúng tuổi thọ, ngài nhập Niết
Bàn tại chùa NANDÀRÀMA. Người ta làm một bảo tháp cao 36 do tuần để thờ
xá lợi ngài, và một bảo tháp nữa thờ 8 món cần thiết của ngài như :
3 lá y, 1 bát, 1 sợi dây lưng, 1 bình lọc nước, 1 con dao nhỏ để cạo tóc
hoặc cắt móng tay, và 1 ống đựng kim tại cây sơn chổ ngài thành đạo.
Ngài thuộc dòng vua, tu 16 A-tăng-kỳ
và 100 ngàn đại kiếp trái đất.
Sau khi nhập diệt rồi, giáo pháp
ngài lưu truyền được 100.000 năm. Bảo tọa chỗ ngài thành đạo bề cao
26 thước (53 hắc tay).
Thuở ấy đức Bồ-tát SUMEDHÀ, tiền
thân của Phật Thích Ca, sanh làm con của một đại phú bà-la-môn. Khi cha mẹ
qua đời, Bồ-tát thừa hưởng một gia tài tích trữ 7 đời. Thấy của cải
vô số, Bồ-tát bèn suy nghĩ: "Ông bà, cha mẹ ta dày công lập ra một
sự nghiệp đồ sộ, mà khi lâm chung chẳng một ai đem theo một đồng một
cắt nào, của thế đành để lại cho thế gian. Ta đây cũng vậy, một ngày
kia rồi cũng chết để lại của cải này. Rất uổng công tìm kiếm miên
trường, thà đem của cải này làm việc phước thiện gieo trồng âm đức
cho kiếp vị lai". Nghĩ xong, bèn vào tâu vua, xin đem hết tài sản ra bố
thí cho người nghèo khó, rồi xuất gia vào non tuyết lãnh cố công tu
hành, không bao lâu đắc được các cõi thiền luôn cả các pháp.
Khi Phật Nhiên Đăng (DIPANKARA) ra đời,
và thừa dịp dân chúng trong xứ RAMMAVATI sửa sang đường xá để thỉnh
Đức Phật và 40 muôn tăng chúng quang lâm đến chùa SUDASSANA MAHÀVIHÀRA dự
lễ trai tăng, đức Bồ-tát bay đến xin lãnh một phần công việc. Biết Bồ-tát
có nhiều thần thông dân chúng bèn lựa những chổ khó khăn, hư hỏng đầy
những bùn lầy, đạo sĩ vẫn vui lòng lãnh lấy vì nghĩ rằng nếu ta dùng
thần thông mà làm công việc thì không mấy gì được phước nhiều, vậy
ta nên dùng sức lực mới có công đức nhiều hơn. Nghĩ xong Bồ-tát bèn
ra công lấp đường, cặm cụi làm mãi, đến giờ Đức Phật và chư tăng
ngự tới thì còn một khoảng chưa xong. Trong thấy 32 tướng tốt và 80 phụ
tướng, hào quang sáng rỡ của Đức Phật, Bồ-tát bèn phát tâm trong sạch
nghĩ rằng: lúc này là lúc ta nên bố thí mạng sống ta cho Đức Phật và
chư tăng. Nghĩ rồi liền nằm chổ khoảng đường làm chưa xong và bạch với
đức Phật xin bố thí thân mạng cho ngài và Chư tăng đi trên mình và nguyện
thành 1 vị Phật tổ trong ngày vị lai để tế độ chúng sanh qua khỏi
sông mê bể khổ.
Lúc ấy Đức Phật DIPANKÀRA ngự tới
đứng trước đầu đạo sĩ SUMEDHA, thọ ký và tiên tri cho rằng, vị đạo
sĩ nguyện bố thí thân cho Như Lai đây, sau này trong 4 A-tăng-kỳ và 100
ngàn đại kiếp nữa sẽ thành một vị Phật tổ tên là GOTAMA, tại xứ
Ca bì la vệ (Kapilavattu) cha tên SUDHODANA, mẹ tên MAYA,v.v... sẽ hành đạo
trong 6 năm mới thành chánh quả dưới cội cây bồ đề. Khi Bồ-tát được
nghe lời thọ ký của Đ?c Phật Nhiên Đăng, ngài bèn lấy 8 cành hoa cúng
cúng dường cùng chư tăng đi chung quanh mình Bồ-tát, chư thiên cùng dân
chúng cũng cúng dường rất long trọng.
Sau khi Đức Phật DIPANKÀRA nhập diệt
rồi, một thời gian 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
-oOo-
Kế đó Đức Phật KONDANNA đã tu
16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, giáng sanh tại xứ RAMMAVATI, cha tên
SUNANDA mẹ tên SUJÀTÀ, giòng vua, khi ngài cuất gia đi bằng xe có cả trăm
triệu đòng xuất gia đi theo ngài hành đạo trong 10 tháng đắc đạo dưới
gốc cây thị bảo tọa bề cao 26 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao Phật
44 thước.
Đại đức ANURUDDHA là đệ tử hầu
hạ bên cạnh Đức Phật, đại đức BHADDA và đại đức SUBHADDA là Thượng
thinh văn, tỳ khưu ni TISSÀ và UPATISSÀ là Thượng thinh văn phái nữ.
Trong thời kỳ ấy đức Bồ-tát,
tiền thân Phật tổ Thích Ca sanh làm chuyển luân vương tên là VIJITÀVÌ,
xuất của cải ra thật nhiều cúng dường đến Đức Phật và chư Tăng,
Đức Phật bèn tiên tri cho biết rằng, còn 3 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại
kiếp nữa, Bồ-tát sẽ thành 1 vị Phật tên là GOTAMA. Khi đúng tuổi thọ
Đức Phật KODANNA nhập Niết bàn, giáo pháp ngài lưu truyền 10 muôn năm mới
mãn.
Sau khi Đức Phật KODANNA nhập diệt
rồi thì trong thời gian 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời
cả.
-oOo-
Sau thời kỳ đó có 4 vị Phật tổ,
lần lượt ra đời trên một trong quả 3 địa cầu.
Vị thứ nhất tên SUMANGALA, ngài tu
16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, cha tên là UTTARARÀJA, mẹ tên UTTARÀ.
Khi từ cung trời Đâu xuất đầu thai vào lòng mẹ thì hào quang chiếu
sáng cả ngày và đêm lối 5 thước chung quanh mình Phật mẫu luôn luôn. Từ
khi vào thai bào, thì chư thiên luôn luôn gìn giử cho đúng 10 tháng tới khi
sanh. Lớn lên có 9 ngàn cung phi mỹ nử hầu hạ. Ngài ở thế làm vui 9
ngàn năm rồi mới xuất gia, lúc ra đi cởi ngựa có cả 30 triệu người
xuất gia theo. Ngài hành đạo trong 8 tháng đắc quả dưới cây mù u, bảo
tọa ngài ngồi bề cao 29 thước. Hào quang trong mình Đức Phật phóng ra
luôn luôn sáng cả ngày lẫn đêm tới 10 ngàn thế giới sa bà đều vàng
ánh. Ngài bề cao 40 thước, tuổi thọ chín muôn năm.
Đức Bồ-tát kiếp ấy sanh làm
bà-la-môn đại phú tên là SURUCI phát tâm trong sạch thỉnh Đức Phật và
1 trăm ngàn triệu Chư tăng, trai tăng trong 7 ngày, cất rạp lớn 16 do tuần
vuông vức. Sau 7 ngày rồi, Đức Phật SUMANGALA tiên tri rằng còn 2 A-tăng-kỳ
và 100 ngàn đại kiếp nữa người sẽ thành một vị Phật tổ tên là
GOTAMA.
Khi Bồ-tát nghe được lời thọ ký
của Đức Phật rất vui mừng, rồi xin xuất gia tu hành theo Phật. khi đúng
tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, người ta thiêu xác ngài rồi làm một
bảo tháp cao 30 do tuần để thờ xá lợi ngài, giáo pháp ngài hưng thạnh
đến 9 muôn năm mới mãn.
-oOo-
Phật tổ thứ nhì tên SUMANA giáng
sanh tại xứ MEKHATA, cha tên SUDATTA, mẹ tên SIRIMÀ, ngài xuất gia đi bằng
tượng có 300 triệu người xuất gia theo, hành đạo trong 10 tháng thì đắc
quả, thành đạo dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi cao 15 thước, chư
Tăng luôn luôn 8 muôn triệu theo tùy tùng tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 45
thước.
Lúc ấy Bồ-tát sanh làm Long vương
tên là ATULANÀGA có thần thông quảng đại, dẫn hết cả tùy tùng mình
lên làm lễ Phật và Chư tăng xong rồi xin dâng y thần cho Phật và Chư
tăng. Đức Phật tiên tri cho biết rằngcòn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại
kiếp nữa sẽ thành một vĩ Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ thì Đức Phật
SUMANA nhập Niết Bàn tại chùa ANGÀRÀMA, người ta thiêu xác ngài rồi làm
một bảo tháp cao 4 do tuần để thờ xá lợi ngài, sau khi nhập diệt rồi,
giáo pháp ngài được hưng thạnh đến 9 muôn năm.
-oOo-
Phật tổ thứ 3 tên REVATA giáng
sanh tại xứ SUDHANNAVATI, cha tên VIPULA, mẹ tên VIPULAYA. Lúc còn Bồ-tát có
tới 33 ngàn mỹ nữ hầu hạ, ngài hưởng ngôi vui 6 ngàn năm. Thấy 4 điềm
rồi xuất gia, lúc xuất gia đi bằng xe giá, có 10 muôn triệu người đồng
xuất gia theo ngài, hành đạo 7 tháng, đắc đạo dưới cây mù u, bảo tọa
ngài ngồi bề cao 25 thước, tuổi thọ 6 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.
Lúc ấy Bồ-tát sanh vào dòng
bà-la-môn tên ATIDEVA, khi vào nghe pháp, phát tâm trong sạch quy y và thọ
trì ngũ giới rồi dâng y cho Phật.
Đức Phật tiên tri cho biết rằng,
còn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên
là GOTAMA. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật REVATA nhập Niết Bàn còn để lại
giáo pháp tới 6 muôn năm mới mãn.
-oOo-
Đức Phật thứ tư tên SOBHITA
giánh sanh tại xứ SUDHAMMAø, cha tên DHAMMAJÀTAø, mẹ tên SUDHAMMÀ, ngài
hành pháp Ba-la-mật đã được 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Lúc
còn thái tử có 7 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi mới
chán nãn xuất gia, hành đạo trong 7 ngày rồi đắc đạo dưới cội cây bồ
đề.
Lúc ngài xuất gia, nguyện cho đền
đài đều bay theo ngài, tới gốc cây bồ đề rồi hạ xuống, Đức Phật
khi đắc đạo cũng ở trong đền ấy. Hào quang trong mình Phật chiếu sáng
rãi ra khắp nơi tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 29 thước.
Lúc ấy Bồ-tát sanh ra trong dòng
bà-la-môn tên SUJÀTA, vào nghe pháp rồi quy y giữ giới và bố thí, trai tăng
cho Đức Phật và chư tăng 7 ngày, Đức Phật tiên tri cho biết rằng, còn
2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp thì người sẽ thành 1 vị Phật tổ.
Khi đúng tuổi thọ rồi Đức Phật SOBHITA nhập Niết Bàn tại chùa
SIHÀRÀMA giáo pháp ngài không có để lại.
Sau khi Đức Phật SOBHITA rồi cách
một thời gian sau 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có vị Phật tổ nào giáng
sanh độ thế.
-oOo-
Sau đó trên một quả địa cầu khác
có 3 vị Phật ra đời là: ANOMADASSÌ, PADUMA, NÀRADA.
