- CÔNG HẠNH BỒ TÁT
QUÁN THẾ ÂM
-QUÁN-THẾ-ÂM Đ ấng mẹ
hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là
mẹ hiền.
-QUÁN-THẾ-ÂM Danh hiệu của tình
thương bao la không bờ bến, bao la rộng khắp cõi hư không.
-QUÁN-THẾ-ÂM gắn liền với tim
óc của nhân loại, của muôn loài chúng sanh.
Với QUÁN-THẾ-ÂM nơi nào có khổ
đau, nơi nào có tai nạn! Nơi đó phát ra tiếng niệm QUÁN-THẾ-ÂM chí
thành và tha thiết. Nơi đó có QUÁN-THẾ-ÂM . Nơi đó được giải trừ tất
cả khổ đau và tai nạn!
Danh hiệu Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM
trong nhân loại ai cũng đều biết đến, cũng đều niệm khi có tai nạn hiểm
nguy và ách nạn khủng khiếp. Ngoại trừ hạng người sanh ra nơi biên địa,
hoặc căn trí quá tối tăm, hoặc tín ngưỡng tà đạo, mê muội với thần
quyền hữu danh mà vô thực. Hoặc là hạng người đã bán rẽ Mẹ Cha tôn
thờ xác ma chết treo đầy quái gỡ làm cứu cánh. Vì chính họ đã chối
bỏ Quán-Âm thì Quán-Âm không giao cảm đến. Tuy nhiên hạng người đó biết
hồi tâm trong khoảnh khắc thì Quán-thế-Âm vẫn thị hiện để hóa độ.
Ý NGHĨA QUÁN-THẾ-ÂM
BỒ TÁT
-QUÁN là quán xét, thấy nghe, biết
đối tượng thật rõ ràng.
-THẾ là cõi đời, cỏi hữu tình
thế gian.
-ÂM là tiếng niệm, tiếng kêu cứu,
tiếng cầu nguyện từ mọi nơi đau khổ phát ra.
-BỒ-TÁT là độ thoát cho loài hữu
tình, cứu thoát, giác ngộ cho tất cả các loài chúng sinh có tình cảm
được vượt thoát ra khỏi khổ đau ách nạn.
Đức QUÁN-THẾ-ÂM BỒ TÁT , đạt
được diệu quả NHĨ CĂN VIÊN THÔNG nên quán xét và nghe, thấy, biết
cùng tột tiếng kêu đau khổ khắp cõi thế gian, hiện ngay nơi đó để cứu
độ chúng sanh được vượt thoát tất cả những hiểm nguy , nên gọi là
QUÁN-THẾ-ÂM .
Do công hạnh cứu độ tự tại nhiệm
mầu đó, nên trong kinh điển còn gọi là QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT .
QUÁN-THẾ-ÂM T iếng Phạn
Avalokitesvara , nghĩa là, Ngài nghe tiếng kêu thầm kín thiết tha từ tâm khảm
chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Đem an lạc từ bi tâm vô lượng
không phân biệt dến với mọi loài, nói cách khác là tình yêu thương trìu
mến vô biên gấp muôn vạn lòng dạ của bà mẹ hiền ở thế gian đối với
đứa con cưng, nên gọi là Từ-mẫu Quán-thế-Âm.
QUÁN-THẾ-ÂM VÔ ÚY
Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn : "Bồ
Tát đối với cấp nạn nguy hiểm, kinh sợ, còn ban cho chúng sanh năng lực
Vô Úy để tự vượt thoát khổ ách", nên gọi là Quán-Âm Vô-Úy.
SỰ TÍCH BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM
Đức Phật BỔN SƯ THÍCH CA khi nói
kinh Bi-Hoa đã dạy rằng : - Về thời qúa khứ lâu xa về trước, đức Quán-Thế-Âm
làm thái tử con của vua Vô-Tránh-Niệm. Thời bấy giờ có đức Phật hiệu
là BẢO TẠNG NHƯ LAI, hiểu được đạo lý vô thượng, Vua và Thái-tử
phát tâm Bồ-đề rộng lớn, nguyện tu các hạnh Bồ-tát, mong thành Phật
quả để phổ độ chúng sanh.
