Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
Những mảnh đời

Thằng Nghé ngồi bên ngưỡng cửa nhìn mưa. Mưa mùa thu thật nhẹ và lưa thưa trong khung trời ảm đạm. Trời mây xám. Xa xa, ngoài mấy thửa ruông, rải rác những nấm mộ khi ẩn khi hiện một cách ma quái. Hai hàng tre bên con đường xóm ủ rủ buồn thiu. Lá tre vàng rụng đầy đường. Thằng Nghé phóng tầm nhìn đến bờ rột trước nhà. Mấy đám cỏ cú phủ đầy những giọt nước óng ánh như kim cương. Nước rột mờ đục, lấm tấm những hạt mưa rơi, tạo nên những vòng tròn giao thoa thành những hình dạng kỳ dị đẹp mắt. Nó ngồi nhìn sững sờ, yên lặng. Không biết nó đang nghĩ gì. Nó mơ màng như đang thả hồn về nơi đâu.

Đây là quê ngoại thằng Nghé. Trong nhà có ngoại, có một người cậu, có mẹ nó, có mấy dì và anh chị nó. Ban ngày thường rất vắng vẻ. Cậu ra đồng làm ruộng. Mẹ và mấy dì đi chợ buôn bán. Anh chị đi học trường làng. Chỉ có ngoại ở nhà với nó. Nhưng ngoại nếu không nấu nướng ở bếp thì cũng loay hoay nhặt cỏ cú ngoài vườn, hoặc đuổi bầy gà đang phá phách, hoặc hái mấy cọng rau chuẩn bị bữa cơm chiều. Thằng Nghé thích lẽo đẽo theo ngoại. Khi khác nó lại thích chơi với đàn gà. Cũng có lúc nó chỉ thích thơ thẩn một mình. Vào những lúc ngoại đi vắng–thường chỉ vắng một lát thôi, sợ thằng cháu cưng của ngoại xảy ra điều gì không may–thằng Nghé thấy cô đơn, home alone. Nhưng nó không sợ, có lẽ nó chưa biết thế giới ma quỷ là gì. Nó vô tư lự.

Vào những trưa hè oi bức thằng Nghé thường bầu bạn với khóm tre rậm rạp ngay trước ngõ nhà ngoại. Nhiều cây tre chụm lại, với những sợi bìm bịp thật dài vấn quanh theo hình xoắn ốc, vươn mình đón ánh nắng mặt trời, trông như một bó hoa khổng lồ, soi bóng mát xuống mặt đường. Nó có cảm giác khóm tre đã ở đó từ lâu lắm rồi, vẫn chờ đợi nó đến bầu bạn:

 

Khóm tre chờ đó tự bao giờ

Mặc cơn nắng hạ mặc gió mưa

Mặc cơn bão táp mùa đông giá

Tre vẫn kiên tâm vẫn đợi chờ.

 Cha thằng Nghé mất sớm, mất sớm lắm, khi nó mới ra đời chỉ mấy tháng. Chiến tranh dai dẳng. Chú nó bỏ nghề dạy học theo cách mạng kháng chiến chống Pháp. Chú đi hoài không về. Còn lại hai người cô lấy chồng xa, ở thành phố. Bà nội áp dụng câu “phu tử tòng tử,” đi theo hai người con gái. Ngôi nhà ở quê nội bị lính Tây đốt cháy. Cháy sạch hết, chỉ còn khu vườn trơ trọi, lưa thưa điểm mấy cây ổi sẻ, mấy cây chanh, vài hàng cau, mấy bụi dứa oài ọp. Mẹ dẫn mấy đứa con về ngoại tá túc. Thế là thằng Nghé có duyên với quê ngoại. Mỗi khi mẹ kể chuyện về chú, nó nghe một cách say mê chăm chú. Nó mường tượng tình quê hương đậm đà và nỗi niềm nhung nhớ xóm làng của chú:

