- Thông Điệp
của Bồ Tát Địa Tạng
- Qua Kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện
- Tâm Hà Lê Công Đa
"Từ
nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng
sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho
chúng đó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành
Phật đạo".
Phát nguyện của
Bồ Tát Địa Tạng -Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là một
bộ kinh nói về công đức, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng thường được
các chùa chiền tự viện tại các quốc gia theo khuynh hướng Đại Thừa
khai tụng trong suốt tháng bảy, đặc biệt là vào dịp lễ Vu Lan, tức là
mùa báo hiếu cha mẹ, tổ tiên theo truyền thống của người con Phật.
Bộ Kinh này đã được Hoà Thượng
Trí Tịnh dịch từ Hán Tạng ra tiếng Việt.
Lý Do Ra Đời Của Kinh Địa Tạng
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện được
mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan: "Ta nghe như vầy",
có nghĩa là bộ Kinh này đã được Ngài A Nan ghi nhớ lại lời Phật giảng
dạy và sau đó truyền tụng cho đại chúng. Ngay điểm mở đầu này có thể
tạo nên một số nghi hoặc đối với đại chúng nhất là những người có
một số hiểu biết về lịch sử Phật giáo, vì ai cũng biết rằng Ngài A
Nan chỉ đắc quả A La Hán và đạt được thần thông sau khi Phật nhập
diệt, chỉ vài giờ trước khi Ngài Ma Ha Ca Diếp triệu tập Đại Hội
tăng già kết tập kinh điển lần thứ nhất. Như vậy, với tư cách là một
phàm tăng, người ta tự hỏi, làm sao ngài A Nan có thể đi cùng với Phật
lên cung trời Đao Lợi để nghe Phật thuyết pháp? Tuy nhiên, để giải tỏa
mối nghi ngờ này, ta nên hiểu rằng, trước khi nhận làm thị giả chính
thức cho Đức Phật, Tôn giả A Nan đã ra 8 điều kiện và được Phật chấp
nhận, trong đó điều kiện thứ tám nêu rõ:"Nếu Đức Thế Tôn thuyết
pháp trong lúc A Nan Đa vắng mặt, thì ông xin Đức Bổn Sư lặp lại bài
pháp ấy cho ông nghe".
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện do Đức
Phật Thích Ca diễn nói tại cung trời Đao Lợi, tức là từng trời thứ
hai trong sáu từng trời của cõi Dục giới nơi mà Thánh Ma Gia, thân mẫu của
Đức Phật đã thác sanh về đây sau khi hạ sanh Đức Phật được 7 ngày.
Trước khi nhập Niết Bàn, vì cảm ơn đức sanh thành, Đức Phật đã diễn
nói kinh Địa Tạng tại pháp hội ở cung trời này. Như vậy, Kinh Địa Tạng
ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc
sanh thành, Ngài đã tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không
còn trụ thế bao lâu nữa nên đã lập pháp hội tại cung trời Đao Lợi
để độ thoát cho thân mẫu.
Đây là một pháp hội vô cùng quan
trọng vì có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương
thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... cùng các
chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cõi. Diễn nói kinh Địa Tạng
trong pháp hội này vì thế mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha
lành trong bốn cõi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế
tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả pháp giới chúng sanh.
Trong pháp hội này Ngài vì thân mẫu mà thuyết pháp nhưng động cơ chính
vẫn là lòng từ bi lân mẫn đối với chúng sanh ở cõi ta bà, đặc biệt
đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà
Ngài biết chắc chắn là sẽ "bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự
thống khổ", vì thế trong pháp hội này Ngài đã phó chúc cho Bồ Tát
Địa Tạng nhiệm vụ "gắng độ chúng sanh trong cõi
Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi hẵn
các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ ký". (Quyển
Thượng - Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội).
Như vậy nội dung chính yếu của
Kinh Địa Tạng xoay quanh chữ Hiếu, nói lên những bổn phận, nghĩa vụ của
người sống đối với người đã qúa vãng, cũng như nêu bật những tội
phúc quả báo ở kiếp sống bên kia để người Phật tử nương theo kinh này
cùng dựa vào oai lực độ trì, gia hộ của Bồ Tát Địa Tạng để tu tập,
hầu độ thoát cho chính mình, cho người thân cũng như tất cả chúng sanh
đã quá vãng khỏi rơi vào con đường ác.
Hành Trạng Và Đại Nguyện của Bồ
Tát Địa Tạng
Bồ Tát Địa Tạng là nhân vật như
thế nào mà lại được Đức Phật giao phó một trọng trách lớn lao và
khó khăn như thế?
Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại
Bồ Tát thường được nhắc nhở đến trong rất nhiều kinh điển Đại
thừa vì công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu
chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta Bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng
cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp
trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài
là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi
nương tựa đến những linh hồn vì ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt
tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đã mang một ý nghĩa
như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu,
chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ý rằng Ngài là đại địa bao la, nơi
ẩn chứa những kho tàng qúy giá, tức thiện căn. Địa Tạng vì thế như
là hình ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất
cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đã lên tiếng
tán dương: "Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ
bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể
nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn."
Bồ Tát Địa Tạng đã đạt đến
qủa vị này là do một phát tâm từ bi dõng mãnh muốn cứu vớt tất cả
những khổ đau của chúng sanh, đặc biệt là những chúng sanh đang chịu
khổ nạn trong địa ngục, được huân tập qua một quá trình tu tập trải
qua hằng hà sa số kiếp, trong đó một vài kiếp nổi bật đã được Đức
Phật nhắc lại trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện như sau:
Vị Trưởng giả dưới thời Phật
Sư-Tử Phấn-Tấn Cụ-Túc Vạn -Hạnh Như-Lai: Trong kiếp này Ngài là một
vị Trưởng giả, đã lập nguyện độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn
khổ mới chứng thành Phật đạo.
Hiếu nữ Bà La Môn dưới thời Giác
Hoa Định Tự Tại Vương Phật: Trong kiếp này Ngài là một thiếu nữ Bà
La Môn hết lòng sùng kính Tam Bảo nhưng bà mẹ lại là một người mê
tín tà đạo khinh chê Tam Bảo. Vì ác nghiệp này mà sau khi chết bà đã bị
đọa vào địa ngục vô gián. Tuy không biết mẹ mình thác sanh về nơi nào
nhưng Thánh nữø biết rằng với những tội lỗi mà bà đã gây ra, chắc
chắn sẽ bị đọa vào con đường ác. Là một người con hiếu thảo, đau
lòng vì thương nhớ mẹ, Thánh nữ đã tu tạo phước lành và cầu khẩn
oai lực của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật giúp đỡ. Nhờ đó mà
thân mẫu của bà chẳng bao lâu sau đã được vãng sanh lên cõi trời. Từ
đây Thánh nữ lập nguyện: "Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị
lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước
làm cho chúng đó được giải thoát."
Vị tiểu vương dưới thời Phật
Nhất-Thiết-Trí Thành-Tựu Như-Lai: Trong kiếp này Ngài là quốc vương của
một nước nhỏ, thương yêu dân như con, luôn thực hành mười hạnh lành
làm lợi ích cho nhân dân. Tuy nhiên dân chúng của vương quốc này tánh
tình rất ngang ngược, hung ác. Do đó Ngài đã phát nguyện rằng: "Nếu
chưa độ hết những chúng sanh tội khổ đều đặng an vui chứng quả Bồ-Đề,
thời tôi nguyện chưa thành Phật."
Hiếu nữ Quang Mục dưới thời Phật
Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục Như-Lai: Cũng như câu chuyện của Thánh nữ Bà La
Môn, Quang Mục là một thiếu nữ rất hiếu thảo đối với mẹ. Sau khi mẹ
mất, nàng băn khoăn không biết mẹ mình nay đã thác sanh về đâu. Nhờ
lòng hiếu thảo và công đức cúng dường một vị La Hán đầy phước đức,
Quang Mục biết được mẹ đang chịu khổ nạn tại địa ngục do hai tội
ác giết hại sanh vật và chê bai mắng nhiếc người khác gây ra lúc còn tại
thế. Do phước lực của nàng và oai lực của Phật Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục
Như-Lai, bà mẹ sau đó đã phải trở lại đầu thai vào làm con của người
đầy tớ trong nhà Quang Mục chịu kiếp hạ tiện cho đến năm 13 tuổi mới
được vãng sanh về cõi trời. Nàng Quang Mục vì thương mẹ mà đã phát
nguyện rộng lớn như sau:
"Từ ngày nay nhẫn về sau đến
trăm ngàn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các chúng sanh bị tội
khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm
cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo : địa ngục, súc sanh, và ngạ
quỉ, v.v...
Những kẻ mắc phả tội báo như
thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới trở thành bậc Chánh
Giác."
Đức Thế Tôn đã vì mẹ mà tìm
đến cung trời Đao Lợi. Tôn giả Xá Lợi Phất trước khi biết mình sắp
nhập Niết Bàn đã quay về mái nhà xưa để độ thoát cho mẹ già. Trong
những câu chuyện về tiền kiếp của Bồ Tát Địa Tạng được Đức Phật
nhắc lại ở trên, hai hình ảnh nổi bật nhất vẫn là hai thiếu nữ hiếu
thảo hết lòng cứu mẹ. Chữ Hiếu như thế, rất quan trọng trong đạo Phật.