Khởi đầu đức Vua và Thái tử
làm người thí chủ chân thành cúng dường các thứ y phục, thuốc men, vật
thực, mùng mền và tất cả các món cần dùng lên đức BẢO TẠNG NHƯ LAI
và chúng tăng trong suốt 3 tháng. Nhờ nhất niệm tinh chuyên, tinh tấn
không ngừng, vua Vô-Tránh-Niệm chứng thành quả Phật và phát 48 lời thệ
nguyện rộng lớn để tế độ khắp cả chúng sanh, Ngài liền thành Phật
hiệu là A-di-Đa,ࠧ郡o chủ cõi Tây Phương Cực
lạc. Thái tử công hạnh cũng tròn đầy viên mãn cũng về cõi Cực-Lạc
thành bậc đại Bồ Tát hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM cùng với Phật A-DI-ĐÀ tiếp
dẫn chúng sanh về cõi Cực lạc.
CÔNG HẠNH
BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM
Ngài Huyền-Trang pháp sư đời Đại
Đường nói : "Quán Có, mà không trụ nơi CoᬠᵃᮠKhông
mà không trụ nơi Không. Nghe Danh, mà không lầm đối với Danh,
thấy Tướng mà không chìm ở nơi Tướng. Tâm, không động ở
Tâm. Cảnh không trước ở cảnh; tất cả hiện hữu đó,
không làm loạn được Chơn, đó chính là TRÍ TUỆ VÔ NGẠI. Bồ tát
Quán-Thế-Âm đã dùng TRÍ TUỆ VÔ NGẠI đó mà tìm tiếng kêu của chúng
sanh ứng hiện tới mà cứu khổ, dù muôn ngàn vạn ức tiếng kêu cầu cứu
khổ mà sự cứu khổ không mất thời gian, diệu dụng của QUÁN-THẾ-ÂM
là như thế.
Lại nữa, trong Nhị-Khóa-Hiệp-Giải
viết rằng : "Quán, là Trí năng-quán, Thế-Âm, là Cảnh sở-quán. Muôn
ngàn hình tượng, muôn ngàn thứ tiếng chen nhau giao động, khác biệt,
cách trở điệp điệp trùng trùng, do lòng từ rộng lớn vô biên của
Ngài cùng một lúc đều được cứu độ, nên danh hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM .
Thái-Hư đại sư khi luận về Kinh
Pháp-Hoa có nói đến hạnh nguyện cứu khổ của Bồ-tát Quán-Thế-Âm như
sau : "Đức Quán-Thế-Âm tìm nghe tiếng cầu cứu thống khổ của tất
cả chúng sanh khắp mọi nơi, mọi chốn liền ngay khi đó đến mà cứu độ,
quả vị lợi tha vô lượng vô biên luôn luôn hướng về chúng sanh và làm
những việc lợi ích cho họ. Bồ-tát thị hiện đầy đủ ba thân, đó là
Thắng-Ứng-Thân, Liệt-Ứng-Thân, Tha-Thọ-Dụng-Thân, nên mới đủ diệu dụng
độ khắp chúng sanh trong pháp giới.
Còn Đại-Thừa Kinh Pháp-Hoa, phẩm
Phổ Môn, toàn phẩm kinh Đức Thích Ca đã khuyên dạy chúng sinh trì tụng,
lễ bái Quán-Thế-Âm thì được phước vô lượng. Về phương diện cứu
khổ, Bồ-tát Quán-Thế-Âm thị hiện 32 thân, mỗi thân đều thích ứng với
tâm cảnh hiện tại và từ đó có muôn ngàn phương tiện để giải thoát
khổ nạn cho chúng sanh.
- BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM THỊ HIỆN
BẰNG CÁCH NÀO
- TRONG KHI CÓ VÔ SỐ CHÚNG SANH
CẦU CỨU CÙNG MỘT LÚC ?
Đây là một nghi vấn chung vì,
chúng ta chưa thông hiểu được nghĩa diệu dụng hiện thân mầu
nhiệm của Bồ-Tát Quán-thế-Âm.
