- Tìm hiểu về tín ngưỡng Di-lặc
- Thích Nguyên Hiền
Một nền văn hóa, sở dĩ gọi là lớn, là nhờ rất nhiều
yếu tố : Truyền thống lịch sử, ảnh hưởng sâu rộng, giá trị nhân văn
và sắc thái phong phú. Đối với những yếu tố trên, không kể tính địa
dư, văn hóa Phật giáo là một trong những nền văn hóa lớn nhất của
nhân loại.
Trong vườn hoa muôn màu muôn vẻ của tín ngưỡng Phật giáo,
đặc biệt có một hình tượng rất đẹp, rất vui, đó là hình tượng Đức
Di-lặc Từ tôn. Hình tượng Đức Di-lặc không những được tín ngưỡng
như một đấng Giáo chủ đương lai, một vị Bản tôn trong tu pháp, mà
còn là một giá trị mỹ học tuyệt vời được nhiều người biết đến.
Người ta có thể khó phân biệt được hình tượng Đức Bổn sư với Phật
Di-đà, Dược Sư, hay không phân biệt được các vị Bồ-tát Quan Âm với
Thế Chí, Văn-thù và Phổ Hiền, nhưng với hình tượng Di-lặc, dù một kẻ
ngoại đạo nhìn vào cũng biết ngay đó là Di-lặc. Hơn nữa, các hình tượng
Phật, Bồ-tát phần nhiều trang nghiêm, trầm lắng, riêng Đức Di-lặc thì
lại hoan hỷ, giải thoát khiến nhiều người thích chiêm ngưỡng như để
tìm một niềm vui.
Thầy tôi thường giảng giải hình tượng ngài Di-lặc bằng
một bài kệ mà tôi rất thích :
- Đức Di-lặc ngồi trơ bụng đá
- Thây bụi trần bám đã rồi rơi
- Mặc cho thế cuộc đầy vơi
- Dửng dưng như một nụ cười vô duyên.
Vâng ! Giữa bao nhiêu khổ đau thống thiết của đời sống,
một lần dừng lại ngắm nhìn hình ảnh của một người ngồi cười thật
là thoải mái, đôi mắt hoan hỷ như chưa hề biết đau khổ là gì, cái bụng
to đùng phơi trần ra cởi mở. Tôi vẫn thường gọi Ngài là "Ông bụng
bự vui tính", đôi lúc gặp ai đó trong cuộc đời có nụ cười hoan hỷ,
vui vẻ, tôi nghĩ họ là hiện thân của ngài Di-lặc. Cuộc đời vốn đã
đau khổ và rắc rối lắm rồi ! Trầm trọng làm gì, khúc mắc làm gì, cứ
mỉm cười nhẹ nhàng với một nụ cười vô tư dửng dưng trước đời sống,
âu đó cũng là hạnh phúc ?
Thầy tôi dạy : Cái bụng bự tượng trưng cho cái tâm trống
rỗng, năm đứa trẻ tượng trưng cho năm trần Sắc, thanh, hương, vị, xúc
(lẽ ra là sáu trần, nhưng do Pháp trần không có hình tướng nên không
được biểu hiện ở đây). Sáu trần này là sáu thằng giặc, đứa móc
mắt, đứa móc tai ..., tượng trưng cho phiền não ngoại trần quấy nhiễu,
nhưng không thể quấy phá được nụ cười an nhiên tự tại của "Người
rồi việc" (Liễu sự nhân). Đó là biểu hiện đặc sắc của hình
tượng này. Pháp tướng Duy thức tông tương truyền là do Bồ-tát Di-lặc
giảng thuyết, và Ngài là hình ảnh chứng minh hùng hồn nhất cho diệu lý
"Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" mà Ngài giảng nói. Chính vì
thế tín ngưỡng Di-lặc rất thịnh hành trong lòng Phật tử từ xưa đến
nay.
Ngày vía Di-lặc đặc biệt nhằm vào ngày mồng 1 tháng
Giêng, ngày đầu tiên của một năm mới, sáng mồng 1 chiêm ngưỡng đảnh
lễ hình tượng ngài Di-lặc tạo tâm lý tuyệt vời cho tất cả những ai
tin tưởng vào "năm mới vui vẻ". Do vậy các tượng đài lộ
thiên, ngoài Quán Thế Âm còn có hình tượng Di-lặc ở khắp mọi nơi. Hai
chữ Di-lặc đôi lúc đã biến thành một hình dung từ để tả niềm vui
hay sự hoan hỷ, như "Xuân Di-lặc", "Nụ cười Di-lặc",
"Cái bụng Di-lặc" ... Dân gian đã bình dân hóa hình tượng Ngài,
cho nên người ta không biết đâu là Phật Di-lặc hay Bồ-tát Di-lặc, có
lúc Di-lặc cũng chính là ngài Khế Thử, tức "Bố Đại Hòa thượng"
(Hòa thượng đeo bị vải), thậm chí có lúc người ta đồng hóa
Di-lặc với "Ông địa", "Thần tài", rồi thì nghệ thuật
điêu khắc nhảy vào, khiến đâu đâu cũng thấy tạo tượng Di-lặc bằng
gỗ, bằng đá, trên bàn thờ, trong tủ kính, trưng bày trong phòng khách,
ngay cả trên đầu giường. Cứ nhìn như thế đủ thấy tín ngưỡng Di-lặc
thịnh hành như thế nào. Thế nhưng, nếu hỏi Di-lặc là ai, ở đâu, thế
nào, hầu hết chỉ nhún vai cười đáp : "Ông bụng bự vui tính".