Thôn xưa có mấy nếp tranh

Có mây sương khói xây thành trời mơ

Gió đưa tiếng sáo nên thơ

Xanh ngàn dâu biếc xa mờ trong sương

Cành tơ liễu rủ vấn vương

Đang chờ lữ khách tha phương trở về

Bên hồ lai láng chiều quê

Nhớ nhung dòng nước trôi về nơi đâu

Ra đi khóm lá buồn đau

Bao nhiêu nhung nhớ bao sầu luyến thương

Miền xa buồn nhớ quê hương

Nhắn theo lời gió nỗi vương vấn lòng

Ra đi một chí tang bồng

Lòng trai muôn thuở núi sông nguyện thề

Giang hồ một kiếp xa quê

Nỗi lòng mong mỏi đường về khói mây

Ta mơ ta trở về đây

Nương dâu xanh ngát cỏ cây đón chào

Nhìn quê mắt lệ tuôn trào

Ta nương theo gió bước vào trời mơ

Này đây khóm lá làm thơ

Này đây những nếp tranh mờ khói bay

Nỗi lòng nhung nhớ ai hay

Biết bao kỷ niệm phơi bày trong ta.

 

Mùa hè quê ngoại thật dễ thương. Không còn gì thú vị hơn được rong chơi trong chiếc quần xà lỏn. Con đường xóm vắng vẻ. Hai hàng tre soi bóng làm cơn nắng chói chang mùa hạ dịu đi nhiều. Thằng Nghé thích lang thang một mình dưới bóng tre, vô tư lự. Nó không cần thắc mắc những lũy tre có từ bao giờ, từ đâu đến, và sẽ đi về đâu. Có cái mo cau trong vườn hàng xóm. Nó chun qua bờ rào đầy gai, nhặt về làm mo bới cơm cho anh chị nó đi học. Mỗi buổi sáng mẹ nó thường thức dậy sớm, nấu cơm, bỏ vào các mo cau, ém chặt cho anh chị nó mang đến lớp ăn trưa. Tình thương anh chị nó dường như tiềm tàng trong nó tự bao giờ, nó không biết, và chẳng ai thèm biết. Còn đối với mẹ nó thì khỏi nói, là tất cả, là vũ trụ của nó.

Thế giới bên kia, chỉ cách con đường xóm, đối với nó là những bí mật. Tuy vậy, chẳng bao giờ nó có ý tò mò khám phá. Vào những trưa hè oi bức nó thường xuống bờ sông ngâm mình trong nước mát. Không biết nó biết bơi từ bao giờ. Nó bơi rành lắm. Dòng sông tuy nhỏ hẹp nhưng đối với nó thì rộng mênh mông. Có khi nó bạo dạn bơi tới nửa dòng. Bên kia sông là một ngôi làng khác, một vùng đất xa lạ, bí ẩn. Nó nghĩ không bao giờ có thể có dịp bước chân tới đó. Nó cảm thấy sờ sợ và bơi vòng trở lại.

Có một buổi trưa bến không người, nước trong vắt, nó bơi sấp, mắt nhìn đáy bến. Mặt trời trên đỉnh đầu chiếu hình nó xuống thành con ma rà bơi theo nó! Nó hoảng hốt chạy về nhà quên cả mặc quần! Nhưng rồi nó quên đi thật nhanh. Hôm sau lại xuống bến, nô đùa với nước cho đến khi cơn nóng biến mất mới thôi. Tắm xong thì thấy thoải mái và buồn ngủ. Nó lững thững dọc con đường xóm cũ, con đường duy nhất của nó, tiến thẳng tới bờ rột. Bên trái là khu vườn rộng lớn của ông đội Sâm, bao quanh bằng mấy dãy tre thẳng tắp. Bên trong cây quả nhiều lắm nhưng đặc biệt chưa bao giờ nó thấy một bóng người. Nó cảm giác ngôi vườn là một khu rừng ma đầy bí ẩn. 