Đã là diệu dụng nhiệm mầu,
thì thử hỏi ngôn ngữ trong cõi nhân loại chúng ta có thể diễn đạt
được sao ? Nếu, không dùng phương tiện mượn Sự, mượn Lý, mượn Hình
để tỉ dụ thì khó có thể mô ta,㠳ánh
cho thông suốt và hết ngờ vực được. Nghi ngờ là một cản trở lớn
cho lòng chí thành vậy. Tuy nhiên nghi ngờ mà cầu học để giải trừ tà
kiến là một tinh tấn để mau chóng đến bờ giải thoát.
Diệu Dụng Mầu Nhiệm của Bồ
Tát là tất cả các thứ Sắc Pháp và Tâm Pháp " Có, Không. Danh, Tướng.
Tâm, Cảnh. Năng, Sở...cho đến xa, gần, dày, mỏng, tối, sáng, nhiều, ít
v.v... tất cả đều không chướng ngại, quí vị nhận định thỉ dụ sau
đây :
Diệu dụng cứu khổ của Quán-thế-Âm,
tỉ như ánh sáng của Thái-dương (dụ cho thường quán) luôn luôn soi chiếu
khắp mọi nơi, (dụ cho sự thường trực tìm tiếng kêu). Chúng sanh như là
một tấm kiếng hay là một chén nước trong, tấm kiếng hay chén nước nếu
chịu hướng về ánh sáng Thái dương, thì trong tấm kiếng, chén nước có
hình ảnh và ánh sáng của Thái dương (sự hướng về dụ cho lòng chí
thành) ngời sáng trong đó. Ánh sáng dù luôn chiếu soi, mà tấm kiếng úp lại,
chén nước thì đậy kín, nhất định hình ảnh Thái dương và ánh sáng
không thể hiển hiện trong đó được. Cũng vậy chúng sanh không tha thiết
chí thành, như đứa con hoang nghịch cố trốn tránh sự tìm kiếm của Mẹ
hiền, sự gặp mặt tất còn lâu xa.
Một tỉ dụ khác, diệu dụng Quán
Âm như tổng đài phát ra làn sóng âm thanh hay phát ra hình ảnh. Sự phát
đi, dĩ nhiên luôn luôn thường trực (dụ cho tầm thanh cứu khổ) còn
chúng sanh như những máy thu thanh, thu hình, máy mở đúng làn sóng, đúng vi
ba của tín hiệu , tất nhiên thấy hình, nghe tiếng (dụ cho lòng chí thành
và giao cảm).
Dù cho muôn ngàn triệu chiếc máy
(vô số chúng sanh) cùng một lúc bắt đúng tín hiệu tất nhiên muôn ngàn
triệu chiếc máy, cùng một giờ phút, mà cùng có âm thanh và hình ảnh ( dụ
cho cùng niệm và cùng được sự thị hiện nhiệm mầu). Cũng như thế, tất
cả mọi loài chúng sanh, nếu cùng chí thành hướng về đức QUÁN-THẾ-ÂM
tất Bồ-tát cùng hiển hiện ngay liền khi đó.
DIỆU DỤNG
KHI THỊ HIỆN CỦA BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM
Điểm này tưởng cũng minh bạch
qua các thí dụ ở đoạn trên, tuy nhiên còn vài thắc mắc khác xin được
nêu ra :
Căn cứ theo các kinh Bi Hoa, Lăng
Nghiêm, Tất Đàm, Phổ Môn, Quán-thế-Âm thọ ký...thì, đức Quán-thế-Âm
thị hiện thật nhiều thân, 32, 33, 38 và tùy vô số loại mà hiện thân.
Trí óc con người vốn mang nhiều
nghi hoặc, dù đã tin tưởng Phật Pháp là cao siêu mầu nhiệm, chịu thọ
nhận, tụng niệm tu hành. Nhưng tiếc thay, nghiệp chướng nghi hoặc đã
làm ngăn trở bước đường tiến tu không ít. Người ta cứ nghi : "Bồ-tát
sao không hiện ra trước mắt cho thấy, cho nghe; bao nhiêu hiện thân trong
kinh Phật, nào Bồ-tát, Phạm-vương, Đế-thích, Thiên, Long, Đồng-nam, Đồng-nữ
v.v...Nhưng khi có nạn, mình có niệm chí thành lắm chớ, mà nào có thấy
Bồ-tát!?", Sự kiện này, có nhiều người vì lòng tin sâu đậm và do
nhận xét tinh tế quyết chắc có sự tế độ của Bồ-tát chỉ vì mình mắt
phàm, tai tục nên không thấy Ngài, nếu không có thì không thể nào mình
thoát nạn một càch ly kỳ vậy được. Một số khác, lại ngờ rằng
không biết có phải Bồ-tát đến độ cho mình hay không ? hay là mình có số
hên ? Hay là do phước ông bà để lại?