Biết thương yêu mẹ mới biết thương yêu chúng sanh. Hiểu được những
nỗi khổ mà mẹ đang chịu đựng mới có thể hiểu được những nỗi khổ
của chúng sanh. Từ đó mới phát đại nguyện cứu vớt chúng sanh. Phật,
Bồ Tát, Thánh Tăng khi đã chia xẻ kiếp người, cũng chia xớt với chúng
ta những tình cảm như thế, cho nên chúng ta, những người con Phật, những
hiếu tử, có ai nghĩ về mẹ mà không nước mắt rưng rưng? Nhưng làm thế
nào để giúp mẹ, để cứu vớt những người thân trong lúc lâm chung hay
đã qua đời? Kinh Địa Tạng cùng với công năng, oai lực của Bồ Tát Địa
Tạng sẽ giúp ta thực hiện được điều đó.
Công Năng, Oai Lực của Bồ Tát Địa
Tạng
và Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện
Công năng, oai lực của Bồ Tát Địa
Tạng bao trùm khắp ba cõi Trời, Người và cõi âm. Nói theo danh từ nhà Phật,
oai lực đó là không thể nghĩ bàn. Riêng trong cõi thế gian này, Đức Thế
Tôn qua Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đã cho chúng ta biết rằng bất cứ
chúng sanh nào hoặc được nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát rồi chí
tâm quy y hoặc cúng dường, chiêm ngưỡng, tô vẽ hình tượng, đảnh lễ
Bồ Tát, chắc chắn sẽ đạt được những lợi ích lớn lao sau đây:
1. Lợi ích trong cuộc sống hiện tại
Những nguyện lớn mau chóng thành tựu:
Những ước muốn mong cầu trong đời hiện tại hoặc vị lai, chắc chắn
sẽ được thành tựu. Tất cả những ai phát nguyện lớn lao, muốn cứu
độ chúng sanh, muốn đạt đạo quả Bồ đề đều được oai lực của Bồ
Tát trợ giúp để đạt thành ý nguyện.
Được trí huệ lớn: Đối với những
người kém trí nhớ, nghe rồi quên, kinh điển đọc tụng bao nhiêu lần cũng
không nhớ nỗi, Phật dạy nên dùng một chén nước trong để trước tượng
Bồ Tát một ngày một đêm rồi chí tâm cung kính quay mặt về phương nam
thỉnh nước này để uống, sau đó phải kiêng cử rượu thịt, các thứ
hành, hẹ, tỏi... giữ gìn 5 giới trong vòng 7 hoặc 21 ngày sẽ thấy hiệu
nghiệm.
Tai Nạn Tiêu Trừ : Tất cả những
ai luôn bị tai vạ theo đuổi, thân luôn mang tật bệnh, gia đạo không an,
người thân ly tán... Nếu chuyên tâm trì tụng danh hiệu của Bồ Tát từ
một muôn biến trở lên, tất cả mọi hoạn nạn sẽ dần dần được tiêu
trừ.
Thoát khỏi hiểm nguy: Nếu gặp cảnh
ngộ phải xông pha vào chốn hiểm nguy, trước khi ra đi chuyên tâm niệm
danh hiệu của Bồ Tát trên một muôn biến, sẽ thoát khỏi khổ nạn hiểm
nguy.
Tiêu tội chướng, bệnh tật: Những
người bị bệnh thập tử nhất sinh, nằm liệt giường, sống dở chết dở,
đó là do nghiệp-đạo luận tội chưa đi đến quyết định dứt khoát
nên khó chết cũng như khó lành. Trong lúc này người thân nên dùng tài sản,
vật qúy của người bệnh tô vẽ hình tượng, cúng dường Bồ Tát rồi
báo cho người bệnh biết cũng như trì tụng kinh này thì người đó vì
nghiệp báo mà phải mang lấy bệnh nặng sẽ được hết bệnh, sống lâu,
còn như nếu hết nghiệp lúc chết các nghiệp chướng sẽ được tiêu trừ,
không còn bị đọa vào ba đường ác mà sẽ được vãng sanh về cõi Trời.
Được quỉ thần hộ vệ: Những
người cung kính đảnh l?, dùng các hình thức văn mỹ nghệ ca ngợi Bồ Tát
Địa Tạng, khuyến khích những người khác cùng làm theo như thế, trong đời
này cũng như ở những kiếp sau, họ sẽ được trăm nghìn quỉ thần luôn
theo hộ vệ ở bên mình, không còn bị mắc vào những tai họa nữa.