Trước cổng vườn là hai bức thành ngắn, dọc theo hai cột trụ. Tất cả đều rất láng lẩy. Nó leo lên thành tường, mắt lim dim một cách thoải mái. Hơi mát của nước còn tiềm tàng trong người. Cơn gió nóng mùa hạ không làm nó khó chịu. Trước mặt là hai khóm trúc rì rào như đang thủ thỉ những ước mơ nào đó. Nó đưa tầm nhìn ra bờ rột nhìn mấy cọng rau muống lưa thưa. Thỉnh thoảng có sóng gợn lên nơi này nơi kia, có lẽ do mấy con cá vẫy đuôi. Rồi nó ngủ thiếp đi hồi nào không hay.

 Hôm nay ba chị em thằng Nghé được mẹ dẫn lên quê nội dự ngày giỗ ông nội. Nó theo mẹ và anh chị khởi hành từ sáng sớm. Trời cuối thu có sương lành lạnh. Hàng tre nhà ông đội Sâm rụng lá thật nhiều. Tiếng lá vàng xào xạc dưới chân nghe nhịp nhàng như bài hùng ca tiễn nó lên đường, một hành trình mạo hiểm đang chờ đón. Tới bờ rột rẽ phải, đi khoảng nửa giờ là đến bến đò. Nó chưa từng được phép một mình đến đây bao giờ, nhưng trông quen thuộc với nó lắm. Trước đây anh nó đã từng dẫn nó đến đây câu cá. Bãi sông gần bờ thì cạn lắm, lại phủ đầy cát. Dưới lớp nước trong vắt là những con cá bống thon nhỏ lượn mình nô đùa nhảy múa. Bên kia sông là một ngôi làng khác, và phải đi qua mấy ngôi làng nữa mới đến quê nội. Con đường bây giờ thẳng tắp và thật dài, giống như một xa lộ. Hai bên là những hàng tre với nhiều lá vàng đu đưa trước gió, sẵn sàng lao mình trải thảm chào đón “khách giang hồ.” Trên những đọt tre lốm đốm mấy con chim nhỏ buồn thiu như đang khóc mùa đông đến. Nó thì khác hẳn. Cảnh vật chung quanh nó dường như xinh tươi ấm cúng. Lòng nó như đang nói lên những nỗi niềm hạnh phúc:

 

Sương Thu lạnh nhưng lòng tôi rất ấm

Lá Thu vàng tôi vẫn thấy rất xanh

Buồn tàn Thu chim thin thít trên cành

Mà tôi nghe như véo von khúc nhạc.

 

Làng nội bây giờ đã ở trong tầm nhìn của nó. Mấy chị em nó và mẹ đang đi dọc theo con đường ruộng ngang qua nghĩa địa trước khi vào làng. Mẹ nó rẽ vào viếng mộ ba và chú nó, cắm mấy nén hương rồi biểu mấy chị em nó cúng vái trước khi trở lại bờ ruộng. Hai phần mộ của ba và chú nằm cạnh nhau, không cách bờ ruộng bao nhiêu. Phần mộ chú nó vẫn còn khá mới. Nó vẫn nhớ mấy ngày sau khi chú nó được an táng, mẹ nó đã dẫn nó viếng mộ chú. Nó nhớ hồi đó ngôi mộ mới tinh và phủ đầy những vòng hoa tưởng niệm.

 

Quê nội chỉ võn vẹn hai con đường xóm, một bên là ranh giới ngôi làng kế cạnh, còn bên kia là mấy thửa ruộng bao quanh nghĩa địa. Nhà bác trưởng (con trưởng của bà nội trước) ở cuối xóm, có hai hàng chè tàu cắt tỉa đều đặn dẫn lối vào sân nhà. Những ngày cuối thu như hôm nay, trời thường ẩm ướt, sân nhà của bác phủ đầy đất sét trơn trợt. Mấy ngón chân không giày của nó bấm vào lòng đất tạo cho nó những cảm giác mềm mại và ẩm ướt, hơi se lạnh nhưng cũng rất ấm áp, như những cảm giác se lạnh và ấm áp mà Văn Cao đã cảm xúc trong những bản nhạc Buồn tàn thu Thu cô liêu.