Để có một khái niệm rõ ràng hơn về Đức Di-lặc Từ tôn,
bài viết này xin trình bày sơ lược những tìm hiểu cạn cợt của mình,
giúp Phật tử có một khái niệm đúng đăn hơn về đấng Giáo chủ
đương lai của cõi Ta-bà.
Di-lặc - Truyền thuyết và lịch sử
Hai chữ Di-lặc là xuất phát từ tiếng Phạn Maitreya (Pàli
: Metteyya), Hán dịch là Từ Thị. Đây là vị Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ,
được Đức Phật Thích-ca thọ ký là sẽ thành Phật ở đương lai.
Theo Kinh Di-lặc Thượng Sanh và Kinh Di-lặc Hạ Sanh, vị Bồ-tát
này xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn, về sau làm đệ tử Phật, nhập
diệt trước Phật, dùng thân Bồ-tát trụ ở cõi trời Đâu Suất thuyết
pháp cho các vị trời ở cõi này. Theo truyền thuyết thì vị Bồ-tát này
vì muốn giáo hóa các chúng sanh nên từ lúc mới phát tâm đã không ăn thịt
chúng sanh, do nhân duyên ấy mà có tên là Từ Thị. Còn theo Đại Nhật
Kinh Sớ q.1 thì Từ Thị là lấy chữ Từ trong Tứ vô lượng tâm (Từ,
Bi, Hỷ, Xả) của Phật làm đầu, lòng Từ đó sanh ra từ chủng tánh
Như Lai, có năng lực làm cho tất cả thế gian không đoạn dứt Phật chủng,
cho nên gọi là Từ Thị (Thị là tộc chủng, là họ). Nói dễ hiểu,
Từ Thị (Maitreya) nghĩa là chủng tánh từ bi.
Đức Thế Tôn từng thọ ký : Hết thời kỳ con người sống
lâu 8.000 tuổi, Ngài hạ sanh xuống cõi Ta-bà này thành Phật dưới cội
Long Hoa, chia làm ba hội thuyết pháp. Do ý nghĩa Ngài thay Phật thuyết giáo
nên gọi là Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ (một đời nữa sẽ bổ xứ thuyết
pháp), khi thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai. Do vậy chúng ta thường
xưng lễ : Nam mô Đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật.
Về nhân vật lịch sử, theo phẩm Tùy Hỷ trong Kinh Pháp
Hoa q.6, Kinh Bình Đẳng Giác q.4, Di-lặc chính là A-dật-đa, một vị đệ tử
của Phật Thích-ca. Nhưng theo Kinh Thuyết Bản trong Trung A-hàm 13, Kinh Xuất
Diệu 6 và Luận Đại Tỳ-bà-sa 178, Di-lặc và A-dật-đa là hai nhân vật
khác nhau. Đây là một điểm mà chúng ta cần khảo cứu. A-dật-đa (Phạn
: Ajita) Hán dịch là Vô Thắng, Vô Năng Thắng hoặc Vô Tam Độc. Ngài
là một vị đệ tử Phật, từng lập chí đương lai sẽ thành Chuyển
luân thánh vương tên là Nhưỡng-khư (Samkha, Hán dịch : Loa). Trong
bài kệ tựa phẩm Bỉ Ngạn Đạo (Pàràyana) của Kinh Tập (Sutta -
nipàta) thuộc Đại Tạng Kinh Pàli đều nêu cả hai tên A-thị-đa (Ajita)
và Đế-tu Di-lặc (Tissametteyya), tức hoàn toàn cho đó là hai người
khác nhau. Trong phẩm ấy còn nêu cả hai kinh : Kinh A-thị-đa Vấn (Ajitamànapucchà)
và Kinh Đế-tu Di-lặc Vấn (Tissametteyyamànapucchà). Kinh Thuyết Bản
trong Trung A-hàm 13 và Kinh Hiền Ngu 12 thì cho rằng Tôn giả A-di-đá (Ajita)
ở đời vị lai lâu xa, khi con người sống 80.000 tuổi, nguyện thành Chuyển
luân thánh vương tên Loa. Tôn giả Di-lặc cũng nguyện ở đời vị lai, khi
con người sống đến 80.000 tuổi sẽ thành Phật, hiệu là Di-lặc Như Lai.