2. Lợi ích cho kiếp sau
Thoát khỏi nữ thân: Những người
nữ nào không muốn mang thân gái ở kiếp sau, hàng ngày thành kính cúng dường,
chiêm ngưỡng, đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được như ý nguyện.
Được thân xinh đẹp: Những người
nữ hiện tại mang thân hình xấu xí, hay ốm đau bệnh tật trong những kiếp
tới sẽ được thân hình xinh đẹp, sinh vào nơi quyền qúy cao sang nếu
cung kính đảnh lễ, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng.
Thoát kiếp nô lệ: Những người
sinh ra trong kiếp tôi đòi, nô lệ nếu thành tâm trì tụng danh hiệu Bồ
Tát Địa Tạng liên tiếp trong 7 ngày, đủ một muôn biến, kiếp tới sẽ
không còn sinh vào nơi hạ tiện nữa.
3. Lợi ích trước
phút lâm chung
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện có thể
xem là một quyển kinh gối đầu giường, một cuốn chỉ nam cho người Phật
Tử khi phải đối diện hoàn cảnh một người thân yêu của mình sắp mạng
chung. Đây là giây phút hệ trọng nhất của một linh hồn sắp giã từ
cõi thế, khi mà tất cả những ham muốn, dục vọng của cả một đời
người tích tụ lại thành một năng lực quyết định cho hướng đến của
kiếp tương lai. Giống như sĩ tử trong kỳ thi cuối cùng, đây chính là thời
điểm thử thách, cân lường thiện nghiệp, ác nghiệp của một đời người
trước khi chuyển kiếp. Trong lúc này, Đức Thế Tôn cho ta biết, "thần
thức của người chết đang hôn mê, mờ mịt, những quỉ thần, ma đạo
đôi lúc còn biến hình ra cha mẹ, những người thân thuộc để lôi kéo họ
vào ác đạo, ngay cả đối với những người đã tạo nghiệp lành trong
hiện thế." (Quyển Trung-Phẩm Thứ Tám- Các Vua Diêm La Khen Ngợi). Cho
nên vai trò của người thân lúc này rất quan trọng. Họ phải ở bên cạnh
người sắp lâm chung, liên tục trì tụng danh hiệu Phật, Bồ Tát làm sao
cho lọt được vào lỗ tai người chết, như vậy các ma quỉ, ác thần mới
lui tan đi chỗ khác.
Đức Phật cũng cho biết những công
việc cần làm của thân nhân trong suốt 49 ngày khi linh hồn người chết
đang còn vất vưởng, luôn trông ngóng thân quyến cốt nhục tu tạo phước
đức làm hành trang, vốn liếng cho họ được nhẹ bước siêu linh. Nỗ lực
chính yếu của thân nhân trong thời gian này nên được thể hiện bằng những
hành động tích cực như không được giết hại sinh vật, cúng tế thần
linh, ma quỉ. Sau 49 ngày thì người chết sẽ tùy theo nghiệp mà nhận lấy
quả báo.
Có lẽ quyển "Tạng Thư Sống
Chết" của Phật Giáo Tây Tạng là quyển sách diễn tả một các khá
rõ ràng về những giai đoạn biến chuyển của thần thức -hay thân trung
ấm (bardo) con người từ giây phút lâm chung cho đến 49 ngày sau đó, phù hợp
với giáo lý mà Đức Phật đã diễn nói trong kinh Địa Tạng. Trong phần
"Các cảnh báo trước nơi tái sanh" tác giả cho biết: "Những
người nào phải sanh vào địa ngục sẽ nghe những tiếng như những lời
than vãn và sẽ bị bắt buộc phải đi vào một cách không cưỡng lại
được. Sẽ hiện ra những khoảng tối mù mịt, những ngôi nhà màu đen và
trắng, những lỗ đen ngòm trong đất, những con đường tối om mà người
ta sẽ phải đi theo. Bước vào đó là người ta vào địa ngục và sẽ phải
đau khổ vì qúa nóng, qúa lạnh... và sẽ phải chịu đựng lâu dài mới
ra khỏi được". Bởi vậy, đối với người đang hấp hối, sự hiện
diện bên cạnh của vị bổn sư hay của một vị thiện trí thức mà
đương thời người hấp hối kính trọng, tin tưởng, đọc tụng cho họ
những bổn kinh hay trì niệm hồng danh chư Phật, chư Bồ Tát, cụ thể là
Bồ Tát Quán Thế Âm hay Bồ Tát Địa Tạng -hoặc vị Bồ Tát nào mà lúc
sinh thời người đó đã chọn thờ kính làm vị Đại sư của mình -tương
tự như vị thánh bổn mạng của người Thiên chúa giáo- sẽ giúp ích lớn
lao cho người chết được mau chóng siêu thăng về cõi Phật.