Vị thứ nhất tên ANOMADASSÌ, tu
trong 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Ngài giáng sanh tại xứ
CANDAVATÌ, cha tên YASAVÀ, mẹ tên YASODHARÀ. Trong lúc giáng sanh vào lòng mẹ
thì hào quang phóng ra 40 thước chung quanh mình hoàng hậu vô số kể. Khi lớn
lên làm vua có 23 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi đi dạo vườn hoa thấy
4 điềm rồi xuất gia, có 30 triệu người đồng lượt xuất gia theo ngài,
hành đạo trong 10 tháng mới đắc đạo dưới gốc cây gòn rừng, bảo tọa
cao 19 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 29 thước.
Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm chúa Dạ
xoa (YAKKHA) có 10 ngàn Dạ xoa khác tùy tùng hầu hạ. Nghe Đức Phật ra đời
bèn trong sạch hoá thần thông thành ra đền đài bằng 7 thứ ngọc, rồi
thỉnh Phật và chư Tăng cúng dường trong 7 ngày. Đức Phật tiên tri rằng
còn 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa thì người sẽ thành 1 vị Phật
tổ tên là GOTAMA.
Đức Phật ANOMADASSÌ hào quang luôn
luôn phóng ra chung quanh mình Phật 12 do tuần cả ngày và đêm. Khi đúng tuổi
thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, xá lợi ngài không có bể nhỏ ra mà còn
dính nguyên nhau như tượng hình Đức Phật bằng vàng vậy, người ta tạo
một bảo tháp cẩn bằng 7 thứ ngọc bề cao 25 do tuần để thờ xá lợi
ngài tại BUDDHÀRÀMA.
-oOo-
Đức Phật thứ nhì tên PADUMA,
giáng sanh tại xứ CAMAPAKA, cha tên ASAMA, mẹ tên ASAMÀDEVÌ. Khi lớn lên
làm vua có 33 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất
gia, lúc đi bằng xe giá có 10 triệu người xuất gia theo, hành đạo trong 8
tháng thì đắc quả dưới gốc cây mã tiền, bề cao bảo tọa 19 thước,
hào quang của Phật luôn luôn phóng ra lối 29 thước sáng ngời như ngọc
cho tới khi ngài nhập diệt.
Thuở ấy Bồ-tát sanh làm chúa sư
tử gặp Đức Phật nhập đại định phát tâm trong sạch đứng hầu Phật
trong 7 ngày đêm nhịn ăn uống. Khi xả định, Phật tiên tri với chư tăng
rằng. Con sư tử hầu này còn 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ
thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ rồi ngài nhập
Niết Bàn và nguyện cho xá lợi tiêu tan ra tro bụi hết nên không có tạo
tháp để thờ và cụng không để giáo pháp lại.
-oOo-
Đức Phật thứ 3 tên NÀRADA, tu 10
pháp Ba-la-mật trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp giáng sanh tại xứ
DHANNAVATÌ, cha tên VÌJITAVÀ làm chuyển luân vương, mẹ tên ANOMA. Khi chưa
thành đạo ngài làm vua 9 ngàn năm, có 120 cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi
ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc ra đi có cả quân binh 4 hạng tuỳ
tùng, ngài hành đạo trong 7 ngày, đắc đạo dưới cây Gáo, bảo tọa cao
29 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 29 thước. Hào quang ngài
phóng ra luôn luôn 1 do tuần cả ngày đêm chung quanh Phật.
Thuởû ấy Bồ-tát tu hạnh đạo
sĩ nơi tuyết lãnh sơn (Hy mã lạp sơn), Đức Phật ngự đến, đạo sĩ bèn
hoá thần thông cho tịnh xá rộng lớn đủ chổ thỉnh Phật và chư Tăng làm
phước trai tăng 7 ngày đêm (ngài hay qua xứ Bắc Cừu-lưu Châu đem vật thực
về) khi đúng 7 ngày rồi, Bồ-tát nghe pháp xong dâng trầm hương cho Đức
Phật.
Đức Phật tiên tri cho biết rằng,
còn 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa thì người sẽ thành 1 vị Phật
tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ 9 muôn năm ngài
nhập đại Niết Bàn tại chùa SUDASANÀRÀMA, người ta tạo 1 bảo tháp bề
cao bằng 4 lằn chim bay để thờ xá lợi ngài, giáo pháp ngài lưu truyền
đến 9 muôn năm.
Khi Đức Phật NÀRADA nhập diệt rồi,
cách môt thời gian 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
-oOo-
Kế sau đó 1 quả địa cầu chỉ có
1 vị Phật tổ tên PADUMUTTARA giáng sanh tại xứ HAMSAVÀTÌ, cha tên ANANDA, mẹ
tên SUJÀTÀ, khi lớn lên còn ở thế gian 9 ngàn năm có 10 muôn cung phi mỹ
nữ hầu hạ, khi thấy 4 điềm rồi thì chán nản, suy nghĩ để xuất gia.
Lúc ấy đền đài ngài đang ngự bổng bay lên không trung, khi tới cây bồ
đề hạ xuống ngài bèn xuất gia nơi ấy, ngài hành đạo 49 ngày, thành đạo
dước gốc cây dương, bảo tọa cao 19 thước. Mỗi khi Đức Phật ngự đi
đâu đều có bông sen mọc lên đỏ bàn chân ngài, nên người gọi ngài
là Đức Phật hoa sen (Bửu liên Phật).
Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm bá hộ
JATILA, thỉnh Phật và Chư tăng thọ thực dâng y cho Phật và chư tăng, nghe
Đức Phật thuyết pháp, khi dứt thời pháp Đức Phật tiên tri cho biết rằng:
còn 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật
PADUMUTTARA nhập Niết Bàn tại chùa NANDÀRÀMA, xá lợi ngài không bể rời
ra mà đóng lại thành khối như vàng ròng, người ta tạo một bảo tháp bằng
7 thứ báu cao 12 do tuần để thờ xá lợi ngài.
Sau khi Đức Phật PADUMUTTARA nhập
Niết Bàn rồi thì một thời gian 7 muôn đại kiếp không có Đức Phật nào
ra đời.
-oOo-
Kế đó có 1 quả địa cầu có 2 vị
Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tên là SUMEDHA giáng sanh tại xứ
SUDASSANA, cha tên SUDASSARÀJA, mẹ tên SUDATTÀ, khi còn ở thế 9 ngàn năm làm
vua trị vì thiên hạ, có 4 muôn 8 ngàn cung phi mỹ nữ hầu ha. Khi ngài thấy
4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc ra đi bằng tượng (voi) có cả 1000
triệu người đồng lòng xuất gia 1 lượt. Ngài hành đạo trong 8 tháng,
khi đúng rằm tháng tư ngài thành đạo dước gốc cây sầu đông, tuổi thọ
9 muôn năm, bề cao 44 thước hào quang trong người Phật phóng ra lối 1 do
tuần luôn luôn cả ngày đêm như ngọc ma ny.
Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm người
đại phú hộ tên là UTTARA gặp Phật nghe pháp rồi phát tâm trong sạch bố
thí của cải 800 triệu để làm phước trai tăng đến Đức Phật và Chư
tăng. Phật thọ ký cho biết rằng còn ba muôn đại kiếp nữa sẽ thành 1
vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ ngài nhập Niết
Bàn tại chùa MEDHÀRÀMA, ngài nguyện cho xá lợi tiêu tan hết, nên không
có tạo bảo tháp để thờ.
-oOo-
Vị Phật thứ nhì tên SUJÀTA,
giáng sanh tại SUMANGALA. Cha tên UGGATTA, mẹ tên PABHÀVATÌ. Khi còn ở thế
gian 9 ngàn năm, làm vua có cả 23 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi ngài thấy
4 điềm rồi xuất gia. Lúc đi ra bằng ngựa có cả 10 triệu người xuất
gia theo 1 lượt với ngài, hành đạo trong 9 tháng đắc đạo duớc bụi tre
ngà, bảo tọa bề cao 16 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 25 thước.
Thửơ ất Bồ-tát sanh làm Chuyển
luân vương có 7 báu, nghe Đức Phật ra đời trong sạch đến nghe pháp, khi
nghe xong liền dâng cả 7 báu và của cải để làm tứ vật dụng cho Đức
Phật và Chu Tăng, rồi xuất gia tu hành theo Phật. Đức Phật tiên tri cho
biết rằng: còn 3 muôn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên
GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập
Niết Bàn tại chùa SELÀRÀMA, người ta tạo 1 bảo trháp bề cao 12 cây số
để thờ xá lợi ngài.
Sau khi Đức Phật SUJÀTA nhập diệt
rồi, có 1 thời không gian 1 muôn 6 ngàn đại kiếp không có Đức Phật nào
ra đời.
-oOo-
Sau đó có 1 quả địa cầu, có 3
Đức Phật ra đời. Vi thứ nhất tên PIYADASSÌ giáng sanh tại xứ
SUDHANNAVATI, cha tên SUDATA, mẹ tên CANDÀDEVÌ. Lúc còn ở thế có 33 ngàn
cung phi mỹ nữ hầu hạ khi ngài thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia.
Lúc ra đi bằng xe, tất cả quan quân tùy tùng đều xuất gia theo ngài,
hành đạo trong 6 tháng, đắc đạo dưới cây Cầy (bràyong) bảo tọa cao
26 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.
Thuởû ấy bà-la-môn tên KASSAPA đại
phú gia, vào nghe pháp phát tâm trong sạch bỏ của cải ra 1000 triệu để cất
chùa dâng cho Đức Phật và Chư Tăng rồi quy y tam bảo, thọ trì ngũ giới,
Đức Phật tiên tri cho biết rằng: còn 1 muôn 4 ngàn đại kiếp nữa sẽ
thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ ngài nhập Niết
Bàn tại chùa ASSATTHÀRÀMA. Nguời ta tạo một bảo tháp bề cao 3 do tuần
để thờ xá lợi ngài, không bể mà đóng khối thành một hình Phật đẹp
như vàng ròng, giáo pháp ngài còn lại 9 muôn năm mới mãn.
-oOo-
Vị Phật thứ nhì tên là
ATTHADASSÌ giáng sinh tại xứ SOBHANA, cha tên SÀGARA, mẹ tên SUDASSANÀ khi
còn ở thế 1 muôn năm lên làm vua có 33 ngàn cung phi mỹ mữ hầu hạ, khi
thấy 4 điềm phát sanh chán nản đi xuất gia. Lúc ra đi có 4 hạng quan binh
cả thảy 9 triệu đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 8 tháng, hành đạo
dưới cây Cầy, bề cao 26 thướùc, tuổi thọ 10 muôn năm, Phật bề cao 40
thước, hào quang phóng ra luôn luôn 1 do tuần xung quanh ngài.
Thuở ấy Bồ-tát sanh ra dòng
bà-la-môn đại phú gia SUSÌMA, xuất của cải ra bố thí cho dân chúng hết
rồi xuất gia tu đạo sĩ, khi hay Đức Phật ra đời bèn bay xuống nghe
pháp xong trong sạch bay lên cõi trời hái bông rãi xuống như mưa cúng dường
chổ Phật ngự, ngài tiên tri cho biết rằng: còn 1 muôn 4 ngàn đại kiếp
nữa người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập
Niết Bàn tại chùa ANOMÀRÀMA, ngài nguyện cho xá lợi ngài bể nhỏ và
hóa thành bảo tháp xá lợi khắp nơi cho quần chúng chiêm bái tới mãn thời
kỳ Phật pháp.