Luận Đại Tỳ-bà-sa 178 cũng ghi : "Tỳ-kheo A-thị-đa đối với các hữu,
khởi tâm ưa thích, khởi tâm thắng giải, khởi tâm hâm mộ, khởi tâm hy
vọng, khởi tâm tìm cầu nên Phật quở trách. Bồ-tát Từ Thị đối với
các hữu, không khởi tâm ưa thích cho đến không tìm cầu, đối với việc
làm lợi ích các loài hữu tình khởi tâm ưa thích cho đến tìm cầu, nên
Phật khen ngợi".
Theo đó thì Di-lặc và A-dật-đa là hai nhân vật khác nhau,
đều là đệ tử Phật, được Phật giáo hóa. Đây chỉ là vấn đề lịch
sử, sự lầm lẫn không có gì nghiêm trọng lắm. Điều khiến chúng ta dễ
ngộ nhận nhất là Bồ-tát Di-lặc và Luận sư Di-lặc, vị Thủy tổ của
Du-già Đại thừa, ra đời khoảng sau Đức Phật nhập diệt 900 năm. Đây
có phải là nhân vật lịch sử không ? Và chính vị này hay Bồ-tát Di-lặc
ở cung trời Đâu Suất giảng nói lý Du-già Duy Thức ?
Trong Đại Tạng Kinh bản Hán dịch ghi Bồ-tát Di-lặc là
tác giả của những bộ luận Du-già Sư-địa, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh
Luận Tụng, Biện Trung Biên Luận Tụng, Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật Kinh Luận.
Trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng ngoài các luận nói trên còn có ghi thêm Hiện
Quán Trang Nghiêm Luận, Pháp Tánh Phân Biệt Luận và Đại Thừa Cứu Cánh
Yếu Nghĩa Luận. Tương truyền Di-lặc là thầy của ngài Vô Trước, sáng
tạo ra lý Du-già Duy Thức và sau truyền trao cho Vô Trước. Theo Bà-tẩu-bàn-đậu
Pháp Sư Truyện, Vô Trước từng lên cung trời Đâu Suất thỉnh vấn Bồ-tát
Di-lặc về lý Không quán của Đại thừa, do đó mà xem Di-lặc cũng là thầy
của Vô Trước, còn người đời sau thì cho rằng Ngài chính là Đức Phật
Di-lặc trong tương lai. Đối với các bộ luận đã nêu trên, thực tế có
thể là do Vô Trước tóm thâu các học thuyết của tiên hiền mà tạm cho
là của Di-lặc sáng tác. Học giả Phật giáo nước Nga là E. Obermiller cho
rằng truyền thuyết như ngài Long Thọ nhờ Bồ-tát Văn-thù khải phát mà
trước tác các bộ luận, cũng vậy, ngài Vô Trước thì nhờ thần lực của
Bồ-tát Di-lặc ở cung trời Đâu Suất mà tạo luận. Học giả Nhật Bản
là Sơn Khẩu Ích dựa vào thuyết này mà cho rằng người chú thích, luận
thuyết các bộ luận đề tên ngài Di-lặc nói trên đều là do một mình
ngài Vô Trước làm cả, và ngài Di-lặc chỉ là người khải phát linh cảm,
và là một vị Phật Đương lai Nhất sanh bổ sứ. Học giả E. Lamotte đồng
ý luận thuyết này và bổ sung cho thuyết ấy được sáng tỏ. Ông cho rằng
kinh điển Đại thừa thành lập sau thường mượn lời bậc Thánh để
tăng thêm uy tín, cho nên nghi ngờ tính cách lịch sử của Di-lặc Luận sư
là đúng. Học giả Nhật Bản là Vũ Tỉnh Bá Thọ thì phản đối thuyết
này, ông cho rằng Luận sư Di-lặc là nhân vật có thật trong lịch sử, đã
sáng tạo giáo lý Du-già Đại thừa và Vô Trước chỉ là người viết lại
các luận nói trên mà thôi.
Sự khảo chứng của các học giả kể cũng khá nhiều, nhưng
vẫn không giúp chúng ta có cái nhìn chính xác đủ sức làm tin. Thực ra,
Di-lặc có phải là nhân vật lịch sử giảng nói Duy Thức cho Vô Trước
hay không, hay do Vô Trước lên cõi trời Đâu Suất thỉnh vấn không quan trọng
với chúng ta. Hoặc lịch sử hoặc truyền thuyết, Bồ-tát Di-lặc vẫn là
người giảng nói Duy Thức. Đó là điều chúng ta cần biết.
Trong Mật giáo, Bồ-tát Di-lặc là 1 trong 9 tôn vị ở Trung
đài của Mạn-đồ-la Thai Tạng giới, phía Đông bắc của Đại Nhật Như
Lai; còn trong Mạn-đồ-la Kim Cang giới, Ngài là 1 trong 16 tôn vị của Hiền
kiếp.
Nói chung, như trên chúng ta đã phát họa được danh hiệu,
trụ xứ, truyền thuyết và lịch sử của Bồ-tát Di-lặc. Nội dung chính
của bài viết này là tìm hiểu giá trị đạo lý của tín ngưỡng Di-lặc
qua kinh điển Phật giáo.