4. Lợi ích đối với người quá
vãng
- Siêu độ vong linh: Tại sao trong
giấc ngủ ta nằm mơ thấy ma quỷ, hoặc hình ảnh những người lạ tạo
cho ta những ấn tượng lo buồn, hoặc kinh sợ đến đổi phải thở than,
khóc lóc hoặc kinh hoảng trong giấc mơ? Đức Phật giải thích cho ta biết
đó là do linh hồn những thân quyến của ta đã chết trong kiếp này hay những
kiếp trước bị đọa vào ác đạo nên tìm đến ta để mách bảo hy vọng
rằng vì tình cốt nhục ta sẽ tìm cách giúp họ thoát ra khỏi con đường
ác đạo.
Để giúp cho những vong linh này
được siêu độ, Phật dạy ta nên chí tâm đảnh lễ trước hình tượng
của chư Phật hay Bồ Tát rồi tự mình đọc tụng kinh này hoặc nhờ người
khác đọc tiếp từ 3 đến 7 biến tức thời những linh hồn thân quyến
kia sẽ được giải thoát không còn hiện về trong giấc mơ nữa.
- Gặp lại người thân đã quá
vãng: Những người nào gặp cảnh cha mẹ mất sớm từ lúc vừa mới sanh
ra cho đến trong vòng mười tuổi, hoặc có anh chị em, quyến thuộc đã
qua đời, sau này khi họ lớn lên, nhớ tưởng đến những người đã quá
vãngï, không biết thác sanh về đâu, trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Phật
dạy rằng hễ cứ mỗi lần nghe danh hiệu hoặc chiêm ngưỡng hình tượng
của Bồ Tát Địa Tạng thì cung kính đảnh lễ một lần trong suốt một
ngày đến 7 ngày, những thân quyến quá vãng dù có bị đọa vào ác đạo
cũng được siêu thăng lên cõi Trời. Nếu thực hiện công hạnh này đủ
21 ngày và trì tụng một muôn biến danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng sẽ
được Ngài hiện về trong giấc mơ mách bảo cho biết nơi thác sanh hoặc
Ngài sẽ dẫn đến tận nơi để gặp lại người thân đã qua đời.
Quan Niệm Về Địa Ngục, Tội Phước
Nghiệp Báo
Trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện
Có thể xem Kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện là quyển kinh nói rõ nhất về thế giới bên kia -tức cõi âm-, về
địa ngục và những trừng phạt, về tội phước và nghiệp báo.
1. Về địa ngục
Một vấn nạn mà các triết gia Đông
Tây thường nêu ra để tìm lời giải đáp là sau khi chết thần thức, tức
linh hồn của con người sẽ đi về đâu ? Phải chăng có cõi địa ngục
hiện diện ở thế giới bên kia và nếu có qua đó những kẻ gây ác nghiệp
sẽ bị trừng phạt như thế nào?
Câu trả lời của Phật giáo rất
rõ ràng. Trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Đức Phật đã trả lời dứt
khoát cho ta biết là có địa ngục và có sự trừng phạt. Ngài chỉ rõ rằng
những người sinh ra trong đời này hoặc mang kiếp nghèo hèn,hoặc gia đình
quyến thuộc kình chống nhau, hoặc thân hình xấu xí tàn tật, đui, điếc,
câm ngọng, không lưỡi, miệng lở, điên cuồng mất trí, chết yểu,... hoặc
sinh làm chim chóc, súc sanh... đều là những chúng sanh đã tạo ác nghiệp
từ thân khẩu ý từ những kiếp trước, sau khi chịu qủa báo ở đời này,
nếu không tu tập, họ sẽ còn tiếp tục bị "đọa
vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi".
Ta tin lời Phật dạy là có địa
ngục, nhưng địa ngục đó như thế nào? Để trả lời những thắc mắc
của Thánh mẫu Ma-Gia cũng như Bồ Tát Phổ Hiền nêu ra trong pháp hội, Bồ
Tát Địa Tạng đã tóm lược ra cho ta biết tất cả những loại địa ngục,
qua đó nạn nhân phải nhận chịu những hình thức trừng phạt hết sức
kinh khủng bởi những khí cụ tra tấn ghê rợn trong từng các loại địa
ngục, mà trong đó nặng nề nhất là địa ngục Vô Gián. Đọc đến đoạn
kinh này, những người mang tinh thần duy lý có thể sẽ nêu nghi vấn, đặt
vấn đề: Con người chỉ cảm nhận được đau đớn khi có xác thân, nhưng
sau khi chết rồi, xác thân tan rả thì những hình phạt, tra tấn đâu có
tác dụng gì nữa, như vậy phải chăng địa ngục chỉ là sự hù dọa của
tôn giáo đối với những kẻ yếu bóng vía ? Ta hãy xem Kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện giải thích như thế nào về vấn đề này.