-oOo-
Vị Phật thứ ba tên DHAMMADASSÌ
giáng sanh tại xú SARANA, cha tên SABBA LOKA SARANA, mẹ tên SUNANDÀ, khi còn ở
thế đến 8 ngàn năm lên làm vua có cả 120 ngàn cung phi hầu hạ. Khi thấy
4 điềm rồi chán nản xuất gia vừa lúc tâm ngài vừa tính xuất gia thì
đền đài ngài đương ngự liền bay bổng lên rồi bay tới chổ cây (kram
buk) bèn hạ xuống, thì tất cả cung phi mỹ nữ đều chạy ra khỏi đền.
Ngài bèn xuất gia nơi ấy có cả 1 triệu người đều xuất gia theo ngài,
hành đạo trong 7 ngày khi đến ngày thứ 8 thọ cơm trộn sữa bề của cô
VICIKOLIYÀ dâng cho. Tối hôm ấy hành đạo dưới cây Bibijala và đắc quả
Phật. Bề cao bảo tọa 26 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 40 thước,
lúc còn ở thế vợ tên VICIKOLÌ, con trai tên PUNNAVADANA.
Đại đức PADUMA là Thượng thinh văn bên hữu.
Đại đức PUSSADEVA là Thượng thinh văn bên tả.
Tỳ khưu ni KHEMÀ là Thượng thinh văn bên hữu.
Tỳ khưu ni SACCANAMÀ là Thượng thinh văn bên tả.
Đại đức SUNETTA là đệ tử hầu hạ Đức Phật.
2 ông SUBHADDA và KATISSAHA là đại thiện nam.
2 cô SÀLIYA và KALIYÀ là đại tín nữ.
Thuở ấy Bồ-tát sanh làm Ngọc
hoàng Thượng đế (Trời Đế thích) SAKADEVARÀJA bay xuống luôn cả chư thiên
tùy tùng đãnh lễ Đức Phật. Ngài thọ ký và tiên tri cho biết rằng:
còn 1 muôn 4 ngàn đại kiếp nữa người mới thành 1 vị Phật tổ tên là
GOTAMA.
Đúng tuổi thọ Đức Phật nhập
đại Niết Bàn tại xứ SALÀVATÌ. Khi người ta thiêu xác ngài xong thì xá
lợi ngài dính nhau lại thành 1 tượng Phật như vàng ròng. Người ta làm 1
bảo tháp bề cao 3 do tuần để thờ xá lợi ngài. Giáo pháp ngài lưu truyền
đến 10 muôn năm mới mãn.
Khi Đức Phật DHAMMADASSI nhập diệt
rồi thì có một thời không gian 1 muôn 3 ngàn 907 đại kiếp không có Đức
Phật nào ra đời cả.
-oOo-
Mãi sau có 1 vị Phật tổ ra đời
tên SIDDHATTHA giáng sanh tại xứ VEBHÀRA, cha tên UDENA, mẹ tên SUPHASSÀ, khi
tuổi được 1 muôn năm, lên ngôi trị vì thiên hạ, có 48 ngàn cung phi mỹ
nữ hầu hạ. Khi ngài thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc ra đi bằng
xe có 1 triệu người tùy tùng đồng xuất gia theo ngài, hành đạo trong 10
tháng, đắc quả dưới cây Gòn rừng (KANNIKA). Bảo tọa cao 26 thước, tuổi
thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 30 thước.
Thuở ấy Bồ-tát sanh làm
Bà-la-môn đại phú gia tên MANGALA bố thí hết của cải cho dân chúng rồi
xuất gia tu đạo sĩ nơi rừng núi, khi hay tin Đức Phật đã ra đời dạy
đạo liền đến đãnh lễ ngài và nghe pháp. Khi nghe Đức Phật thuyết pháp
xong, phát tâm trong sạch bay đi hái trái mận ở nơi ranh giới quả địa cầu
thật nhiều rất thơm tho, ngon ngọt đem về dâng cho Đức Phật và chư
Tăng. Khi độ xong Đức Phật thọ ký và cho biết rằng còn 92 đại kiếp
nữa người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật
SIDATTHA nhập Niết Bàn tại chùa ANOMARÀMA. Người ta tạo 1 bảo tháp để
thờ xá lợi ngài cho dân chúng chiêm ngưỡng đến khi mãn thời kỳ Phật
pháp là mười muôn năm.
-oOo-
Kế đó có 1 quả địa cầu có 2 vị
Phật tổ giáng sanh tên là: TISSA và PUSSA.
Đức Phật TISSA giáng sinh tại xứ
KHEMA, cha tên JANASANDHA, mẹ tên PADUMÀ, khi còn ở thế có đến 3 muôn cung
phi mỹ nữ hầu hạ. Khi ngài thấy bốn điềm rồi chán nản xuất gia.
Lúc ra đi có 4 vạn quan binh tùy tùng, có 10 triệu người đồng xuất gia
theo ngài, hành đạo trong nữa tháng, đắc quả dưới cây Cẩm lai (ASANA),
bảo tọa bề cao 20 thước, tuổi thọ 10 muôn năm. Bề cao ngài 30 thước.
Thuở ấy Bồ-tát sanh làm vua tên
SUJÀTA, sau chán nản sự ràng buộc vợ con của cải, danh lợi, ngài bèn xuất
gia tu đạo sĩ ở nơi Hy mã lạp sơn đắc được các pháp thần thông. Khi
hay tin Đức Phật ra đời, bèn bay xuống nghe pháp rồi phát tâm trong sạch
bay đi hái bông trên cung trời về kết thành cây long thật đẹp như ngọc
mani dâng cho Đức Phật. Ngài thọ ký và tiên tri cho biết rằng còn 91 đại
kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập
Niết Bàn tại chùa SUNANDÀRÀMA. Người ta thiêu xong làm 1 bảo tháp bề cao
3 do tuần để thờ xá lợi ngài cho đến khi mãn thời kỳ Phật pháp là
10 muôn năm.
-oOo-
Vị Phật thứ 2 tên PUSSA, giáng
sanh tại xứ KÀSIKA, cha tên JAYASENA, mẹ tên SIRIMÀ, khi ở thế tuổi được
9 ngàn năm, lên làm vua có 3 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm
rồi chán nản xuất gia. Lúc ra đi bằng xe giá có 10 triệu quan quân tùy
tùng đồng xuất gia theo ngài hết. Ngài hành đạo trong 6 tháng 7 ngày, đắc
đạo dưới cây Tầm ruột rừng, bề cao bảo tọa 9 thước, tuổi thọ ngài
9 muôn năm, bề cao ngài 29 thước.
Thời kỳ ấy Bồ-tát sanh làm vua
tên VIJITAVI, khi vào nghe pháp phát tâm trong sạch thỉnh Phật và chư Tăng vào
đền trai tăng, xong xin xuất gia đầu Phật. Phật thọ ký cho và tiên tri
cho rằng: còn 91 đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập
Niết Bàn, ngài nguyện xá lợi rãi rác khắp nơi cho người chiêm ngưỡng.
-oOo-
Kế tiếp, quả địa cầu có 1 vị
Phật ra đời tên là VIPASSÌ, giáng sanh tại xứ BANDHUMAVATI, cha tên
BANDHUMA, mẹ tên BANDUMATÌ. Khi sanh ra mọi người đều không bịnh hoạn và
lo sợ tai hại chi cả, đến khi tuổi đúng 8 ngàn năm lên làm vua có 43
ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia.
Lúc ra đi bằng xe giá, có đến 84 ngàn người đồng xuất gia theo ngài,
hành đạo trong 8 tháng, đắc đạo dưới cây Cẩm lai, bề cao bảo tọa 25
thước, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước. Hào quang trong người
Phật túa ra luôn luôn 1 do tuần xung quanh.
Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm Long vương
NÀGA, có thần thông quảng đại biết hóa 1 căn phòng thật lớn bằng 7 thứ
báu rồi thỉnh Phật và chư Tăng tới để trai tăng bố thí. Xong rồi
dâng bảo tọa bằng 7 thứ ngọc báu cho Đức Phật ngài thọ ký và tiên
tri cho biết rằng còn 90 đại kiếp sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là
GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập
Niết Bàn tại chùa SUMITTÀRAMA, xá lợi ngài không bể nhỏ ra mà dính lại
thành 1 tượng Phật thật đẹp, người ta làm 1 bảo tháp cao 7 do tuần để
thờ xá lợi ngài. Giáo pháp để lại 8 muôn năm mới mãn.
Khi Đức Phật VIPASSÌ nhập diệt rồi
có một thời không gian là 59 đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
-oOo-
Kế đó quả địa cầu có 2 vị Phật
tổ ra đời.
Vị thứ nhất tên là SIKHÌ giáng
sanh tại xứ ARUNAVATÌ, cha tên ARUNAVATTA, mẹ tên PABHAVATÌ. Khi tuổi được
7 ngàn năm lên làm vua, có cả 24 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4
điềm rồi chán nản bỏ ngôi vua xuất gia. Lúc ra đi bằng tượng có 7
muôn người hầu hạ theo ngài rồi xuất gia hết, hành đạo trong 8 tháng,
đắc quả dưới gốc cây Xoài tượng, bảo tọa bề cao 12 thước,tuổi thọ
7 muôn năm, bề cao ngài 35 thước. Hào quang ngài luôn luôn túa ra 3 do tuần,
sáng ngời rực rở, che lấp ánh mặt trời mặt trăng.
Thuởû ấy đức Bồ-tát sanh làm
vua tên là ARINDAMA, tại xứù PARIBHUTTA, khi Đức Phật ngự tới xứ ấy,
đức vua hết sức trong sạch đến đãnh lễ dưới chân ngài rồi thỉnh
Phật và chư Tăng ngự trong thành làm phước trai tăng trong 3 tháng. Khi đúng
3 tháng rồi dâng cà sa và các món phụ tùng nhà sư. Đức Phật thọ ký
và cho biết còn 30 đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi tho,ï ngài nhập Niết
bàn tại chùa ASSÀRÀNA, người ta tạo 1 bảo tháp cao 3 do tuần để thờ xá
lợi ngài, giáo pháp hưng thạnh đến 7 muôn năm.
-oOo-
Đức Phật thứ 2 tên VESSABHÙ
giáng sanh tại xứ ANUPAMA, cha tên SUPPATITA, mẹ tên YASAVATI. Khi được 6 ngàn
năm thì kên ngôi vua có 3 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi
chán nản bỏ ngôi vua đi xuất gia, lúc ra đi có quan quân xe giá tùy tùng,
7 muôn người đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 6 tháng đắc quả
dưới cây Long thọ (SALÀ) bảo tọa bề cao 20 thước.
Có đại đức SONA là đại thinh
văn bên hữu, đại đức UTARA là Thượng thinh văn bên tả, đại đức
UPASANTA là đệ tử hầu cận, có tỳ khưu ni tên RAMÀ và SAMÀLÀ là Thượng
thinh văn tả hữu về phái nữ, có ông SOTTIKA và RAMBHA là đại thiện nam
và cô GOTAMÌ và SIRIMÀ là đại tín nữ.
Thuở ấy đức Bồ-tát của chúng
ta sanh làm vua tại sứ SARABHAVATI, ngài tên là SUDASSANA, khi Đức Phật ngự
tới xứ ấy, đức vua vào đãnh lễ ngài và nghe pháp, khi nghe pháp xong
phát tâm trong sạch thỉnh Phật và Chư tăng làm phước trai tăng xong, cất
1 tịnh thất bằng cây trầm hương dâng Đức Phật rồi xin xuất gia hành
đạo theo Phật. Ngài rất sốt sắng hành cả 13 pháp đầu đà, rất vui
thích trong sự học hỏi Tam tạng, Đức Phật bèn thọ ký tiên tri cho biết
rằng, còn 30 đại kiếp nữa sẽ thành Phật tổ GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ 6 muôn năm, ngài
nhập Niết bàn tại chùa KHEMÀRÀMA, xá lợi ngài bể nhỏ và chia rãi rác
khắp nơi cho người chiêm bái.