Kinh luận y cứ
Trong toàn bộ tín ngưỡng Phật giáo, không có tín ngưỡng
nào mà mơ hồ, thiếu gốc gác cả. Sở dĩ một truyền thống được bảo
lưu và phổ cập là nhờ giá trị nguyên thủy của nó, tín ngưỡng Di-lặc
cũng xuất phát từ rất nhiều kinh luận thành văn hẳn hoi chứ không phải
chỉ là niềm tin khống của dân gian.
Trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, kinh điển chính thức
nói về Di-lặc có đến 6 bộ. Sáu bộ kinh này thuật về việc sanh lên
cõi trời Đâu Suất, từ cõi trời Đâu Suất giáng sanh xuống cõi
Diêm-phù-đề, thành Phật, quốc độ, thời tiết nhân duyên, chủng tộc,
xuất gia, hành đạo và chuyển pháp luân của Bồ-tát Di-lặc. Chúng tôi
xin liệt kê 6 bộ kinh này để độc giả tiện lãm :
- Kinh Quán Di-lặc Thượng Sanh, do Thư Cừ Kinh Thanh dịch.
- Kinh Di-lặc Hạ Sanh, Cưu-ma-la-thập dịch.
- Kinh Di-lặc Lai Thời, không rõ dịch giả.
- Kinh Quán Di-lặc Bồ-tát Hạ Sanh, Trúc Pháp Hộ dịch.
- Kinh Di-lặc Hạ Sanh Thành Phật, Nghĩa Tịnh dịch.
- Kinh Di-lặc Đại Thành Phật, Cưu-ma-la-thập dịch.
Trong 6 kinh trên, ba bộ quan trọng nhất là 1, 4 và 6, được
gọi riêng là Di-lặc Tam Bộ Kinh. Các bộ kinh trên đều được xếp vào
Đại Chánh Tạng tập 14. Nội dung các kinh phần lớn giống nhau, có vài
kinh là đồng bản dị dịch. Ngoài ra cũng còn một số kinh khác nói về bản
nguyện của Phật Di-lặc, cộng lại thành hơn 10 loại. Chú sớ giải
thích các bộ kinh này thì rất nhiều, nổi tiếng là các bộ Di-lặc Kinh
Du Ý của ngài Cát Tạng, Di-lặc Thượng Sanh Kinh Tông Yếu của ngài
Nguyên Hiểu, Quán Di-lặc Bồ-tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên Kinh Tán của
ngài Khuy Cơ và Tam Di-lặc Kinh Sớ của ngài Cảnh Hưng. Tựu trung, 6 bộ
kinh trên được chia làm hai loại, đó là Thượng sanh và Hạ sanh. Ở đây
chúng ta chỉ tìm hiểu hai hệ thống chính liên quan đến tín ngưỡng mà
thôi.
1. Tín ngưỡng Thượng sanh : Tín ngưỡng Thượng sanh
cho rằng hiện nay Bồ-tát Di-lặc đang nói pháp trên cung trời Đâu Suất.
Các kinh điển Thượng sanh diễn tả tỷ mỷ về cõi trời này. Đây là tầng
trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục. Tuy là cõi Dục, nhưng cõi trời
này có những cái đặc thù mà các tầng trời khác không có. Thiên cung Đâu
Suất có hai phần là Nội viện và Ngoại viện. Thiên chúng ở Ngoại viện
vẫn hưởng thú vui ngũ dục nên dễ bị đọa lạc, chỉ có tại Nội viện,
nơi Bồ-tát Di-lặc đang thuyết pháp thì không khác cảnh giới Cực Lạc của
Phật A-di-đà. Nếu người phát nguyện vãng sanh về nội viện thiên cung
Đâu Suất, nhất tâm giữ giới tu thiện thì sau khi mạng chung sẽ được
vãng sanh.
Tín ngưỡng Thượng sanh có từ rất sớm ở Ấn Độ. Ở
Trung Quốc đầu tiên có ngài Đạo An (314 - 385), Đạo Kiểu, Tăng Nghiệp,
Huệ Nghiêm, Đạo Uông, Đạo Pháp, Pháp Thịnh, Đàm Phó, Đàm Võ … Đó
là những danh tăng có ảnh hưởng rất lớn giới Phật giáo đương thời.
Đến đời Đường, ngài Huyền Trang, Khuy Cơ cũng hoằng dương tín ngưỡng
Thượng sanh Đâu Suất và trở thành truyền thống của tông Pháp Tướng.
Trong các bộ sám văn được trứ tác thời kỳ này như Từ
Bi Tam-muội Thủy Sám Pháp, Lương Hoàng Sám, chúng ta thấy nói nhiều đến
tín ngưỡng Thượng sanh này. Từ đời Đường về sau, khi Kinh Di-đà được
dịch sang Trung Quốc thì có rất nhiều người phát nguyện sanh về Tây phương
Tịnh độ, do đó tín ngưỡng Thượng sanh Đâu Suất không còn thịnh hành
như xưa.