Thưa, nên hiểu rằng, Bồ-tát thị
hiện giao cảm trong chúng ta, trong tất cả mọi người, mọi loài.
Một đám giặc cướp sắp ồ ạt
tấn công qua chiếc thuyền nhỏ bé, hay trên thuyền sắp có biến cố thê
thảm xảy ra...Tại sao bọn cướp lại đổi ác ý để trở thành thiện
niệm ? Để rồi bọn chúng trở nên hiền từ và rút lui êm đẹp ? Hơn nữa
còn tiếp tế giúp đở ,đó là nhờ trên chiếc thuyền có nhiều người
chí thành niệm danh hiệu đức Quán-thế-Âm.
Sự đổi thay tâm ý của kẻ ác, lại
không là sự thị hiện nhiệm mầu để cứu độ hay sao ? Không lẽ Ngài
hiện ra hung thần để đánh chìm ác tặc, rồi mới cho là linh ?
Bà già ở nhà có một mình lấy rổ
vá ra khấu may, mới vài đường chỉ chẳng may chỉ sút , đôi mắt lem
nhem sợi chỉ không làm sao xâu qua lỗ được, bà thở dài buồn thảm :
"Mẹ hiền Quán-âm ơi con phải làm sao !?". Bà tủi thân gần muốn
rơi lệ lòng hướng về Phật lâm râm cầu nguyện. Đứa bé chơi từ ngoài
xa, nó bổng thấy thích vào nhà bà già cô quả ấy, và đứa bé đã xâu
chỉ cho bà. Quý vị đã nhận thấy Bồ-tát thị hiện trong tâm đứa bé
ấy chưa ?
Bạn lái xe đi trên quãng đường
thôn dã, không may xe bạn hư ! Với độc lực và hơn nữa là bạn chưa một
lần biết sửa xe, bạn chỉ còn biết cầu nguyện...Từ bên ngoài quốc lộ
có đôi bạn lại nổi lên ý niệm ham thích được đi trên con đường hẻo
lánh đó, họ gặp bạn và sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp giải nguy cho bạn.
Quán-âm thị hiện là chổ đó. Đó là trưởng giả thân, cũng là đồng
nam, đồng nữ vậy.
Bà Ấm người làng Sơn-tịnh, mỗi
năm một lần bà lên núi Trà-bồng, hang Thạch Động để lễ Phật, cái
hang động ngày xưa mà thầy Chơn Dung tu hành đã phát kỳ tích ở đấy. Hú
hồn, hôm ấy bà lại gặp phải con cọp, chao ôi con cọp vằn vện to lớn
quá, cọp từ xa gầm thét và phóng tới, bà chỉ kịp la lên QUÁN ÂM BỒ
TÁT rồi bà bất tỉnh ! Thực ra bà "THÉT" chứ không phải niệm,
nhưng đó là cái thét cấp bách đầy khẩn thiết và sự chí thành được
dồn hết vào cái THÉT đó. Khi tỉnh dậy, ý niệm đầu tiên của bà là tưởng
mình đã chết, một lát sau khi tri giác về đủ, bà mới cảm nghe hôi hám
và đau rát trên mặt. Thì ra con cọp đã liếm mặt bà rồi bỏ đi.
Tại sao cọp bỏ đi, khi miếng mồi
ngon trước miệng nó ? Chính đó là diêu dụng cảm hóa, tế độ của Bồ-tát
Quán-thế-Âm trực tiếp ngay trong tâm ý của con cọp.
Bà Ấm là người quen (tu) tập chiếu
mặt kiếng về ánh thái dương (thường niệm Quán-thế-Âm) trong giờ phút
cấp bách bà chiếu đúng ánh sáng QUÁN-THẾ-ÂM.
TẠI SAO
HÌNH TƯỢNG QUÁN-THẾ-ÂM CHÚNG TA ĐANG THỜ LẠI MANG VÓC DÁNG NỮ NHÂN,
NGÀI LÀ NAM HAY NỮ ?