Sau khi Đức Phật VESSABHÙ nhập diệt
rồi có 1 thời không gian 29 đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời dạy
đạo cả.
-oOo-
Cho tới quả địa cầu chúng ta
đương ở hiện tại đây, có 5 vị Phật tổ giáng sanh (3 vị quá khứ, 1
vị hiện tại và 1 vị lai). Ba vị quá khứ là KAKUSANDHA, KONÀGAMANA và
KASSAPA. Vị hiện tại là GOTAMA. Vị tương lai là METTEYYA (Di Lặc).
Đức Phật KAKUSANDHA giáng sanh tại
xứ KHEMAVATI, cha tên AGGIDATTA dòng bà-la-môn, làm thái sư cho đức vua
KHEMANKARA, mẹ tên VISÀKHA. Khi tuổi được 4 muôn năm ngài hưởng cả gia tài
của cha là bà-la-môn, làm quan thái sư cho đức vua mà có quyền hành hơn
vua, vì làm thầy dạy dỗ vua. Lúc còn là Bồ-tát có 3 muôn mỹ nữ luôn
luôn hầu hạ, và 4 muôn người trai trẻ tùy tùng. Khi ngài thấy 4 điềm rồi
phát tâm chán nản đi xuất gia, có 4 muôn ngư?i tùy tùng đưa người đi xuất
gia theo ngài, hàng đạo trong 8 tháng, khi thọ cơm sữa dê của cô
VAJIRINDHA, đi đến gốc cây Sung (Sirisa), lãnh 8 bó tranh của SUBHADDA, rồi
trãi dưới gốc cây đắc quả, bảo tọa bề cao 17 thước. Ngài hành đạo
nơi ấy tuổi thọ 4 muôn năm, bề cao ngài 20 thước, hào quang ngài luôn
luôn tủa ra chung quanh ngài 10 do tuần.
Bồ-tát lúc ấy sanh làm vua tên
KHEMA, trong sạch làm phước trai tăng tới Đức Phật và Chư tăng, lại yêu
cầu hộ độ 4 món vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men,
thật lâu, mãi sau lại bỏ ngôi xuất gia theo Phật, thọ trì tam học rất
siêng năng hành đạo. Đức Phật bèn thọ ký và tiên tri cho biết rằng:
thầy Tỳ Khưu này sẽ thành 1 vị Phật tổ thứ 4 tên là GOTAMA trong quả
địa cầu này vậy.
Đức Phật KAKUSANDHA có 2 vị đại
đức là VIDHURA và SANJIVA là Thượng thinh văn hữu tả, có hai vị tỳ khưu
ni tên là SÀMÀvà CAMPAKÀ là hữu và tả Thượng thinh văn phái nữ. Có đại
đức BUDDHIJA là đệ tử hầu cận Phật, có 2 đại thiện nam là ACCUTA và
SUMANA, có 2 đại tín nữ là NANDÀ và SUNANDÀ.
Khi đúng tuổi thọ, Đức Phật nhập
Niết bàn tại chùa KHEMÀRÀMA. Người ta làm 1 bảo tháp bề cao 4 cây số
để thờ xá lợi ngài. Giáo pháp ngài hưng thạnh tới 4 muôn năm mới mãn.
Sau khi ấy tuổi thọ chúng sanh dần
dần giảm bớt xuống tới 10 tuổi hoặc hơn chút ít, vì lòng hung dữ độc
ác của chúng sanh, khi chán nản đến tội ác, lại quay về làm điều thiện
thì tuổi thọ lần lần tăng lên đến tuổi 1 A-tăng-kỳ năm mới già chết.
-oOo-
Rồi lần lần hạ xuống cho tới
thời gian tuổi thọ chúng sanh còn 3 muôn năm. Khi ấy Đức Phật KONAGÀMANA
giáng sanh tại xứ SOBHAVÀTÌ, cha tên là YANNADATTA dòng bà-la-môn làm quan
thái sư và thầy dạy dỗ đức vua SOBHAVÀTÌ, mẹ tên UTTARÀ. Khi Bồ-tát
tuổi được 3 ngàn năm, thì được lãnh trọn cả gia tài của cha mẹ, có
3 tòa lâu đài và 16 ngàn mỹ nữ hầu hạ, vợ tên RUCIGATTÀ, con trai tên
SATTAVÀHA. Khi Bồ-tát thấy 4 điềm rồi bỏ đi xuất gia, đi bằng tượng
có 3 muôn người tùy tùng theo ngài đều xuất gia theo hết, hành đạo
trong 6 tháng, đắc đạo dưới cây Sung, bảo tọa cao 10 thước, tuổi thọ
3 muôn năm, b? cao ngài 15 thước.
Bồ-tát lúc ấy sanh làm vua tên
PABBATA tại xứ MITHILÀ. Khi nghe Đức Phật đã ra đời bèn đến nơi đãnh
lễ thỉnh Đức Phật và Chư tăng trai tăng bố thí trong 7 ngày và thỉnh
Phật nhập hạ 3 tháng. Ngài hết lòng hộ độ 4 món vật dụng đến khi
ra hạ làm lễ dâng casa cho Phật và Chư tăng. Đức Phật bèn thọ ký và
tiên tri cho biết rằng, còn cách 1 vị Phật tổ cũng trong kiếp này thì người
cũng thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Đức Phật KONÀGAMANA có 2 vị đại
đức tên BHIYYOSA và UTTARÀ là Thượng thinh văn tả hữu, có hai vị tỳ khưu
ni tên SAMUDDÀ và UTTARÀ là Thượng thinh văn tả hữu về phái nữ. Có đại
đức SOTTHIJÀ là đệ tử hầu cận Đức Phật. Có 2 đại thiện nam là
UGGA và SOMMADEVA, có 2 đại tín nữ là SIVALÀ và SÀMÀ, là người hộ trì
Phật Pháp.
Khi đúng tuổi thọ 3 muôn năm ngài
nhập Niết bàn tại chùa DHAMMA SABHÀRÀMA, xá lợi ngài nguyện cho bể nhỏ
ra và bay khắp nơi cho mọi người chiêm bái.
-oOo-
Sau khi ấy tuổi thọ chúng sanh lần
giảm xuống còn 10 tuổi hoặc hơn, rồi lần lần trở lên cho tới tuổi 1
A-tăng-kỳ rồi hạ xuống lần lần tới thời đại chúng sanh tuổi thọ
được 2 muôn năm thì Đức Phật KASSAPA giáng sanh tại xứ BÀRÀNASÌ, cha
tên là BRAHMADATTA, dòng bà-la-môn làm quan thái sư và thầy chỉ dạy đức
vua. Khi Bồ-tát tuổi được 2 ngàn năm thì gia tài cha mẹ, 3 tòa lâu đài,
có cả 48 ngàn mỹ nữ hầu hạ. Khi dạo vườn thấy 4 điềm chán nản xuất
gia. Lúc ấy cả đền đài ngài đang ở, bay tới gốc cây da hạ xuống.
Ngài bèn xuất gia nơi ấy, có cả 10 triệu người đồng xuất gia theo ngài
hành đạo trong 7 ngày, thành đạo dưới gốc cây Da, bảo tọa bề cao 25
thước, tuổi thọ ngài 2 muôn năm, bề cao ngài 10 thước.
Ngài có 2 đại đức tên TISSA và
BHÀRADVÀJA là Thượng thinh văn tả hữu, và 2 vị tỳ khưu ni tên ANULÀ và
URUVELÀ là Thượng thinh văn tả hữu bên phái nữ. Có đại đức SABBÀMITTA
là đệ tử hầu cận Đức Phật, có 2 đại thiện nam hộ độ ngài là
SUMANGALA và GHÀTIKARÀ, có 2 đại tín nữ là VIJITASENÀ và cô BHADDÀ hộ độ
ngài.
Lúc ấy Bồ-tát sanh làm JOTIPÀLA
thông suốt ba bộ kinh Phệ đà. Khi vào nghe pháp trong sạch, xin xuất gia tỳ
khưu, rất siêng năng thọ trì tam học và thuộc nằm lòng Tam tạng. Đức
Phật thọ ký và tiên tri cho biết rằng, người sẽ thành 1 vị Phật tổ
kế Như Lai tên là GOTAMA vậy.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật
KASSAPA nhập Niết bàn tại vườn SETAPYA, người ta làm 1 bảo tháp thờ xá
lợi ngài cho người chiêm bái, đến khi mãn thời kỳ Phật pháp là 2 muôn
năm.
-oOo-
ĐỨC PHẬT TỔ GOTAMA
Rồi đức Thích Ca Mâu Ni liền thuyết
pháp cho đại đức Xá Lợi Phất nghe rằng: "Tất cả 28 vị Phật tổ
đã qua Như Lai đều gặp Phật cả, nhưng chỉ có được 25 vị là từ Đức
Phật Nhiên Đăng (DIPANKARA) thọ ký cho đến Đức Phật Ca Diếp (KASSAPA) là
4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, Như Lai đã thực hành theo 10 điều
Ba-la-mật (PARÀMI) đã tròn đủ. Khi kiếp chót sanh lên cung trời Đâu Suất
(TUSITA), chư thiên 10 ngàn thế giới tới thỉnh Như Lai giánh sanh để độ
đời, Như Lai nhận lời bèn coi có đủ 5 điều mà chư Phật quá khứ và
vị lai cũng đều xem xét y nhau cả rồi mới giáng sanh. 5 điều ấy là:
1) Ngài xem coi xứ sẽ giáng sanh, không ngoài xứ
Trung Ấn Độ.
2) Ngài xem coi châu nào sẽ giáng sanh, không
ngoài Nam thiện bộ châu. (JAMPÙDIPA).
3) Ngài xem coi dòng nào ngài sẽ giáng sanh, không
ngoài 2 dòng bà-la-môn và vua.
4) Ngài xem coi tuổi thọ chúng sanh: là không quá
10 muôn, không dưới 100 tuổi, nếu chúng sanh tuổi sống dai hơn 10 muôn
thì không thấy cái khổ già đau chết, còn dưới 100 tuổi thì nhiều ái dục
phiền não lắm khó mà độ được.
5) Coi tuổi Phật mẫu, khi sanh ngài ra rồi, trong
7 ngày phải thăng hà, về hưởng phước báu trên cung trời, vì 1 vị Phật
mẫu khi sanh Bồ-tát ra rồi thì không ai được làm lem lấm tình dục nữa.
Các vị Bồ-tát xem đủ điều trọn
vẹn rồi mới giáng sanh. Khi Bồ-tát hứa với Chư Thiên rồi bèn giáng
sanh xuống xứ KAPILAVATTHU trung Aán Độ (hiện nay tại xứ Nepal), tên là Sĩ
Đạt Ta (SIDHATTHA), cha tên SUDHODANA, mẹ tên MAHÀ MAYÀ. Lúc ngài giáng sanh,
thì có 7 điềm khác cũng sanh ra 1 lượt với ngài là
1. Đại đức ANANDA
2. Cô YASODHARÀ là vợ ngài
3. CHANDRA, người giữ ngựa.
4. KÀLUDÀYI, quan hầu
5. Ngựa KANTHAKA
6. Cây Bồ Đề.
7. Những hầm của 7 báu.
Khi sanh ra đúng ngày rằm tháng tư,
ngài đi 7 bước, tay chỉ thiên, tay chỉ địa và nói:
--"Trên trời dước đất chỉ
có mình ta là cao thượng đáng tôn kính, kiếp này là kiếp chót của ta vậy".