2. Tín ngưỡng Hạ sanh : So với tín ngưỡng Thượng
sanh, tín ngưỡng Hạ sanh lại rất phổ biến. Tín ngưỡng này cho rằng tương
lai Bồ-tát Di-lặc sẽ giáng sanh xuống cõi Diêm-phù-đề, thành Phật dưới
cội Long Hoa và thuyết pháp ba hội để cứu độ chúng sanh, vì thế có
thuyết "Long Hoa tam hội". Nếu chúng sanh tu tạo nhân duyên, phước
báo, trụ sanh ở Diêm-phù-đề khi Phật Di-lặc giáng sanh thì sẽ được
Phật giáo hóa. Tín ngưỡng này trông có vẻ dễ hơn Thượng sanh nên rất
hịnh hành. Đời Lưu Tống, vua Minh Đế (tại vị 465 - 471) soạn Long Hoa Thệ
Nguyện Văn; Châu Ngung soạn Kinh Sư Chư Ấp Tạo Di-lặc Tam Hội Ký; Văn
Tuyên Vương Tề Cánh Lăng soạn Long Hoa Hội Ký, ngài Nam Nhạc Huệ Tư soạn
Lập Thệ Nguyện Văn, tất cả đều nói về thuyết Di-lặc hạ sanh.
Do tín ngưỡng Hạ sanh được các vua chúa tôn sùng, nên việc
khắc tạo tượng Phật Di-lặc ở Trung Quốc phát triển cực thịnh. Tượng
Di-lặc được khắc tạc vào múi Thạch Thành cao đến hơn 300m vào đời
Nam Tề, Hiến Văn Đế đời Bắc Ngụy cũng tạo rất nhiều tượng Di-lặc
ở Vân Cương Đại Đồng, Long Môn … Việc tạo tượng Di-lặc ở Trung Quốc
cũng ảnh hưởng nhiều đến các nước Triều Tiên, Nhật Bản.
Nói chung, tín ngưỡng Hạ sanh quá thịnh hành, đưa đến một
vài tệ đoan đáng tiếc trong lịch sử phát triển tín ngưỡng, như ngụy
tạo kinh điển, tự xưng Bồ-tát Di-lặc giáng sanh để phục vụ mưu đồ
chính trị, hay cho rằng sắp tận thế, sắp đến hội Long Hoa, chúng tôi sẽ
chứng minh ở một phần khác.
Muốn tìm hiểu cặn kẽ và chính xác về các kinh, hàng hậu
học chúng ta không gì hơn là đọc ngay vào các bộ luận sớ, giảng nghĩa,
chú thích từng câu kinh Phật của chư Tổ. Hiện tại các kinh sớ về Di-lặc
ở Việt Nam chưa thấy có một bản dịch nào lưu hành. Chúng tôi mạo muội
đọc các bản chú sớ trong Đại Tạng Kinh rồi tóm lược vài ý chính mà
chúng ta cần biết. Như trên chúng tôi đã giới thiệu 4 bộ sớ quan trọng,
ở đây cũng xin dựa vào các bộ ấy để dẫn luận. Ba bộ sớ của ngài
Cát Tạng, ngài Khuy Cơ và ngài Tông Hiểu có nhiều điểm tương đồng. Bộ
của ngài Cát tạng (Di-lặc Kinh Du Ý) và bộ của ngài Tông Hiểu (Di-lặc
Thượng Sanh Kinh Tông Yếu) chia ra 10 môn để luận giải; bộ của ngài
Khuy Cơ (Quán Di-lặc Thượng Sanh Đâu Suất Thiên Kinh Tán) có 5 môn.
Việc tuần tự đúc kết từng môn của ba bộ luận này là quá lớn, quá
dài đối với phạm vi bài viết này. Chúng tôi chỉ dẫn dụng vài vấn đề
quan trọng, còn các chi tiết khác, độc giả có thể tìm hiểu bằng cách
đọc ngay trong chánh văn Kinh Di-lặc Hạ Sanh đã được dịch và in ở phần
sau một số Kinh Nhật Tụng.
Về danh hiệu, tác phẩm của ngài Cát Tạng nói : Một số
kinh ghi A-dật-đa là tên, Di-lặc là họ; hoặc A-dật-đa là họ, Di-lặc
là tên. Như vậy chúng ta dễ dàng nhận ra vì sao có sự nhầm lẫn giữa
hai vị đệ tử Tỳ-kheo của Phật, bởi lẽ có một vị có cái tên trùng
với họ của vị kia, cho nên để dễ phân biệt, trong kinh đã dùng chữ Từ
Thị (họ Từ) để chỉ Bồ-tát ở cõi Đâu Suất.
Về đại ý của kinh, ngài Tông Hiểu (Đại 38, 299 trung)
ghi : "Kinh này tán thán diệu tích của bậc chí nhân, là kinh điển chân
thật khuyến hóa chúng sanh tu tập quán pháp (khuyến vật tu quán chi
chân điển giả)". Về tông thể của kinh, tác phẩm của ngài Cát
Tạng (Đại 38, 263 hạ) ghi : "Nhiều thuyết phán giáo rằng : Kinh
Thượng Sanh lấy Đại thừa làm tông thể, Kinh Hạ Sanh lấy Tiểu thừa
làm tông thể. Vì thế trong Kinh Thượng Sanh có nói đầy đủ việc chứng
Lục độ, Tứ đẳng Bồ-tát hạnh, cũng có nói đủ Trung và Giả ( … ).