Tiến qua khung cửa là một không khí trang nghiêm. Bước qua bàn thờ chính mà không tỏ vẻ kính cẩn sẽ bị bác nó rầy la. Tuy bác nghiêm nghị–đúng như phong thái của một vị trưởng tộc– nhưng nó vẫn cảm giác được một tình thương con cháu nồng nàn nơi bác. Đến giờ cúng, bác trang nghiêm trong bộ áo dài khăn đóng truyền thống Việt Nam. Với nén hương trên tay, bác kính cẩn khấn vái trước bàn thờ thật lâu. Không nghe được bác lẩm bẩm những gì, nhưng rất dài dòng. Có lẽ bác đang báo cáo tổ tiên nhiệm vụ bác đã hoàn thành đến đâu, còn những gì sẽ làm nốt, và xin tổ tiên phò hộ. Sau đó bác ra lệnh cho các cô các chú các anh chị và mấy chị em nó theo thứ tự ra lạy. Hiếm khi bác cho lạy tập thể để tiết kiệm thời gian. Cúng xong là ăn. Những bàn ăn được sắp xếp một cách rất giai cấp. Bác, các chú các cô các thím và mẹ ngồi “bàn trên,” anh chị em chúng nó, thế hệ con cháu, ngồi “bàn dưới.” Nó thích nhất món “ram,” thịt heo bọc bánh tráng rồi chiên lên. Tuy để trên bàn thờ một thời gian khá lâu nhưng vẫn còn rất dòn và thơm ngon. Nhưng dù sao, có lẽ cũng không thơm ngon bằng những trái ổi chín vàng mùa hạ ở vườn nhà nội nó.

Nó nhớ có những ngày mùa hạ, mấy anh chị em chúng nó đến thăm ngôi vườn hoang vắng của nội. Mấy hàng cau, mấy cây chanh và ổi sẻ vẫn còn đó, và dường như xanh tươi hơn. Ba chị em bu quanh mấy cây ổi sẻ. Mấy trái ổi chín thon nhỏ no tròn thơm tho rất hấp dẫn mấy chị em chúng nó. Khỏi phải nói, chị nó, chị cả lúc đó khoảng mười hai mười ba, trèo lên cây này rồi cây khác. Nó còn bé tí nên không biết chị nói có giống cô bé Tuổi mười ba của Nguyên Sa không. Chỉ nhớ rằng chị rất hồn nhiên vô tư lự, giúp mẹ chăm sóc em út. Chị hái những trái ổi chín vàng ném xuống anh em chúng nó. Ổi dính đất hay không nó không cần để ý tới. Nó ăn những trái ổi một cách ngon lành. Có lẽ bào ngư vi cá cũng không thể sánh bằng. Có một trái ổi rơi xuống trúng đầu nó. Chị sợ nó đau định trụt xuống. Có đau thật, nhưng những vị chua ngọt thấm thía của những trái ổi chín mọng đã là những liều thuốc tiên. Cơn đau như tan biến trong chốc lát.

 

Chiến tranh càng ngày càng lan tràn. Ở thôn quê không có nhà nào không xây hầm trú bom đạn. Mỗi khi nghe tiếng súng là mọi người chạy vào hầm. Việc chạy vào hầm trú thân xảy ra tương đối đều đặn, dần dần trở thành thói quen như những bữa cơm sáng cơm trưa cơm chiều vậy. Thỉnh thoảng dân làng còn bị lính Tây bố ráp. Cậu thằng Nghé, người con trai duy nhất của ngoại, đã bị lính Tây bắt đi biệt tích. Hẳn ngoại buồn lắm. Quê ngoại đã trở thành nơi chôn chặt ngoại để chờ đợi con về. Ngoại ít khi để lộ nỗi buồn trước mặt con cháu, nhưng nó vẫn thỉnh thoảng thấy ngoại một mình trầm ngâm tư lự. Thằng Nghé thương ngoại lắm. Nó nghĩ không bao giờ nó sẽ quên ngoại. Sau này khi nó lớn lên, chắc chắn ngoại sẽ là kỷ niệm thân thương nhất của nó:

 

Ngày xưa ấy, ngày xưa khi còn bé

Tuổi ngọc ngà, tuổi thơ dại thần tiên

Quê ngoại ngày xưa, quê ngoại dịu hiền

Đầy thương yêu và nâng niu trìu mến.