Khi lớn lên, vua cha làm 3 tòa lầu,
có 4 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Đúng 16 tuổi thì cưới công chúa Da du
đà la (YASODHARÀ) và được nhường ngôi vua cho. Ngài hưởng ngôi vua 13 năm,
đúng 29 tuổi thì hoàng hậu trổ sanh thái tử tên Ra hầu la (RAHULA). Khi
ngài đi dạo ngoài vườn thành thấy 4 điềm là: người già, người bịnh,
người chết và 1 thầy tu, chán nản bỏ ngôi vua đi xuất gia. Lúc đi ra cởi
ngựa,hành đạo trong 6 năm khổ hạnh còn da bọc xương.
Một hôm ngài nghĩ rằng, con đường
khổ hạnh không thể nào đắc quả được, ngài bèn bỏ con đường ấy mà
thực hành theo con đường trung đạo, đến ngày rằm tháng tư, ngài thọ cơm
trộn sửa dê của cô SUJÀTÀ, rồi thành đạo dưới cây Bồ Đề. Canh đầu
ngài đắc Túc mạng minh, biết rõ tiền kiếp của mình và chúng sanh. Canh
giữa ngài đắc Thiên nhãn minh, thấy rõ sự sanh tử luân hồi của chúng
sanh tùy theo duyên nghiệp lôi cuốn mãi mãi. Canh chót ngài đắc Lậu tận
minh, là thấy rõ các pháp trầm luân (Àsava) và diệt tận cả ái dục phiền
não. Đúng hừng sáng thì ngài hoàn toàn thành 1 bực Chánh Đẳng Chánh
Giác.
Ngài hưởng đạo quả Niết bàn 49
ngày. Rồi trời Phạm thiên xuống thỉnh ngài đi thuyết pháp độ đời.
Ngài nhậm lời bèn đi đến vườn lộc giả ISIPATANA MIGGADÀYAVANA chuyển
pháp luân đầu tiên độ 5 thầy Kiều trần như, và 180 chư thiên và Phạm
thiên, đều đắc đạo quả . Pháp Ngài thuyết là phải lánh xa 2 con đường
là khổ hạnh và lợi dưỡng, là phải thực hành theo con đường bát
chánh là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, và thấy rõ cái khổ, thấy rõ
ái dục là nguyên nhân phát sanh cái khổ, thấy rõ Niết bàn là nơi diệt
khổ, thấy rõ bát chánh đạo thực hành theo để diệt khổ.
Trong 45 năm trường vẫn thuyết pháp
độ đời, tuổi thọ ngài chẳn đúng 80, ngày rằm tháng tư mới nhập Niết
bàn tại xứ KUSINÀRÀ dưới bóng 2 cây Song long thọ (SÀLA). Bề cao ngài 6
thước, tuổi thọ chẳn 80, bảo tọa bề cao 20 thước, hào quang túa lối
1 sải. Có 2 vị đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là Thượng
thinh văn tả hữu, có đại đức ANADA là đệ tử hầu cận, có 2 vịâ tỳ
khưu ni là KHEMÀ và UPPAVANNA là Thượng thinh văn tả hữu về phái nữ, có
2 ông CITTAKA và HATTHALAVAKA là đại thiện nam, có 2 cô NANDÀMADA và UTTARÀ
là đại tín nữ.
Sau khi ngài nhập diệt xá lợi
ngài chia ra tám phần cho người tại bảo tháp để thờ, giáo pháp ngài
còn hưng thạnh đến 5 ngàn năm mới mãn.
- -
- [03]
- CHƯ PHẬT VỊ LAI CÓ MƯỜI VỊ
Nguyên nhân Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni thuyết về 10 vị Phật tổ giáng sanh trong ngày vị lai là: một
hôm bà GOTAMI là dưỡng mẫu của Đức Phật, chính là em ruột của hoàng
hậu MAHÀ MAYÀ, tự tay bà quay chỉ dệt, may và nhuộm lấy 2 tấm y cà sa
thật quý định đem dâng cho Đ?c Phật. Ngài chỉ lãnh lấy 1 lá y, còn 1
lá y ngài bèn bảo đem dâng cho Chư tăng, bà đem dâng từ vị đại đức
cho tới chót không ai dám nhận vì nghĩ rằng: nếu không ai dám lãnh thì
bà sẽ đem dâng lại cho Đức Phật, khi tới sau cùng có 1 vị tỳ khưu mới
tu, ông thọ lãnh tấm y và tính đem dâng lại cho Đức Phật, các vị còn
phàm có ý khi dễ vì cho rằng người không đức tin thì và không tôn
kính.
Bà GOTAMÌ có ý buồn vì dâng cho vị
mới tu, sợï mình ít phước. Đức Phật hiểu ý bèn giảng giải rằng:
"Ai có lòng trong sạch dâng cúng đến chư Tăng thập phương thì sẽ
được nhiều phước báu hơn dâng đến Như Lai".
Khi xong lễ, vị tỳ khưu ấy tên
là ÀSAJJÌ bèn đem tấm y ấy vào nơi Phật ngự mà dâng cho ngài, và nguyện
cho thành 1 vị Phật tổ trong ngày vị lai. Đức Phật cười chúm chiếm,
lúc ấy 2 cái răng nhọc túa haò quang thấu đến cung trời Phạm thiên, 2
cái ở hàm trên thấu xuống tới cõi địa ngục A tỳ. Đại đức ANANDA
thấy vậy bèn quỳ xuống bạch Phật rằng: "Có điều chi lạ mà Đức
Thế Tôn cười rõ rệt?" (vì chư Phật không bao giờ cười mà không
có nguyên nhân), Phật bèn đáp rằng: - Này ANANDA. tỳ khưu ASAJJÌ đây sau
này sẽ thành 1 vị Chánh Đẳng chánh giác kế vị Như Lai tên là Di Lặc
Phật (METTAYYA). Đức Phật chỉ nói tóm tắt có bao nhiêu rồi vào tịnh thất
yên nghỉ.
Lúc ấy chư Tăng đang tụ hội tại
giảng đường bàn bàn luận luận với nhau, không biết chư Phật tổ vị
lai oai lực và giáo pháp như thế nào. Những lời bàn luận ấy lọt vào
nhĩ thông Đức Phật, ngài bèn ra ngự nơi giảng đường, lúc ấy đại đức
Xá Lợi Phất bèn quỳ xuống bạch Phật rằng: xin ngài mở lòng bác ái giảng
giải cho biết oai lực và giáo pháp của Phật vị lai. Nhân đó mà Đức
Phật mới giảng giải về 10 vị Phật vị lai.
-oOo-
Đức Phật bèn giảng rằng: Này
Xá Lợi Phất, sau khi Như Lai nhập diệt rồi thì có 5 điều tiêu hoại
là:
1 - ADHIGAMA ANTARADHÀNA: là tiêu hoại đạo quả.
Đúng 1 ngàn năm sau khi Như Lai nhập diệt thì không còn có ai đắc đạo
quả A-la-hán, luôn cả lục thông và huệ phân tích thuộc nằm lòng Tam tạng
nữa.
2 - PARIYATTI ANTARADHÀNA: là tiêu hoại về pháp học,
là khi đúng 2 ngàn năm không có ai thuộc nằm lòng Tam tạng và mất lần lần
và bắt đầu mất tạng Luận, Kinh rồi mới tới Luật (vì Luật mà mất
thì đạo cũng không còn, vì Luật là nền tảng của Phật giáo - VINAYO
SÀSANAMULAM). Thật vậy, hiện nay ít có ai chú trọng mà học cho nằm lòng
tạng Luận vì khó nhớ và lý luận sâu xa lắm.
3 - PÀTIPATTI ANTARADHÀNA: mất pháp hành, vì khi đúng
3 ngàn năm thì ít ai mến pháp hành, vì thực hành theo là 1 điều khó, mà
thật vậy, hiện nay Phật pháp mới qua gần 2498 năm mà rất ít nhà sư ưa
mến sự hành đạo giải thoát.
4 - LINGA ANTARADHÀNA: mất tăng tướng, khi đúng 4
ngàn năm thì chư Tăng lúc bấy giờ như người thế, vì hội nhau lại bàn
rằng, mặc y xùng xình khó bề làm công việc rồi đồng lòng bỏ y cà-sa,
chỉ mặc quần áo như kẻ thế mà lấy một miếng vải vàng (ca-sa) cột
vào cổ tay hoặc vắt trên vai, hoặc dắt mép tai cho biết người tu thôi,
vì bận việc làm ruộng rẫy bán buôn như người thế tục. Trong lúc ấy
có ít người tu đi hóa trai (trì bình khuất thực), chỉ lấy hai cái quảo
(thúng nhỏ lớn hơn cái ô) thoa dầu chai, đề lên 2 cái giống, quảy đi
khuất thực như người gánh đồ đi bán (Tam tạng, quyển 28 trang 226).
5 - DHÀTU ANTARADHÀNA: là tiêu hoại xá lợi, hiện
nay xá lợi rãi rác khắp nơi cho chư Thiên và nhân loại chiêm bái, khi đúng
5 ngàn năm thì tất cả những xá lợi ấy bay về đóng thành khối, hoá
thành 1 vị Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng (BUDDHAGAYA) tại Trung Ấn Độ,
thuyết pháp độ chúng sanh đắc thành đạo quả vô số kể trong 7 ngày rồi
lửa tự nhiên trong kim thân phát cháy tiêu Xá lợi. Kể từ ấy, giáo pháp
ngài hoàn toàn tiêu diệt.
Sau khi mãn thời kỳ Phật pháp rồi,
tâm chúng sanh không phân biệt tội phước chi cả, lần lần hung dữ độc
ác, tuổi thọ lại giảm lần lần xuống cho đến khi 10 tuổi hoặc ít hơn
chút ít. Như hiện nay ai biết lo tu hành, đức hạnh hiền từ, thì người
ta khen ngợi, trái lại lúc ấy chúng sanh ai hung dữ độc ác, bất lương
thì người lại khen (mà ác thì dễ làm hơn thiện) nên con người càng
ngày càng hung dữ, nhìn nhau như các loài thú dữ muốn cắn nhiều xé ăn
thịt nhau. Lúc ấy sanh lên một trận tàn sát lẩn nhau (SATTHANTARA KAPPA -
Tam tạng quyển 18, chư Thiên, trang 148), thây chết đầy đặc trên quả địa
cầu, chỉ còn lại ít người lương thiện không ưa thích sự sát hại, chạy
trốn vào rừng sâu núi thẩm, khi yên trận tàn sát ấy rồi, ra ngoài gặp
ai còn sót lại, cũng đồng xin đừng sát hại lẫn nhau nữa (đã giữ được
1 giới sát sanh) nên con những người ấy tuổi lên được 20 hoặc 25 tuổi,
rồi lại hứa không lấy của ai (lại giữ giới không trộm cắp) những
người con cháu lại thêm tuổi lên đến 50 năm, cứ thế mãi lần lần giữ
cả ngũ giới là không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo, uống rượu
thì tuổi thọ của những con cháu sau sau ngày càng càng thêm lên mãi cho đến
tuổi 1 A-tăng-kỳ năm mới chết.
Sống mãi không chết cũng chán, mới
có 1 hạng người nói rằng mình làm theo ông bà hoài nên không thấy ai chết
hết, lại bắt đầu sát sanh nên con cháu lại hạ xuống còn nữa A-tăng-kỳ
rồi lần lần bỏ bớt giới hạnh thì tuổi lại càng hạ xuống mãi mãi
cho đến khi chúng sanh tuổi còn 10 muôn năm.