Kinh Hạ Sanh chỉ biện biệt ba phẩm ba tạng Giới Định Huệ, cho nên lấy
Tiểu thừa làm tông. Vì thế ba hội thuyết pháp chỉ chứng đến tứ quả
mà thôi. Kinh này chỉ nói đến Giả, không nói đến Trung (Trung đạo)".
Ngài Cát Tạng thì chủ trương rằng : "Dựa theo giáo pháp Thích-ca, sắc
thanh … là kinh thể, lấy cái Nhị để làm rõ cái Bất nhị (Bất nhị
nhi Nhị minh chi), trong 15 thứ sắc, có 3 thứ sắc làm kinh thể. Nếu
phân biệt Tông và Thể khác nhau thì chánh pháp là Thể, nhân quả là
Tông, như trong Đại Kinh Sớ và Đại Phẩm Sớ đã nói đầy đủ" (Đại
38, 264 thượng). Ngài Khuy Cơ thì không phân biệt Đại thừa và Tiểu
thừa, mà chỉ dựa trên ba thân Pháp, Báo và Ứng để giải thích Quyền
và Thật của Phật Di-lặc. Và Ngài đã dẫn dụ các kinh luận Đại thừa
như Pháp Hoa, Bát-nhã để cho rằng Kinh Di-lặc Thượng Sanh có đầy đủ
Quyền và Thật. Luận về nhân hạnh, quả đức của Phật Di-lặc thì các
chú sớ trưng ra rất nhiều thuyết khác nhau, thời lượng và danh hiệu tuy
khác, song nói chung đều cho rằng Bồ-tát Di-lặc tối sơ phát Bồ-đề tâm,
hành Bồ-tát đạo, trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tu hành rồi thành Phật.
Trong phần này, cả ba tác phẩm đều luận rất kỹ về số kiếp tu hành.
Khái niệm về "Kiếp" (Kalpa) rất phức tạp, trong đó có
Quá khứ Trang nghiêm kiếp, Hiện tại Hiền kiếp và Vị lai Tinh tú kiếp,
mỗi kiếp có 1.000 vị Phật ra đời, Đức Di-lặc đã từng ở trước
3.000 vị Phật ấy tu hành Bồ-tát đạo. Về thời gian Đức Phật xuất thế,
đó là lúc tuổi thọ con người sống đến tám vạn tuổi, tính theo thời
gian kiếp tăng và kiếp giảm (100 năm tăng, hoặc giảm 1 tuổi, hiện nay
đang là kiếp giảm) thì từ nay đến khi Đức Phật Di-lặc ra đời khoảng
57 tỷ 60 triệu năm nữa - một thời gian quá lâu xa.
Về việc thành đạo, các chú sớ cũng chú trọng phân biệt
thành Bản môn và Tích môn như Kinh Pháp Hoa, tức cũng giống như Phật Thích-ca,
hoặc viễn kiếp tu hành thành Phật, hoặc ngay hiện đời tu hành thành Phật.
Cội cây mà bảy vị Phật ngồi thành đạo đều khác nhau : Phật Tỳ-bà-thi
ngồi dưới cây Ba-la, Phật Thi-khí ngồi dưới cây Phân-đà-lợi, Phật Tỳ-xá-bà
ngồi dưới cây Bác-lạc-xoa, Phật Câu-lưu-tôn ngồi dưới cây Thi-câu-lưu,
Phật Câu-na-hàm ngồi dưới cây Ưu-đàm-ba-la, Phật Ca-diếp ngồi dưới cây
Câu-luật-đà, Phật Thích-ca ngồi dưới cây Bối-đa-la, còn Phật Di-lặc
ngồi dưới cây Long Hoa. Ba hội thuyết pháp của bảy vị Phật, số người
được độ ở ba hội cũng khác nhau. Ngoài ra, các bộ chú sớ còn nói rất
kỹ về đất đai, thời tiết, căn tánh, tuổi thọ, phước nghiệp của chúng
sanh khi Đức Phật hạ sanh rất tỷ mỷ, ở đây không thể nói hết.
Để kết thúc phần nội dung y cứ vào kinh luận, chúng
tôi xin trích dịch nguyên văn phần tựa Di-lặc Kinh Du Ý của ngài Cát Tạng
và một đoạn cuối bài đề tựa Kinh Quán Di-lặc Bồ-tát Thượng Sanh Đâu
Suất Thiên của ngài Khuy Cơ, như một cái nhìn tổng quát về tín ngượng
Di-lặc.