Địa ngục là gì? Trả lời Bồ
Tát Phổ Hiền, Ngài Địa Tạng nêu rõ : "Đó là do chúng sanh trong cõi
Diêm-Phù-Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm
ra những địa ngục như thế" và ngay cả các khí cụ tra tấn cũng
được giải thích, "Khí cụ là do các hạnh nghiệp quấy ác của
chúng sanh mà cảm vời ra." (Quyển Thượng - Phẩm
Thứ Năm: Danh Hiệu của Địa Ngục). Thiết tưởng câu trả lời trên đây
đã diễn tả đầy đủ ý nghĩa về địa ngục. Địa ngục hiện hữu là
do nghiệp của mỗi chúng sanh mà CẢM ra. Có lẽ phải cần một cuốn sách
hay nhiều cuốn sách mới giải thích một cách đầy đủ quan niệm "tùy
nghiệp chiêu cảm", tuy nhiên để có thể hình dung một cách cụ thể
thì nếu ta gây nghiệp ác, linh hồn ta sẽ không ngớt bị dày vò, chịu trừng
phạt đau đớn sau khi chết giống như ta đang sống trải qua một cơn ác mộng.
Trong ác mộng, tuy xác thân ta không bị hành hạ nhưng ta cũng cảm thấy
đau đớn, lo lắng, kinh hải, ta cũng rên la than khóc, đổ mồ hôi hột trước
những sự khủng khiếp mà ta đang chịu đựng trong giấc mơ; nhưng may mắn
cho ta, thần thức ta có chỗ dựa là xác thân, khi sự kinh khủng lên đến
cao độ ta tỉnh mộng và tìm được lối thoát. Nhưng sau khi chết, linh hồn
ta sẽ không còn chỗ dựa, ta không còn lối thoát nào nữa, cơn ác mộng
do đó sẽ kéo dài bất tận do những nghiệp ác gây nên, cho đến khi nào
nghiệp ác tự tiêu diệt hoặc ta được những nguyện lực có khả năng cứu
rổi ta siêu thoát qua cảnh giới khác.
Hiểu Địa ngục như thế để thấy
cảm thương cho cha mẹ, thân quyến của ta, của tất cả chúng sanh vì nghiệp
ác phải trả trong địa ngục, để hướng từ bi tâm của ta nguyện cầu
cho họ mau chóng siêu thoát hoặc tích cực hơn, trì tụng kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện để nhờ oai lực của Bồ Tát cứu vớt họ đến những cảnh giới
an lạc.
Vấn đề tội phước nghiệp báo
Khi ta tin có Địa ngục tức là ta
tin có vấn đề tội phước nghiệp báo, trong kinh Địa Tạng bổn nguyện
Đức Thế Tôn đã cho ta biết như thế. Mọi việc xảy ra ở trên đời này
không có gì là ngẫu nhiên. Ta như thế nào trong kiếp sống hiện tại là
kết qủa của nghiệp báo gây ra từ những kiếp trước. Chính nghiệp -tốt
hay xấu- của một người gây ra do thân, khẩu, ý trong đời này lại sẽ
là lực quyết định tương lai cho những kiếp tới của cá nhân đó mà
không là gì khác. Nghiệp là một nhà phán quan vô tư không sai chạy. Hay ta
có thể hình dung ra nghiệp như là một nhà kế toán với phương tiện điện
toán hiện đại nhất mà tất cả những hành động tốt xấu của ta xảy
ra sẽ được nó lưu trữ vào bộ nhớ (memory) không sót một chi tiết
nào. Đến giờ lâm tử, nó mới bắt đầu giở sổ sách ra để tính toán
với ta. Từ đó cánh cửa mở ra để ta bước vào cõi Phật, cõi Trời, hoặc
đầu thai trở lại làm người, làm súc sanh, hay đi về địa ngục...