Chúng ta nên biết mười phương
chư Phật không hề có nữ thân. Trong kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn có câu :
"Cần thích hợp một Phật thân để tế độ, Bồ Tát Quán Thế Âm liền
hiện Phật thân để nói Pháp và tế độ"". Thế thì, đức Quán-thế-Âm
là Bồ-tát, Ngài làm sao có thể hiện được Phật thân ?
Thực ra trong kinh ĐẠI-NHẬT và
kinh BI-HOA đức Bổn Sư THÍCH-CA đã từng dạy rằng, đức Quán-Thế-Âm đời
quá khứ đã thành Phật hiệu là CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI vào thuở lâu xa
vô lượng kiếp về trước. Vì bi nguyện độ sanh mà Ngài thị hiện làm
thân Bồ-tát. Cũng trong kinh BI-HOA, đức Phật luôn luôn gọi đức Quán-Thế-Âm
là "Thiện-nam-tử" tốt ! Vậy đức Quán-thế-Âm không thể nào
là nữ nhân được.
Căn cứ theo lịch sử về tôn
giáo, nhân gian dật sử, Linh ứng truyện ký và các lịch sử (tính chất sự
tích) của Trung Hoa từ sau nhà Châu vua Chiêu Vương đến cận đại, và Việt
Nam từ đầu thế kỷ thứ ba đến cận kim thì đức Quán-thế-Âm bồ tát
đã từng hóa hiện vào các thế gia và cả bần gia để ứng cơ hóa độ
chúng sanh. Mượn sự tướng của thế đạo để dẫn dắt nhân gian hướng
thượng quay về chánh đạo. Như Quan-Âm Diệu-Thiện về đời vua
Trang-vương. Quán-âm xách giỏ cá đời vua Huyền-Tôn nhà Đường, Quán-âm
Thị-kính đời nhà Minh, Quán-Âm linh ứng đời nhà Nguyễn v.v...Tham khảo
điều này cho ta thấy qua các đời phong kiến mọi quyền hành sanh sát, và
làm tao loạn nhân gian hay thịnh suy cho đất nước, đều nằm trong tay
Nam-giới. Tuy vậy những nữ lưu tuyệt đẹp và xuất sắc vẫn là cao điểm
để đam mê và dễ bị nữ-sắc lung lạc và điều khiển.
Vậy sự hiện người nữ nhằm để
chuyển hóa tâm xấu ác và cải thiện những xa hoa trụy lạc, đó là mục
tiêu tùy duyên hóa độ của Bồ-tát Quán-thế-Âm. Và cũng từ đó mà tượng,
ảnh của Ngài trở nên NỮ MẠO trong một số quốc gia Á-Châu. Nhưng điều
căn bản là chúng ta phải biết rằng, đó là hình ảnh thị hiện, không
nên chấp là Phật-Thân của Ngài.
BA LỄ VÍA
QUÁN ÂM HÀNG NĂM, CÓ KHÁC BIỆT GÌ HAY KHÔNG ?
Hằng năm Phật tử khắp nơi trên
thế giới thường làm lễ vía Bồ-tát Quán-Thế-Âm thật trang nghiêm vào
các ngày : 19/2, 19/6 và 19/9 đều theo âm lịch. Nhưng đa phần chỉ biết suông
là lễ vía Quán-thế-Âm thế thôi ! Thực ra trong Thiền môn nhật tụng cổ
xưa đã ghi rõ :
- Ngày 19/2 là vía QUÁN THẾ ÂM ĐẢN
SANH.
- Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM
THÀNH ĐẠO.
- Ngày 19/9 là vía QUÁN THẾ ÂM XUẤT
GIA.
Mong rằng bài viết nầy sẽ đem đến
cho quý độc giả niềm tin chân chính và thành khẩn, luôn luôn tưởng niệm
đến danh hiệu QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT để được giao cảm hằng thường với
Bồ-tát, dù tai họa đến đâu HỮU CẦU TẮC ỨNG (như trường hợp bà
Ấm). Hãy chánh tín, Lời nói của Chư Phật không bao giờ hư dối.
http://www.buddhismtoday.com/viet/botat/conghanh_QuanAm.htm