Bài Tựa của ngài Cát Tạng (Đại 38, 263 thượng) ghi
: "Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, từ lúc sơ phát tâm
đã giác ngộ lý Vô sở đắc của Đại thừa, tu chư vạn hạnh, hoặc
Thượng sanh Đâu Suất, vì các Thiên tử thuyết pháp Bát-nhã Ba-la-mật, hoặc
56 ức 7 ngàn vạn năm hạ sanh cõi Diêm-phù-đề, thành bậc Chánh giác. Vì
thế chư Phật trước sau đều thị hiện Bát tướng thành đạo, tiếp nối
tôn vị, đều là Nhất sanh bổ xứ. Cho nên trước là Phật Thích-ca, sau
đến Phật Di-lặc, công hạnh ngang hàng Thập địa, đức hạnh đạt bậc
Thượng nhẫn trong Tam nhẫn mới có thể hoán đổi Uế độ này thành ra Tịnh
độ. Thọ mạng con người đến 8 vạn 4 ngàn tuổi, ruộng đất thì gieo một
gặt mười (Điền tức nhất chủng thất hoạch), huống hồ những
thứ hoa thơm cỏ lạ đầy trời chật đất, kho báu châu ngọc đầy hầm
chật hố. Ba hội thuyết pháp, độ khắp trời người, tất cả danh tự
đều ngộ Vô sanh nhẫn".
Tác phẩm ngài Khuy Cơ (Đại 38, 272 hạ) tán rằng :
"Kinh Quán Di-lặc Bồ-tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên, Lục sự gồm
tu, Nhị nhân cùng chứa. Tâm tinh cần diệu cảnh, thường hoan hỷ quán tu.
Di-lặc chính là Phạn âm, Trung Hoa dịch là Từ Thị. Lòng mẹ buồn đau nỗi
tơ vò, tánh con thương xót đến hoài thai, nguyện xưa nay vẫn tinh thành,
nhân đó lấy Từ làm hiệu. Đạo viên thành nơi thượng quả, Tích lưu dấu
tại nhân đầu, mong giác ngộ vận độ quần sanh nên giả xưng Bồ-tát.
Thượng sanh tức vãng sanh Đâu Suất, tri túc tự tại, hào quang thần dụng,
thảy do bổ xứ Thiên cung, đoan cư lợi lạc. Nếu chúng sanh khắc lòng
quán tưởng, tất sẽ được chiêm ngưỡng phụng hầu. Kinh này là sự nhiếp
thâu, xuyên suốt, thường hằng, phép tắc, khuôn mẫu (Kinh giả nhiếp
dã quán dã thường dã pháp dã). Thầy trò truyền trao giáo nhiếp, dứt
tuyệt phàn lung; lý xuyên suốt nơi văn, lìa hẳn mọi sự tán diệt, làm
phép tắc cho trăm loài, làm khuôn khổ cho vạn đại, lợi vật thuyên chơn,
đó là kinh này vậy".
Nhận định chung về tín ngưỡng Di-lặc
Bao giờ đến hội Long Hoa ? Đó là câu hỏi đã có từ
hàng ngàn năm trước. Câu hỏi ấy càng trở thành cấp bách ở những năm
cuối cùng của thế kỷ 20. Từ khi còn rất nhỏ tôi đã nghe người ta kháo
với nhau rằng năm 2000 tận thế. Lúc ấy hội Long Hoa xuất hiện, Đức Phật
Di-lặc ra đời cứu vớt những người tu phước hành thiện, còn những kẻ
ác thì phải đọa địa ngục. Thế rồi dân gian đã tưởng tượng ra Long
Hoa chính là cây xương rồng, rồi thì nhà nhà đều trồng cây xương rồng
để trừ ma ếm quỷ, và tạo duyên để Di-lặc hạ sanh. Khi bài viết này
đến tay độc giả thì đã bước qua những ngày cuối cùng của thế kỷ
20, và "Ông bụng bự vui tính" vẫn còn ở tận đâu đâu. Trời chưa
sập, đất chưa tan, nhưng niềm tin của con người vẫn còn bổi hổi.
Từ đời Đường, năm 689, Võ Tắc Thiên đã hạ lệnh cho
Pháp Lãng ngụy tạo Đại Vân Kinh, cho rằng Võ Hậu là Di-lặc hạ sanh. Năm
613, Tống Tử Hiền và Hướng Hải Minh tự xưng là Di-lặc xuất thế để
tập hợp dân chúng làm loạn. Khoảng năm 713 - 755, Vương Hoài Cổ cũng tự
xưng là Tân Phật (Phật Di-lặc) rồi cử binh làm loạn, cuối cùng bị
bắt. Khoảng năm 873 - 888, giáo đồ Di-lặc ở Tây Thục tổ chức hội
Di-lặc để mở rộng thanh thế. Khoảng năm 1022 - 1063 đời Bắc Tống,
Vương Túc thống lãnh giáo đồ Di-lặc phản loạn ở Bối Châu. Đời Nam
Tống, đời Nguyên, Bạch Liên giáo trà trộn vào Di-lặc giáo, giả mượn
danh Di-lặc để mưu phản …
Ở Việt Nam, mượn tín ngưỡng Di-lặc để phục vụ nhu cầu
chính trị hoặc kinh tế (như để bán được nhiều giống cây xương rồng)
cũng không phải là không có. Thực ra, thuyết Di-lặc sắp hạ sanh cũng có
một giá trị tích cực của nó, nhằm khuyên người tu nhân tích đức, lánh
ác bỏ dữ, kể cũng lợi lạc. Song niềm tin mù quáng, ngụy tạo văn kinh,
đó là tội đồ của Phật giáo. Phật dạy : "Tin ta mà không hiểu ta
là phỉ báng ta !"