Vấn đề luân hồi, tái sinh ngày
nay không còn là một vấn đề siêu hình, trừu tượng nữa mà đã trở
thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học thực nghiệm. Hàng
ngàn trường hợp đã được kiểm chứng một cách khoa học và được phổ
biến qua báo chí, sách vở. Ba nhà tiên phong trong lãnh vực này là Bác sĩ
Ian Stevenson nguyên Giáo sư Đại học Y Khoa Louisiana Stae University, Trưởng
khoa Thần kinh Trường Đại học Y Khoa University of Virginia; Tiến sĩ Bác sĩ
Raymond Moody, Jr., thường trú tại bệnh viện Đại học Y Khoa University of
Virginia và đặc biệt là Bác sĩ Nha Khoa Bruce Goldberg, hiện có phòng mạch
tại Los Angeles, CA đã dùng "Thôi miên trị liệu pháp" (Hypnotherapy)
để cho bệnh nhân nhớ lại tiền kiếp. Trường Đại học Y Khoa Florida,
Hoa Kỳ, đã mở hẵn phân khoa "Thôi miên trị liệu pháp", dùng phương
pháp thôi miên để khám phá những căn bệnh mà họ không thể xác định
được căn nguyên. Với phương pháp này họ có khả năng làm cho người bệnh
nhớ lại tiền kiếp của mình và nhờ đó mà khỏi bệnh. Bản báo cáo của
Trường Đại học này có ghi lại là trường hợp của một bệnh nhân bị
chứng đau bụng dưới kinh niên. Cơn đau kinh khủng đến độ bệnh nhân tưởng
như cơ thể, đất trời phải nổ tung ra, không thể chịu đựng nỗi. Các
phương tiện y khoa đều bó tay không tìm ra nguyên nhân căn bệnh, cuối cùng
phải nhờ đến phương thức trị liệu mới. Nhờ phương thức này mà
các bác sĩ chữa trị đã giúp bệnh nhân nhớ lại một trong những tiền
kiếp của mình, khi anh là một cai tù tại một quốc gia Nam Mỹ dưới thời
thống trị của đế quốc Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 15. Anh là một cai
tù rất hung bạo. Những tù nhân nào qua tay anh đều bị anh mang giày bốt
đá vào bụng dưới; những nạn nhân này không bị dập gan, dập ruột
thì cũng bể bao tử, đau đớn vô cùng. Thấy được tiền kiếp này anh cảm
thấy vô cùng hối hận và lành bệnh. Chính BS. Bruce Goldberg trong tác phẩm
của ông, "Past lives, Future lives" cũng đã kể lại trường hợp
ông đã chữa lành bệnh mù mắt cho một thiếu nữ khi cho bệnh nhân này
thấy lại tiền kiếp của mình. (Sđd, trang 100-106).
Đức Thế Tôn trong kinh Địa Tạng
Bổn Nguyện cũng đã nêu ra một số thí dụ điễn hình về tội phước
nghiệp báo. Ngài cho biết những hạng Tăng ni giả danh, phá giới, phạm
trai, những người chế diễu, phỉ báng những kẻ tu hành thì chắc chắn
sẽ bị đọa và ngục Vô Gián, hoặc sanh làm cầm thú đói khát suốt đời;
nếu những người chuyên sát sanh hại vật thì kiếp tới sẽ bị chết yểu;
những người không bao giờ toại chí, trong cuộc sống làm việc gì cũng
thất bại là vì kiếp trước họ hà tiện, bỏn xẻn, chẳng hề giúp người;
những người hay chưỡi bới mắng nhiếc, nói lời thô ác thì bị quả
báo không lưỡi, miệng lở, hoặc nội bộ gia đình quyến thuộc không an
ổn,kình chống lẫn nhau; những người đời này mang thân xấu xí, tàn tật
là do kiếp trước hay nóng giận...
Là Phật tử, khi đã hiểu rõ về
tội phước nghiệp báo như thế, nếu ta có gặp phải những bất hạnh
trong kiếp sống này thì nên nỗ lực tu tập để hy vọng được sanh về
những cảnh giới tốt đẹp hơn trong tương lai, còn nếu ta đang tận hưởng
tất cả những hạnh phúc, sung sướng, giàu có, uy quyền trong kiếp sống
hiện tại thì lại càng phải nỗ lực tu tập hơn nữa để tăng trưởng
thiện nghiệp cho những kiếp sắp tới. Đức Thế Tôn vì lòng đại bi,
thương yêu chúng sanh như con nên đã chỉ cho ta một con đường sáng tỏ
như thế trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Lời dạy của Ngài không cao xa
mà rất cụ thể, chỉ cho ta phương pháp thực hành rất dễ dàng để không
còn bị rơi vào ác đạo: "Trong mỗi tháng những
ngày: Mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn,
hăm tám, hăm chín và ba mươi, mười ngày trên đây là ngày mà các nghiệp
tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ... Trong mười ngày trai
trên đây, nếu có thể mỗi ngày tụng một biến kinh này." (Quyển
Trung-Phẩm Thứ Sáu- Như Lai Tán Thán).