 

Bà nội thằng Nghé ở thành phố, một mặt nhớ mấy đứa cháu mồ côi cha, mặt khác sợ bom đạn vô tình làm hại cháu mình, đã buộc hai người cô của nó đem mẹ và mấy chị em nó sang thành phố. Nó phải rời ngoại. Hôm chia tay, ngoại rơm rớm nước mắt ôm nó vào lòng. Mẹ nó là trưởng nữ, mấy dì còn trẻ chưa ai thành gia thất, nó mghiễm nhiên được ngoại nuông chiều nhất. Tự nhiên nước mắt nó cũng lưng tròng. Thằng Nghé cũng lưu luyến mảnh đất tuổi thơ của nó nhiều lắm. Biết bao giờ mới có thể thấy lại con đường xóm thân yêu thẳng tắp từ rột phía trước đến bến sông phía sau. Nó đã từng lang thang trên “con đường tình” đó biết bao nhiêu lần. Có hàng tre che nắng. Có dòng sông tắm mát. Có bức thành láng lẩy ru giấc ngủ trưa. Có khóm trúc rì rào. Có vườn sắn, vuờn cà, vườn ngô. Có bầy trâu ra đồng buổi sáng. Có lúa thơm vàng mùa gặt. Nó phải mất tất cả những thứ đó chỉ vì phải sang thành phố. Gặp thời thế thế thời phải thế. Nó không có đường chọn lựa…

 Ông Lâm ngồi yên lặng nhìn tảng đá lớn trong công viên. Đã bao nhiêu lần ông đến đây. Tảng đá đã trở thành người bạn thân thiết của ông. Ông thuộc từng đường vân, từng chỗ lồi lõm trên tảng đá. Tảng đá có thể thọ gấp ngàn lần hay vạn lần tuổi thọ của ông. Nhưng thật ra tảng đá cũng như ông, luôn luôn biến đổi theo thời gian. Tảng đá trông cứng cáp và rắn chắc nhưng thật ra cũng như cơ thể của ông, đến 90% thể tích là trống rỗng. Ông hình dung những cấu trúc nguyên tử của tảng đá đang hoạt động không ngừng. Thế giới nguyên tử là một thế giới năng động. Càng bị gò bó chúng càng có khuynh hướng hung hăng hơn. Sức ma sát bên trong và tác động của môi trường bên ngoài sẽ làm tảng đá từ từ biến dạng, dù rất chậm chạp.

Ông Lâm đưa tầm mắt theo hướng tia nắng nhìn mặt trời mùa thu. Không chói chang như mùa hạ. Chỉ cần mang kính màu, ông có thể chiêm ngưỡng dung nhan mặt trời vẫn tiếp tục sưởi ấm nuôi dưỡng địa cầu đã hơn 4 tỷ năm qua. Ông hình dung những hoạt động không ngừng bên trong quả cầu nóng bỏng đó: Vẫn tiếp tục tổng hợp hạt nhân để soi sáng không gian. Và rồi sẽ có một ngày, chắc chắn sẽ có một ngày, có lẽ khoảng 4 hay 5 tỷ năm nữa, quả cầu đó sẽ tàn lụi hóa kiếp, sẽ mất vẻ hào nhoáng của hôm nay.