Vì sao con người lại cả tin vào sự tận thế kề cận ?
Mặc dù việc Di-lặc hạ sanh là một sự thật, được Phật thọ ký, điển
tịch đã ghi rõ ràng như trên đã dẫn, nhưng tính sơ sơ phải đến 57 tỷ
60 triệu năm nữa Di-lặc mới ra đời, người ta vẫn tin là kề cận. Thế
mới thấy nỗi khát khao hạnh phúc của loài người lớn lao như thế nào
!
Đời sống vốn dĩ ngắn ngủi, đêm vô minh thì lại dặm
dài. Chiến tranh, bệnh tật, môi trường, như treo lơ lửng trước mạng sống
con người lưỡi hái vô tri của sự hủy diệt. Sống, hay nói khác hơn là
sự hấp hối, thống thiết và điêu linh, con người cô đơn lắm, yếu đuối
lắm, người ta cần một chỗ dựa tinh thần, một chốn quay về, một nơi
ủy thác. Ở đó hứa hẹn một sự an lạc, trường thọ, hoan hỷ, không
có cướp bóc, giết chóc, lường gạt, phỉnh phờ nhau. Một thiên đường
không tưởng ? Không ! Nó vẫn có ! Ở đâu ? Ở ngay trên nụ cười Di-lặc.
Từ bi hỷ xả là Tịnh độ Di-lặc, trụ nơi vô sở trước
là cội Long Hoa, hành trì giới định huệ là đang lắng nghe ba hội thuyết
pháp, và chính cái tâm Không là Đức Phật tại thế. Sáu mươi tỷ năm
cũng ở tại bây giờ, đợi chờ chi, tìm kiếm gì, khi pháp giới tụ về
trong gang tấc ?
Mỗi Đức Phật chủ về một hạnh, như Đức Di-đà chủ
hạnh Trang nghiêm, Đức Thích-ca chủ hạnh Thanh tịnh, cũng vậy, Đức Di-lặc
chủ về hạnh Hỷ xả. Kinh điển vẫn là kho báu nghìn đời để bất kỳ
ai biết hoạt dụng những lời dạy của Phật thành những tâm tư hãn hữu
lúc bình sinh. Bạn tín ngưỡng Di-lặc ? Hãy cười lên, hãy nhìn chúng sanh
với ánh mắt từ bi, hãy đến với loài người bằng tấm lòng hỷ xả. Nếu
ngay hôm nay Di-lặc hạ sanh mà tâm người tạo ngũ nghịch thập ác thì
làm sao được gặp Ngài ? Làm sao ở trong giáo pháp của Ngài ? Theo luận
giải của chư Tổ nhiều đời, Kinh Di-lặc nhiếp thâu vạn pháp, dung nạp
Tam thừa, giá trị đạo lý của nó vẫn trường tồn cùng tuế nguyệt,
dung nạp mọi căn cơ. Tụng đọc kinh điển với tâm tư như vậy, với sự
tín thành như vậy, thì Tịnh độ Di-đà hay Di-lặc nào khác gì nhau ?
Ước mơ của nhân loại là vươn tới một thế giới an lạc,
không có chiến tranh, hận thù, không có khổ đau, tật bệnh. Một thế giới
với một môi trường hoàn hảo, chẳng phải là những hoài bão đã được
chư Phật khai duyên qua Kinh Di-lặc Hạ Sanh sao ? Thế thì tại sao lại viễn
vông tìm cầu hạnh phúc nơi những hứa hẹn xuôi suông, nơi những danh từ
rỗng tuếch, mà không kính thành đọc tụng kinh văn, thực hành công hạnh,
như lời nguyện cầu tha thiết cho thế giới hòa bình, nhân dân an lạc ?
Cuối cùng, xin mạo muội mượn lời một câu kệ của chư
Tổ để kết thúc bài viết này :
- "Thân khẩu ý thanh tịnh
- Thị danh Phật xuất thế
- Thân khẩu ý bất tịnh
- Thị danh Phật nhập diệt
-
- Tức tâm tức Phật vô dư pháp
- Mê giả đa ư ngoại tầm cầu
- Nhất niệm quách nhiên quy bổn tế
- Hoàn như tẩy khước thượng thuyền đầu".
- (Ba nghiệp thanh tịnh
- Là Phật ra đời
- Ba nghiệp bất tịnh
- Là Phật nhập diệt
- Ngay tâm là Phật
- Chẳng pháp nào ngoài
- Kẻ ngu phần nhiều
- Tìm cầu vật ngoại
- Một niệm rỗng không
- Quy về bổn tế
- Dễ như rửa cẳng
- Rồi bước lên thuyền).
Những ngày cuối năm 2000.