Lúc ấy Đức Phật Di Lặc mới giáng
sanh dạy đạo. Ngài giáng sanh tại xứ KETU METTÌ, cha tên SUBRAMA, mẹ tên
BHRAMAVATÌ, lúc ở thế có 30 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm
rồi chán nản xuất gia, lúc xuất gia thì bay cả lâu đài có vô số vua,
chư hầu và quan quân đồng xuất gia theo ngài hành đạo, trong 7 ngày thì
đắc quả dưới cây Mù u, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 44 thước. Ngài
dòng Bà-la-môn, hào quang ở nơi ngực, hai bàn tay và đầu gối ngài sáng
ra cả ngày và đêm thấu đến 10 thế giới sa bà, người ta không thể
phân biệt ngày đêm vì hào quang che lắp cả mặt trời và mặt trăng, người
ta chỉ thấy bông nở hoặc tàn, hoặc là nghe tiếng gà gáy mà phân biệt
ngày đêm luôn luôn cho đến khi ngài nhập diệt. Ngài đã thực hành tu 10
pháp Ba-la-mật 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
Này Xá Lợi Phất, Như Lai chỉ kể
về 1 pháp Ba-la-mật của Ngài là: có 1 kiếp sanh làm Chuyển luân vương tên
SANGHA CAKKA. Bồ-tát có 7 báu trị vì thiên hạ 101 nước chư hầu trên thế
giới, khi hay tin một vị sa di cho hay rằng có Đức Phật, Pháp, Tăng đã
ra đời, Ngài vui mừng đến ngất người ba lần, sau lại bố thí ngôi
báu, cho ông sa di ấy, bèn đi chân không đến nơi Phật ngự, đi một ngày
đầu lỡ cả hai chân, máu chảy ròng ròng đi không được nữa, qua ngày
sau ngài bò bằng hai tay và hai đầu gối, được 1 ngày cũng chảy máu cả,
qua ngày sau ngài bò không được bèn trường đi bằng ngực, lả ngực máu
chảy ròng ròng, không thể trường được nữa, nhưng chưa gặp Đức Phật,
chỉ mới nữa đường.
Lúc ấy Đức Phật SIRIMATTI biết
được bèn hóa ra người đánh xe chạy tới bảo tránh, Bồ-tát nói tôi
không thể nào tránh được vì mình mẩy lở hết. Đức Phật bèn hỏi người
đi đâu. Bồ-tát nói tôi muốn đi gặp Phật. Đức Phật nói: thôi để tôi
đưa dùm cho. Rồi ngài xuống xe bồng Bồ-tát để lên xe giả. Đánh xe 1
chút thì nói đây tới cửa chùa, mời ông xuống, lúc ấy có vị trời Đế
Thích biết được bèn mang 1 gói cơm và 1 bầu nước tới cho, phần thì bịnh
và đói nên lảnh cơm nước, khi thọ thực xong thì tất cả vết thương
đều lành lại hết và khỏe mạnh lại như thường. Bèn vào yết kiến Phật
nhằm lúc đang thuyết pháp người ta hằng vạn vạn, nhưng êm như tờ. Bồ-tát
vào đãnh lễ xong xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe, khi nghe được một câu
kệ lại bạch Phật xin ngừng để ngài bố thí pháp. Ngài bèn lấy móng
tay nguyện bén như gươm rồi cắt lấy đầu mình để trên hai bàn tay mà
cúng dường cho Pháp bảo, sau khi Phật thuyết xong thì ngã xuống chân ngài
mà chết. Nầy Xá lợi phất, vì Bồ-tát không kể đến thân mình bò trường
đến lở hết, nên khi thành chánh quả có hào quang túa ra nơi ngực, hai bàn
tay và hai đầu gối luôn luôn thấu đến 10 ngàn thế giới và không tiếc
mạng sống, dám bố thí cho pháp bảo nên khi thành chánh quả tuổi thọ đến
8 muôn năm.
Sau khi Đức Phật Di Lạc nhập diệt
rồi thì tuổi thọ chúng sanh càng ngày càng giảm xuống cho tới khi tuổi
chỉ còn 10 năm là già rồi, lần lần không còn chúng sanh nào sanh lên quả
địa cầu cả. Trước khi 100.000 năm tới kiếp hoại thì chư thiên bay
trên không trung kêu la báo tin cho biết còn mấy năm nữa thì sẽ tiêu hoại
quả địa cầu. Khi ấy chúng sanh sợ sệt chán nản, ai ai cũng ráng lo tu
hành lần lần sanh về cõi trời dục giới, chư thiên ở cõi trời nầy cũng
hải hùng kinh khủng quả địa cầu cháy thì cũng cháy luôn cả 6 từng trời
dục giới và 2 cõi trời sắc giới là: PÀRISAJJÀ và POROHITTA nữa, nên
kinh sợ rồi ráng tham thiền cho đắc các cõi thiền bực trên, cho đến
khi sanh về hết trên cõi trời sắc giới. Khi quả địa cầu không còn ai
ở nữa thì mặt trời lần lần mọc lên 2 mặt trời, 1 thời gian thật
lâu, lại mọc lên 3, 4, 5, 6, 7 mặt trời thì lúc ấy bấy giờ nước biển
khô khan không còn 1 giọt. Chừng ấy, lửa phát lên cháy cả quả địa cầu
rồi tiêu hoại và cháy luôn cả 6 cung trời dục giới và 2 cõi trời sắc
giới từng dưới chót. Kể từ đó chỉ còn khí hư u minh cho đến khi cấu
tạo quả địa cầi mới khác. Từ đó 1 thời không gian là A-tăng-kỳ kiếp
không có vị Phật tổ nào ra đời dạy đạo cả.
-oOo-
Kế sau đó có quả địa cầu có 2
vị Phật tổ giáng sanh là: RÀMADEVA và DHAMMARÀJÀMUNI.
Vị thứ nhất tên RÀMADEVA khi thấy
4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới gốc cây thị, tuổi thọ
9 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang túa ra sáng khắp cả thế giới
luôn luôn ngày đêm chớp nháng tới lui trên hư không chẳng ngừng nghỉ.
Do nhờ pháp Bà-la-môn có cây Như ý thọ (Kàlabriksa) mọc lên rất nhiều
để cho chúng sanh cần dùng. Cây như ý thọ này có mãnh lực phi thườøng,
là bất cứ ai muốn điều chi, như y phục, vật thực, đồ trang điểm chi
chi... lại tới cây ấy ước thì sẽ được theo như ý muốn. Đây là nhờ
pháp nguyện lực Ba-la-mật của Đức Phật. Cho nên, chúng sanh lúc ấy khỏi
cực nhọc nên ai ai cũng đều tu hành, vì chúng sanh nào sanh ra kịp Phật
thì ngài độ tận chúng sanh, ít lắm cũng được sanh về cõi trời hết
thảy.
Nói về 1 pháp Ba-la-mật của ngài:
có 1 kiếp sanh ra tên là NÀRADA gặp Đức Phật KASSAPA (Ca diếp) ra đời, vào
nghe pháp thấy hào quang trong mình Đức Phật phóng ra sáng ngời rực rở
bèn phát tâm trong sạch bố thí mạng sống mình, cúng dường cho Phật và
nguyện cho thành 1 vị chánh giác có nhiều hào quang như ngài. Nguyện xong
liền lấy miếng vải nhúng dầu quấn vào mình đốt lên cúng dường cho
Đức Phật. Khi lửa cháy lên thì mùi bay lên thơm bát ngát. Khi cháy xong chổ
ấy mọc lên 1 bông sen bằng ngọc, mọi người đều cho là ông NÀRADA sẽ
thành một vị Phật tổ như ý nguyện.
-oOo-
Kế sau đó, Đức Phật DHAMMARÀJÀ-MUNI
(chính là đức vua Ba tư nặc, PASEMANDI KOSALA) khi thấy 4 điềm rồi chán nản
xuất gia, đắc đạo dưới cây Dừng, tuổi thọ 5 muôn năm, bề cao ngài 8
thước. Khi ngài đi đâu mỗi bước đều có bông sen bằng bánh xe mọc
lên đở bàn chân ngài, khi ngồi thì có bông sen bằng 7 thứ ngọc mọc
lên làm bảo tọa cho ngài ngồi. Do nhờ pháp Ba-la-mật của Đức Phật mà
có cây Như ý thọ mọc lên rất nhiều để cho bá tánh cần dùng có đủ
thực phẩm và đồ trang sức.
Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp
ngài sanh làm người nghèo khổ lắm, tên là SUDDHÀ MÀNAVA, ở mướn coi giữ
ao sen cho người. Họ cho phép mỗi bữa chỉ được hái 2 bông sen đổi gạo
mà chỉ độ thôi. Một hôm đang đem 2 bông sen đi bán gặp Đức Phật KONÀGAMANA,
Đức Phật thấy bèn chúm chiếm cười. Y liền bạch Phật tại sao ngài cười.
Phật đáp: Người là em ta, vì ta đã thành Chánh giác, còn người sẽ thành
Chánh giác trong ngày vị lai vậy. Nghe xong hết sức vui mừng, tính nhịp đói
bữa đó để đem 2 bông sen dâng cho Phật và nguyện cho thành Chánh giác như
ngài. Đức Phật thọ lấy bông sen và trãi ra ngồi lên trên. Thấy nắng lắm
ngài bèn nguyện cho đừng nắng Đức Phật . Liền khi ấy có 4 cây mọc
lên và 2 khổ vãi kết thành một tấm trần che Đức Phật cho khỏi nắng.
Đức Phật bèn cầu chúc và thọ ký cho. Khi ấy tất cả chư thiên và phạm
thiên nghe Đức Phật cầu chúc thì đều đồng nhau hoan hô và cầu chúc
theo, tiếng nghe rền vang inh ỏi cả trời. Do sự hy sinh nhịn đói ấy nên
khi thành chánh quả có cây như ý thọ mọc lên có đủ vật thực cho chúng
sanh dùng và bố thí bông sen cho Phật, nên sau thành chánh quả, đi mỗi bước
đều có bông sen mọc lên đở bàn chân ngài.
-oOo-
Kế tiếp, quả địa cầu sau có 1
vị Phật tổ ra đời tên là DHAMMASÀMI (chính là Ma vương thành Phật vậy)
khi còn Bồ-tát thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây
long thọ (SALA) tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong
mình Phật luôn luôn phóng ra sáng ngời như mặt trời mặt trăng, luôn
luôn chớp nhoáng tới lui không ngớt. Do nhờ pháp Ba-la-mật, khi Đức Phật
đi, đứng nằm ngồi đều có cây lọng bề cao 16 do tuần che ngài luôn,
và có hầm vàng hầm bạc mọc lên để cho chúng sanh cần dùng.
Nói về một pháp Ba-la-mật: khi ấy
tiền kiếp ngài sanh lên tên là BODHINÀMA làm quan đại thần. Một hôm Đức
Phật Ca Diếp (KASSAPA) nhập đại định, đức vua trong xứ ấy hay bèn cho
quan quân canh giữ không cho ai được phép làm phước tới Đức Phật khi
ngài xả định, nếu ai phi phép thì bị xử trảm. Lúc ấy vị đại thần
BODHINÀMA bèn biểu vợ con sửa soạn thực phẩm và 1 lá y định đem dâng
cho Đức Phật. Sáng ra ông đem vật thực và lá y tới trước chùa thấy
quân lính bao vây dày đặc, thấy ông đem đồ lại thì hỏi ông thì ông
nói thật rằng đem đồ dâng cho Phật, quân lính liền bắt ông đem về
cho vua, vua truyền lịnh xử trảm. Lúc ấy Đức Phật vừa xả định biết
được liền phóng hòa quang ra cho vị ấy thấy ngài ở trước mặt, ông rất
mừng và đem vật thực và lá y dâng cho Phật, Đức Phật có vỗ đầu
ông và nói xin cho nhà ngươi vô hại, rồi ngài thọ thực. Vị quan ấy
dâng xong nguyện cho thành được 1 bậc chánh giác trong thời vị lai. Đức
Phật thọ ký cho vừa xong thì quân lính đem ông ra xử trảm. Lúc chém ông
thì mặt đất rung rinh làm cho đền đài nhà vua đều sụp đổ. Vua sợ hải
bèn truyền lệnh cho đóng mấy cửa thành. Lúc ấy chỗ chém Bồ-tát liền
mọc lên một tòa lâu đài bằng 7 thứ ngọc có 1 ngàn tiên nữ chầu chực
và 16 hầm vàng bạc mọc lên 4 góc thành và cây Như ý thọ cũng mọc lên
do oai lực phước báu của Bồ-tát. Còn vị quan ấy thì sống lại như
thường, tuổi được 5 trăm, có cả vợ con và quan quân hầu hạ. Do phước
báu liều mạng sống dâng cơm cho Phật, khi sanh ra kiếp nào cũng có thứ
lúa sali mọc lên hằng hà sa số cho bá tánh gặt, cần dùng bao nhiêu cũng
không hết.