Ông Lâm nhớ đến tuổi ấu thơ của mình. Ông nhớ ngoại thân yêu. Ông nhớ hình ảnh những lúc ngoại trầm ngâm quỳ trước bàn thờ ông ngoại với nước mắt lưng tròng. Ông nhớ rõ nỗi buồn hiện trên nét mặt ngoại mỗi lần có ai vô tình nhắc đến người cậu mà ngoại vẫn nhớ nhung đợi chờ. Ông nhớ mẹ đã vất vả như thế nào để nuôi lớn mấy chị em ông. Ông nhớ mỗi lần có ai hỏi mẹ tại sao đặt ông cái tên Nghé xấu xí như vậy, mẹ đã trả lời ngắn gọn rằng mẹ sợ “kẻ khuất mặt khuất mày” bắt cóc đứa con út cưng của mẹ. Ông nhớ rõ cứ mỗi khi tan chợ về, mẹ luôn luôn để dành cho ông không trái cam thì trái quít. Ông nhớ đến những giây phút thần tiên khi ba chị em ông nô đùa quanh mấy cây ổi sẻ trong vườn nhà nội. Cả quãng đời ấu thơ đang trải dài trong tâm trí ông. Vui buồn lẫn lộn. Tuổi thơ đã ra đi từ lâu mà ông cảm thấy như mới hôm qua. Dường như sự sống, cũng như những tiềm nguyên tử, chẳng có một thực tại khách quan nào. Hàng vạn chữ “nếu” hiện ra trong đầu ông. Nếu thân phụ ông không mất sớm; nếu không có chiến tranh; nếu nội không biểu các cô gọi mấy chị em ông sang thành phố; vân vân. Mỗi chữ “nếu” hẳn phải là một cuộc đời khả hữu khác nhau của ông. Sự sống quả vô thường như một giấc mơ. Khung trời mùa thu năm nào của thằng Nghé cũng như một giấc mơ, đang hiện rõ trước mặt ông, ảm đạm và nên thơ:

 

Tôi vẫn nhớ một chiều thu quê ngoại

Lá tre vàng phủ kín dấu chân đi

Sáo mục đồng vang vọng tiếng lâm li

Đàn trâu thẩn thơ về theo lối cũ

Phía chân trời mây sẫm mầu vây phủ

Xa xa buồn mấy nấm mộ trầm tư

Vùng không gian như nửa thực nửa hư

            Chiếm hồn tôi một chiều thu quê ngoại.

 

Cơn nắng chiều mùa thu trong công viên thật mát mẻ dễ chịu. Tâm hồn ông Lâm đang chan hòa với vạn vật chung quanh. Ông thả hồn hình dung những hạt quang tử đang nô đùa với vũ điệu nghê thường như những cánh bướm vườn xuân:

 

Tôi biết em một chiều thu nhạt nắng

Bay chập chờn như cánh bướm vườn xuân

Khoe sắc hương theo điệu múa nghê thường

Em ẩn hiện như những loài ma quái

Nhưng vắng em sao lòng tôi tê tái

Biết phương nào để định hướng em đi

Rồi em khuyên đừng tìm kiếm làm chi

Bởi vì em chỉ là chiều nắng nhạt

Em cho tôi bao nỗi niềm hoan lạc

Em đưa tôi xa đến tận rừng xanh

Có chim non ca ríu rít trên cành

Có muôn hoa đang tưng bừng đua nở

Tôi yêu em với tấm lòng rộng mở

Tôi có em chỉ chợt đó chợt đây

Em cho tôi những ấm áp vơi đầy

            Bởi vì em chính là bầy nắng nhạt.

 Tự nhiên ông Lâm thấy lòng mình rất thanh thản. Ông trở về nhà, đem quyển Tâm Kinh ra đọc, quyển Kinh mà ông đã đọc đi đọc lại nhiều lần: … Sắc tức thị không, không tức thị sắc …

Mùa thu Sydney 2006

http://www.buddhismtoday.com/viet/cuocsong/nhung_manhdoi.htm

 


Vào mạng: 1-7-2006

Trở về mục "Quà tặng cuộc sống"

Đầu trang