Tu Tập, Hành Trì
Theo Hạnh Nguyện Của Bồ Tát Địa
Tạng
Đọc tụng kinh Địa Tạng, trì niệm
danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, ta phải thấy được hạnh nguyện cao cả của
Ngài: "Nếu trong địa ngục còn một chúng sanh bị đau khổ, tôi thề
sẽ không thành Phật", để từ đó những người phát tâm Bồ Tát nỗ
lực tu tập, hành trì theo hạnh nguyện của Ngài, theo gót chân Ngài, nương
theo oai lực của Ngài đi vào chốn địa ngục để cứu vớt những linh hồn
bất hạnh hầu đền trả ơn Tam Bảo, ơn cha mẹ, tổ tiên.
Nhưng địa ngục ở đâu? Có lẽ
ta không cần phải tìm địa ngục ở đâu xa, bởi vì địa ngục không nhất
thiết là ở thế giới bên kia, địa ngục tồn tại ngay trong kiếp sống
này, trên thế giới này; bởi vì nơi nào có ngục tù, có giam cầm, tra tấn,
có tiếng rên xiết, thở than là ở đó có địa ngục. Phật giáo là tôn
giáo của Từ Bi, ra đời vì những khổ đau của nhân loại, cho nên người
Phật tử phải là những nhân tố tích cực có mặt hàng đầu tại những
nơi khổ nạn mà chốn ngục tù là một thí dụ điễn hình. Chưa hết, còn
bao nhiêu oan hồn vất vưởng, nạn nhân của những cuộc chiến kinh hoàng,
những phòng hơi ngạt, những trại tập trung, những trại cải tạo, trên
Biển Đông, trong những ngục tù oan khuất... đang cần được siêu độ.
Đọc tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa
Tạng, được phần công đức nào ta nên hồi hướng đến những chúng
sanh bất hạnh này và nguyện cầu cho linh hồn họï mau chóng siêu thoát.
Địa ngục cũng có thể ở chung
quanh ta, đó là môi trường không thoải mái mà ta phải sống hoặc làm việc.
Đó là những người sống bên cạnh ta, là bạn đồng sở, hàng xóm láng
giềng, thậm chí ngay cả cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái... những người
ta không thích nhưng do nghiệp duyên ta phải gần gũi, chung đụng mà đôi
khi họ đã tỏ ra rất độc ác, biến đời sống ta thành cõi địa ngục.
Jean Paul Sartre, một triết gia nỗi tiếng của Pháp đã từng nói "L’enfer
c’est les autres" -Địa ngục tức là những người chung quanh- cũng
trong ý nghĩa này. Địa ngục cũng ở ngay chính trong ta, đó là tham lam, giận
dữ, hận thù, đố kỵ, si mê, mù quáng... đã hàng ngày không ngớt xâu
xé ta, biến ta thành những con người ngập chìm trong vô minh tăm tối, bị
chế ngự bởi những thú tính thấp hèn. Tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát
Địa Tạng vì thế cũng có nghĩa là thể hiện những hành động tích cực
biến cải chính con người ta, môi trường sống chung quanh ta từ địa ngục
trở thành Tịnh Độ.
Từ những công hạnh và nỗ lực
tu tập này, người Phật tử thực hành Bồ tát đạo, khi giã từ cõi thế
lập tức phát khởi tâm đại từ bi, dâng lời phát nguyện xin bước theo
Bồ Tát Địa Tạng đi về chốn địa ngục để lập thêm công đức, cho
đến khi nào Đức Phật Di Lặc chuẩn bị ra đời, ta lại xin được trở
về cõi Trời Đâu suất, tiếp tục tu học để cùng với Phật Di Lặc trở
lại cõi thế trong hội Long Hoa, xây dựng một cõi Tịnh độ mới cho nhân
loại. Chắc chắn Ngài sẽ tiếp nhận ta.
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng
với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng
là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật,
đặc biệt là trong mùa Vu Lan báo hiếu. Chiếc thiền trượng của Bồ Tátù
Địa Tạng đã, đang và sẽ gỏ mãi vào cánh cửa địa ngục. Năng lực của
tâm đại bi sẽ làm mở tung tất cả những cánh cửa hắc ám, làm tan rả
những xiềng xích trói buộc, giải cứu tất cả những ai còn bị đọa đày
trong cõi vô minh, tù ngục đểø từ đó những hạt giống bồ đề, những
hạt giống thương yêu sẽ nẩy mầm mạnh mẽ trong những linh hồn đau khổ
của anh, của chị, của chúng ta, của tất cả những thân bằng quyến thuộc,
đang sống hay đã qua đời... Đó chính là thông điệp của Kinh Địa Tạng
Bổn Nguyện.
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát.
Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn
Phật.
http://www.buddhismtoday.com/viet/botat/005-thongdiepDiaTang.htm