-oOo-
Sau khi ấy, có 1 quả địa cầu có
2 vị Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tênlà NÀRADA (chính là RAHULA ASURIN
là chúa của bọn ATULA thành Phật). Khi ấy thấy 4 điềm rồi chán nản bỏ
nhà xuất gia, đắc đạo dưới cây trầm hương, bề cao ngài 60 thước. Hào
quang phóng ra luôn luôn như chớp nháng, có thứ hào quang hình như bông sen
sáng ngời phóng ra quanh quẩn luôn chung quanh Đức Phật. Do phước Ba-la-mật
của Đức Phật mà mặt địa cầu trở thành thực phẩm, có 7 vị ngọt
ngon chúng sanh móc lấy mặt đất mà dùng như vật thực.
Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1
kiếp Bồ-tát sanh ra làm vua tên SIRIGUTTA có 8 vị Bà-la-môn tới nghe về
pháp nguyện thành một Bà-la-môn cho vua nghe, rồi xin ngài cho ngôi vua, đức
Bồ-tát cho hết rồi dẫn vợ và 2 con đem ở trên núi và thọ trì 6 giới
theo các đạo sĩ và ẩn tu nơi ấy. Lúc ấy, có 1 con Dạï xoa bề cao 60 thước,
tới trước mặt Bồ-tát xin 2 đức con để về ăn thịt. Bồ-tát liền
cho 2 đức con và nói tôi đã ăn 7 con tượng, 14 con ngựa, 20 con thú rừng
mà còn đói lắm xin ngài tội nghiệp cho 2 đứa con để ăn thịt. Bồ-tát
liền cho 2 đứa con cho chằng rồi nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ
tận chúng sanh. Lúc ấy mặt địa cầu rung rinh, rúng động, tất cả chư
thiên và phạm thiên đều vỗ tay hoan nghênh sự toàn thắng của Bồ-tát,
tiếng nghe vang rền cả trời, lại giông mưa sấm chớp gầm thét nghe inh
ỏi. Vừa lúc con Dạï xoa đem 2 đức con ra sau sala ngài mà ăn tươi nuốt
sống, vừa cho Bồ-tát ngó thấy, nhưng ngài không buồn giận, lại vui
thích với phước báu ngài đã làm (lời soạn giả, chúng ta phần đông đều
nói từ bi, tội nghiệp mà chỉ từ bi với vợ con mình thôi, còn vợ con
người có điều chi khổ sở, mình chỉ lấy con mắt ngó mà cười, chớ
không tội nghiệp. Đừng nói chi tới bố thí vợ con cho người, mà dầu
có ai rũ đi xuất gia tu hành, thì nói tôi vì lòng từ bi, tội nghiệp vợ
con bỏ đi không đành, nói nghe cho cao thượng, chớ không lẽ nói mình vì
quyết luyến hoặc vì ái tình mà dứt bỏ đi không được thì sợ thẹn.
Còn trái lại các vị Bồ-tát ngài không vì từ bi, tội nghiệp vợ con
mình, mà lại từ bi thương xót tất cả chúng sanh hơn là thương mình và
vợ con mình. Vì thấy cái khổ chúng sanh chịu không được rồi không nghĩ
tới mình hoặc vợ con mình mới dứt bỏ mà bố thí được).
-oOo-
Kế sau đó Đức Phật RANGSI MUNI
(chính là SONABRÀHMA), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo
dưới cây sơn, tuổi thọ 5 ngàn năm, bề cao ngài 30 thước. Hào quang trong
mình Phật phóng ra luôn luôn, lúc ban ngày thì màu vàng, ban đêm thì màu
xanh, sáng ngời như ngọc, nhờ hào quang của Đức Phật nên chúng sanh khi
ấy màu da đẹp như vàng ròng, không dơ bẩn. Nhờ pháp Ba-la-mật của Phật
mà chúng sanh chỉ lấy hột bông cải trồng xuống rồi mọc lên đủ thứ
vật thực phẩm và đồ vật dụng đủ thứ không thiếu món chi.
Nói về một pháp Ba-la-mật của
ngài: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm người lái buôn tên MÀGHA MÀNAVA rất
thông thạo về nghề buôn bán một lời mười, nhưng 4 lần bị tai hại là
bị chìm thuyền, nhà cháy, cướp giựt, sau lại bị nhà vua tịch thâu gia
sản. Bồ-tát chán nản, bỏ đi chỉ lấy được 1 lá y vàng và 10 muôn lượng
vàng đem theo để làm vốn. Gặp một vị tỳ khưu Thượng thinh văn của
Đức Phật KAKUSANDHA nhập đại định 7 ngày, MÀGHA MÀNAVA trong sạch đem y
và của bố thí hiến cho ngài và nguyện cho thành vị Phật tổ để độ
tận chúng sanh. Vị A-la-hán cầu chúc xong chổ ấy bèn mọc lên một cây
như ý thọ có 1 cái đền bằng ngọc cho ông ở nơi ấy.
-oOo-
Kế quả địa cầu sau đó có 2 vị
Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên DEVADEPA (chính là SUBHA BRAHMA) khi thấy
4 điềm bèn chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Cầy, tuổi thọ 8
muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong mình Phật túa ra luôn luôn
màu vàng rực rở do nhờ phước Ba-la-mật của Phật mà bụi trần trên mặt
đất biến thành gạo sali và cây như ý thọ mọc lên có đủ thực phẩm
cho chúng sanh dùng.
Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp
Bồ-tát sanh làm tượng (voi chúa) tên là CHADANTA có 6 ngà, gặc xác một vị
A-la-hán nhập Niết bàn gần chổ ở, bèn nguyện cưa trên hư không rớt xuống
rồi cưa ngà làm chổ để thiêu xác vị A-la-hán ấy và làm phước trong 7
ngày rồi nguyện cho thành Phật tổ, sau khi mãn kiếp ấy liền sanh về
cung trời Đâu suất.
-oOo-
Kế sau đó Đức Phật NARASI MUNI
(chính là TOTÌ BRAHMA thành đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất
gia, thành đạo dưới cây cẩm lai, tuổi thọ 80 năm, bề cao ngài 30 thước,
hào quang trong kim thân Phật túa ra luôn ban ngày ánh sáng như ngọc mani trắng,
ban đêm thì màu vàng rực rở. Do phước Ba-la-mật của ngài, có lúa sali
và cây như ý thọ mọc lên để cho bá tánh cần dùng, người ta lúc ấy
do hào quang của Phật mà màu da như vàng ròng. Khi Đức Phật ngự nơi nào
đều có cây lọng bằng bảy thứ ngọc báu cao 3 do tuần luôn luôn ở
trên hư không, che Đức Phật.
Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1
kiếp Bồ-tát sanh làm NANDA MÀNAVA, gặp Đức Phật độc giác bèn phát tâm
trong sạch đem y cà sa đáng giá 100.000 đồng, dâng cho ngài và nguyện cho
thành 1 bực chánh giác để độ tận chúng sanh.
Sau khi Đức Phật NARASI MUNI nhập
diệt rồi có 1 thời không gian là 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có Đức
Phật nào ra đời.
-oOo-
Kế sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời,
vị thứ nhất tên là TISSA (chính là voi NÀLÀGIRI thành đạo), khi thấy 4
điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây da, tuổi thọ 8 muôn
năm, bề cao ngài 40 thước.
Hào quang trong mình Phật phóng ra đủ
thứ, có thứ sángrực như lữa cả ngày và đêm, có thứ trắng xóa nhìn
giống như chiếc thuyền, có thư như cây lọng, có thứ như cây phướn, có
thứ túa ra theo 1000 lông mày của ngài, luôn luôn quay cuộn theo ngài. Do phước
Ba-la-mật của ngài có nhiều cây như ý thị mọc lên có đủ thực phẩm
và đồ trang sức cho chúng sanh dùng theo ý muốn.
Nói về một pháp Ba-la-mật: Có 1
kiếp ngài sanh làm vua tên DHAMMA SENA một hôm đi dạo vườn hoa với 2 con và
vợ, có hai con Dạ xoa tới xin đứa con, khi về gần tới thành có 1 ông
già lụm cụm tới xin hoàng hậu. Đứùc vua cho luôn, ông than mình nghèo khổ
không có chi nuôi bà, vua bèn cho cả ngôi báu cho ông già ấy. Khi tôn vương
xong, đức Bồ-tát bèn xuất gia theo đạo sĩ, đắc các pháp thần thông.
Một hôm nghe tin Phật KONÀGAMANA ra
đời bèn bay tới đãnh lễ nghe pháp. Khi Đức Phật thuyết được một câu
kệ thì ông xin Phật nghỉ, để ông bố thí pháp bảo, bèn lấy móng tay,
nguyện cho bén như gươm cắt đầu bố thí pháp và nguyện cho thành 1 vị
Phật tổ để độ chúng sanh thoát khỏi khổ, lúc ấy toàn thể địa cầu
đều rung rinh lạ lùng ghê gớm.
-oOo-
Kế sau đó, có 1 vị Phật tổ ra
đời tên là SUMANGANA (là voi tượng PÀLILÀYA thành đạo) khi thấy 4 điềm
rồi chán nản xuất gia dưới cây Mù u, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao Đức
Phật 30 thước, hào quang Đức Phật phóng ra luôn luôn quanh quẩn theo
ngài, ban đêm thì màu trắng ngời như bạc, ban ngày thì màu sáng ánh như
vàng ròng. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây như ý thọ mọc
lên, có đủ thực phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùm không thiếu
món chi, người ta lúc ấy sung sướng vô cùng, nhu cảnh trời vui mừng hát
múa theo những tiếng nhạc du dương khi gió cuốn đưa chạm vào lá những
cây như ý thọ ấy.
Nói về 1 pháp Ba-la-mật: khi ngài
còn làm Bồ-tát, có 1 kiếp sanh làm chuyển luân vương, Bồ-tát có báu
giàu sang trong 4 biển. Một hôm vua sai vị bá hộ bảo đi tìm vàng ngọc,
ông đi tới một nước kia, khi hay tin Đức Phật KAKUSANDHA, đã ra đời,
ông bèn vẽ hình Phật và về tâu cho vua nghe tự sự, vua hềt sức vui mừng
đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại ngài bèn nhường ngôi cho vị bá hộ
ấy vì có công cho ngài hay tin Đức Phật ra đời, rồi ngài đi chân không
tới 1 cây đại thọ ngồi nghỉ, rồi thành tâm đãnh lễ Đức Phật từ
phương xa và nguyện 8 món đồ xuất gia bay tới cho ông. Đức Phật biết
được tâm ông bèn sai 8 món phụ tùng bay đi tới chổ vua nghĩ, vua rất
vui mừng và thọ lãnh xuất gia tại chổ ấy. Đoạn ông lấy mão ngọc thảy
lên không trung và sai đi bạch Phật rằng: ông đã xuất gia và đi đến đãnh
lễ Phật. Mão ấy bay đến nơi Phật ngự và bạnh y như lời vua sai, rồi
đức vua lần vào xóm đi khuất thực xin ăn, độ xong, tham thiền và đắc
thiền, rồi bay tới nơi Phật ngự. Khi tới chùa gặp Phật, hết sức vui
mừng đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại xin Đức Phật thuyết pháp cho
nghe được 1 câu kệ, bèn xin Đức Phật ngưng thuyết để cho ông bố thí
pháp bảo, vì pháp bảo quý giá, vô giá, rồi ông lấy móng tay nguyện cho
bén như gươm cắt đầu mình để lên 2 bàn tay mà bố thí pháp cho Đức
Phật và nguyện xin cho đắc thành chánh quả để độ tận chúng sanh, Đức
Phật thọ ký cho.
-oOo-
Đức Phật Thích Ca bèn giảng giải
thêm cho Xá Lợi Phất rằng: - Này Xá Lợi Phất, nếu ai chưa đắc đạo
quả trong giáo pháp của Như Lai thì nguyện cho đắc đạo quả trong thời
kỳ của 10 vị Phật tổ sau này sẽ được y như nguyện không sai vậy.
(Theo Chú giải, như ai tạo được phước lành
là bố thí, trì giới, thì nên nguyện như vầy: IDAM VATTA ME PUNNAM
ÀSAVAKKHAYO VAHAM HOTU ÀGÀGATE; nghĩa: do sự phước báu mà tôi đã làm đây
xin kết được duyên để diệt tận các pháp trầm luân trong ngày vị lai.
Khi đã nguyện như thế thì thế nào cũng gặp được 1 Đức Phật trong ngày
vị lai chẳng sai vậy.)
Này Xá Lợi Phất, chư Bồ-tát đã
được thọ ký 10 vị còn 500 vị nữa pháp Ba-la-mật chưa tròn đủ nên chưa
có Đức Phật nào thọ ký cho.
10 HUỆ LỰC
Tất cả chư Phật đều có 10 huệ
lực như nhau, có 32 tướng lạ in nhau, có 3 ân đức và 8 cái minh (cái
giác) và 15 cái hạnh in nhau hết thảy.
10 huệ lực ấy là:
1- THÀNÀTHÀNA NÀNA: huệ biết rõ cái nhân để
đưa chúng sanh đến chổ vui hoặc khổ đúng theo sự thật.
2- VIPÀKA JÀNANA NÀNA: huệ biết rõ cái quả của
chúng sanh trong quá khứ, vị lai và hiện tại đều do nghiệp lành hoặc dữ
mà trả quả.
3- SABBATTHA GÀMINÌ PATIPADÀ NÀNA: huệ biết rõ tất
cả các pháp hành-vi thế nào để đưa chúng sanh đến chổ vui hoặc khổ
trong tam giới.
4- NÀNÀDHÀTU JÀNANA NÀNA: huệ biết rõ tất cả
nguyên chất khác nhau là: chất đất, nước, gió, lữa, hư không và chất
thức v.v....
5- NÀNÀDHIMUTTI NÀNA: huệ biết rõ tất cả
chúng sanh có căn cơ thấp hèn hay cao thượng.
6- PAROPARIYA NÀNA: huệ biết rõ biết rõ tất cả
chúng sanh đều có tư cách và trình độ khác nhau.
7- JHÀNA VIMOKKHA SAMÀPATTI NÀNA: huệ biết rõ tất
cả sự trong sạch hay dơ bẩn các sắc thiền và sự giải thóat.
8- PUBBENIVÀSÀNUSSATI NÀNA: huệ biết rõ tất cả
những tiền kiếp của mình và của chúng sanh tới vô lượng vô biên kiếp,
khi sanh ra dòng giống thế nào, tên họ chi, hình dáng ra sao, vui khổ thế
nào đều biết rõ không sai v.v...
9- CUTÙPAPÀTANNÀNA: có huệ nhãn biết rõ tất cả
sự sanh tử luân hồi của chúng sanh đều do theo duyên nguyện lành dữ cấu
tạo.
10- ÁSAVAKKHAYA NÀNA: huệ biết rõ tất các các
pháp trầm luân (là pháp làm cho chúng sanh chìm đắm mãi mãi không thoát khỏi
khổ) và diệt tận các pháp ấy, không cho phát sanh lên nữa.
32 TƯỚNG LẠ:
1 - SUPATITTHITA PÀDÀ: hai lòng bàn chân bằng phẳng,
phần đông phần bàn chân đều hủng (trủng vô) người lòng bàn chân ít
hủng là người ít phiền não.
2 - ÀHIKO PANASSA PÀDATALESU CAKKÀNI: 2 lòng bàn
chân đều có 2 bánh xe có 1000 cây căm.
3 - AYATAPANHI: gót chân thật dài bằng 3 lần của
người bậc trung.
4 - DÌGHANGULI: ngón tay và ngón chân thật dài và
nhọn lần như dùi trống.
5 - MUDUTARUNA HATTHAPADO: bàn tay và bàn chân thật
mềm mại.
6 - JALA HATTHAPÀDO: 2 bàn tay và bàn chân có chỉ
lẫn lộn như lưới giăng thật đẹp.
7 - USSANKHAPÀDO: cổ chân nổi lên rõ rệt trên lưng
bàn chân.
8 - ENIJANGHO: ống quyển dài và tròn như ống chân
con nai.
9 - THITAKOVA ANOMAMANTO: 2 cánh tay thật dài, ngài
đứng không cuối xuống nhưng 2 bày tay rờ tới đầu gối
10 - KOSOLITA VATTHAGUYHO: ngọc hành (dương vật)
ẩn vào trong bọc da (như dương vật con bò).
11 - SUVANNO VANNA: màu da ngài sáng như vàng ròng
(kim thân)
12 - SUKHUMACCHAVI: da thịt mịn, bụi rớt không
dính được.
13 - EKEKALONG: mỗi lỗ chân lông chỉ mọc 1 sợi
lông đều nhau mỗi lỗ.
14 - UDDHAGGA LOMO: tất cả sợi lông đều dựng
đầu trở lên toàn màu xanh như bông biếc (người thườøng thì sợi lông
đều thòng xuống)
15 - BRAHMUJUGATTO: thân hình ngay thẳng giống như
mình trời Phạm thiên (đều đặn và ngay thẳng).
16 - SUTTUSSADO: có 7 chỗ thịt đều bằng phẳng
là: thịt cần cổ, thịt hai lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, và 2 chả vai đều
bằng thẳng đầy đủ chớ không hủng.
17 - SIHAPUBBADDHA KÀYO: có thân hình phía trước
giống như thân hình sư tử hẩu.
18 - PÌTANTARAMSO: thịt giữa khoảng hai chả vai
đều bằng phẳng.
19 - NIGRODHA PARIMANDALO: thân hình ngài giống như
cây da (là sải tay dài bao nhiêu là thân hình cũng cao in như vậy).
20 - SAMAVATTHAKKHANDHO: cần cổ đều và tròn trịa
21 - RASAGGA SAGGÌ: có 700 sợi gân thật nhỏ châu
đầu lại cuốn lưỡi ở cần cổ để lãnh lấy vị trần khi để vô lưỡi
liền đem khắp châu thân.
22 - SIHAHANU: có cằm tròn như cằm sư tử hoặc
giống như trăng bữa 12.
23 - CATTÀLÌSA DANTO: có 40 cái răng (hàm trên 20,
hàm dưới 20)
24 - SAMADANTO: những cái răng ấy đều đặn và
bằng nhau.
25 - AVIVARADANTO: những răng ấy đều khít nhau cả
26 - SUSUKKHA DATHO: 4 cái răng nhọn trắng và sạch.
27 - PAHUTAJIVATO: có lưỡi mềm thật dài và lớn,
có thể le ra che đậy cả mặt, hay là xỏ vào lỗ mủi hoặc lổ tai.
28 - BRAHMARASO: tiếng nói trong trẻo êm dịu như
tiếng đại Phạm thiên hay là chim KÀKAVEKA.
29 - GOPAKHUMO: những lông nheo giống lông bò con.
30 - ABHINÌLA NETTO HOTI: tròng con mắt xanh đậm
như mắt bò con.
31 - UNNÀ BHAMUKKHANATARO JÀTA: những lông mày màu
trắng, nghi thức mềm mại như bông gòn.
32 - UNHISASISO: cái trán và cái đầu tròn trịa
và tóc bao phủ đều khoanh lại phái nghi thức mặt coi như là đội mão.
CÁC PHÉP LẠ TỰ NHIÊN TRONG LÚC BỒ-TÁT
GIÁNG SANH
Tất cả Bồ-tát quá khứ, vị lai,
hiện tại, khi giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót đều tự nhiên có những
phép lạ xảy ra.
Khi Bồ-tát từ trên cung trời đâu
xuất giáng sanh vào lòng Phật mẫu thì toàn cả quả địa cầu đều rung
rinh chuyển động và hào quang sáng ngời chiếu cả 10 ngàn thế giới sa
bà, làm cho tất cả chúng sanh thấy nhau rõ ràng.
Có chúng sanh khi vào lòng mẹ, biết
ta đương vào lòng mẹ, nhưng khi ở trong bựng mẹ và khi lọt lòng mẹ
thì không biết mình, có chúng sanh khi vào cũng biết, khi ở trong bụng mẹ
cũng biết. Còn tất cả chư Bồ-tát thì khi vào lòng mẹ, khi ở trong bụng
và khi lọt ra khỏi lòng mẹ đều biết mình cả. Lúc ở trong lòng mẹ
thì luôn có 4 vị chư thiên hộ trì gìn giữ.
Chúng sanh khi ở trong bụng mẹ thì
2 tay nắm lại đở cằm, mặt day vào lưng mẹ, còn Bồ-tát ở trong bụng
mẹ thì day mặt ra phía trước, ngồi xếp bằng như vị pháp sư.
Khi Bồ-tát giáng sanh vào lòng mẹ
rồi thì từ ấy Phật mẫu không muốn người đàn ông nào gần gũi, chán
nản tình dục và tự nhiên nguyện giữ ngũ giới và thân thể hằng được
an vui mạnh khỏe. Khi Bồ-tát ở trong lòng thì Phật mẫu thấy rõ ràng như
ở ngoài, chúng sanh ở trong lòng mẹ khoảng 8, 9 tháng hoặc là 9 tháng 10
ngày, còn chư Bồ-tát thì chẳn 10 tháng mới ra khỏi lòng. Khi ra khỏi
lòng thì cũng như vị pháp sư từ trên pháp tọa ngay hai chân ra rồi đi xuống
(là khi sổ lòng hai chân ra trước). Đây là sự tự nhiên khi Bồ-tát lọt
ra khỏi lòng chưa rớt tới đất thì có 4 vị Phạm thiên ở trên cung
SUDDHÀVASA xuống đở lấy Bồ-tát ẳm đem lại trước mặt Phật mẫu mà
tâu rằng: Ngài đây là con cao thượng quý báu của ngài đã trổ sanh, rồi
mới để xuống đất. Bồ-tát đứng vững xong rồi đi 7 bước đều có
bông sen mọc đở lên bàn chân, day mặt về hướng bắc, nhìn khắp nơi,
chỉ tay thiên, chỉ tay địa và nói:
AGGOHAMASMI, JETTHOHAMASMI, SETTHOHAMASMI LOKASSA
AYAMANTIMÀ ME JÀTI NATTHIDÀNI PUNABBHAVOTI.
Trên trời dưới đất chỉ có ta đây là lớn, cao thượng và quý báu, kiếp
này là kiếp chót của ta vậy.