Nếu hạnh phúc là đối tượng mà nhân loại
mãi đi tìm, thì hẳn phương pháp tìm ra đáp số về bài toán hạnh phúc là mối
quan tâm của nhân loại. Hạnh phúc ở đâu, nó là gì, những điều này được
giải đáp thỏa đáng trong tinh thần Viên Giác. Viên Giác chỉ cho ta thấy
rằng, tất cả là sự lưu xuất là phóng ảnh của tâm thức. Trở về với tâm là
trở về với suối nguồn hạnh phúc dạt dào từ thuở ban sơ.
Có lẽ cũng cảm hứng từ điều này mà trong
Tâm Như bất thối, nhà thơ Mặc Giang có đoạn:
Giữa muôn trùng biền biệt
Thật ra chẳng hai bờ
Lật bức ảnh mịt mờ
Chắp tay hoa mầu nhiệm
Nhìn cái huyễn, không huyễn
Ðã dứt sạch huyễn rồi
Thỏng thay mà buông lơi
Trụ tâm như bất thối
(Mặc Giang, Tâm Như bất thối)
Ðây là một thơ hay. Phải chăng là một kinh
nghiệm về sự thể nhập thể tánh ch ất của Tâm Như xuyên qua quán chiếu các
huyễn. Có lẽ câu hỏi cũng chính là câu trả lời, mà nội dung của nó không
nằm trong ngôn từ mà ẩn náu đằng sau những gì mong manh nhất mà ngôn từ
thể hiện.
Tuy nhiên, để dọn đường câu trả lời hay
đáp số được thỏa đáng, điều đầu tiên, chúng ta cần hiểu rằng, thế giới
thiên sai vạn biệt này được đan kết bởi các duyên điệp trùng trong sự tạo
tác của biệt nghiệp và cọng nghiệp. Sự bất khả tư nghìcủa nghiệp thì không
thể diễn bày ra mà chỉ cảm nhận bằng mọi tri giác và mọi giai tầng của tâm
thức. Thật sự khi nhìn vào tự tánh của chúng, hay chính là những giả tạo
hư ngụy của “muôn trùng biền biệt”, ta mới phát hiện ra cái gút mắc
căn bản mà từ đó chúng thiên biến vạn hóa.
Tuy thiên biến vạn hóa mà “chẳng hai bờ”;
hai bờ khiến ta liên tưởng ngay đến thế giới nhị nguyên được mất xấu tốt,
sanh tử Niết-bàn. “Chẳng hai bờ”, do chúng xuất phát từ cái “một” miên
viễn, là bản tâm, điều mà Viên Giác dạy : “Nhất thiết Như Lai viên giác
diệu tâm bổn vô bồ-đề cập dự Niết-bàn; diệc vô thành Phật cập bất thành
Phật, vô vọng luân hồi cập phi luân hồi”. Cái “Chẳng hai bờ” nói
lên tự tánh vô ngã của các pháp, hay chính của “muôn trùng biền biệt”.
Cho nên dù là thiên hình vạn trạng khác nhau, như hoa đốm lăng xăng, nhưng
quán sát bằng trí huệ thì thấy chúng vốn vô tướng, là huyễn sinh huyễn
diệt. Vậy, cái “chẳng hai này” không phải là cái “một” có hình tướng khác
với hai hay nhiều, mà là cái “một” của sự thanh tịnh, bình đẳng biến khắp
Viên giác diệu tâm. Cho nên khi nhận ra thật tánh của vạn pháp, tức là đã
đưa tay lật lại một uế độ của thế giới huyễn hóa thành một Tịnh độ mầu
nhiệm của Hoa Nghiêm.
“Lật bức ảnh”,
một lối nói thật thơ! Cái bức ảnh vũ trụ này được lật thành môt cảnh giới
hoàn toàn khác. Cái “lật” của chuyển đổi tâm mà không đơn thuần lật lui
lật tới như lật trang sách. Cái lật ở đây là cả một quá trình tu tập và
đột nhập vào “cái chẳng hai”, vào thẳng tâm tủy của những “muôn
trùng biền biệt”. “Lật bức ảnh” là sự xuyên qua các huyễn tướng
của “không hoa”, xuyên qua cái vô minh mịt mờ đã giăng từ vô thỉ để có
được sự mầu nhiệm của thế giới đầy hoa.
Nhận ra cái “không hai” này, ta sẽ có ngay
thái độ điềm tĩnh và dám “lật đổ” cả một thế giới mịt mờ mà lâu nay chúng
ta vìnó mà đau khổ thất vọng….Hay nói đúng hơn, cái khổ sở của con người
chỉ biến mất khi người đó đặt xuống tất cả những bám víu của vọng tâm,
những ham muốn dẫn dắt con người lang thang vô định. Sự nhiệm mầu như như
của Hoa chỉ có được khi tâm thức trở nên vắng lặng “giữa muôn trùng
biền biệt”, giữa có không, được mất, cũng là khi mà :
Nhìn cái huyễn không huyễn
Đã dứt sạch huyễn rồi
Thỏng tay mà buông lơi
Trụ tâm như bất thối
Nhưng làm sao để dứt sạch cái huyễn, tác
giả Mặc Giang không nêu ra, mà chỉ “nhìn” từ căn bản nhận ra cái “không
hai” của vạn pháp. Cái nhìn đó chứa đựng cả môt sự liễu tri về cái huyễn
và căn nguyên của nó. Chúng phát sanh từ “viên giác Diệu tâm”, hay chính
là cách nói khác : “Nhất thế chúng sanh, chủng chủng huyễn hóa, giai sanh
ư Như Lai Viên Giác diệu tâm. Do như không hoa, tùy không nhi hữu, huyễn
hoa tuy diệt, không tánh bất động hoại” Những huyễn hóa được sanh từ mống
dậy của vô minh trong biển tâm Viên giác tròn đầy như sự nhô lên của từng
đợt sóng. Tướng của sóng vốn từ nước, sóng hết rồi thìtrở lại thành nước.
Cũng vậy, huyễn hóa sanh từ tâm, diệt rồi trở về tâm, tương tợ như hoa đốm
xuất hiện trong không gian, chúng diệt rồi mà không gian thìbất động. Sự
có ra của các huyễn không phải lỗi ở Viên Giác , cũng như sự có các hoa
đốm không phải lỗi tại không gian, mà chính do con mắt bị nhặm đỏ. Mắt
nhậm sinh hoa đốm, tâm bệnh sinh huyễn tướng. Các huyễn này mất đi khi
bệnh được chữa lành. Trong Tín Tâm Minh, ngài Tăng Xán dạy : “nhãn nhược
bất thụy, chư mộng tự trừ; tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như ” (Nếu mắt
không ngủ thì không có chiêm bao, tâm không trú trước thì không sanh sự
sai biệt về vạn pháp).
Vậy sự có ra các huyễn tướng đánh dấu sự
sai lạc của tâm thức ô nhiễm. Nhưng bản thân các huyễn này không thật, như
sự không thật của hoa đốm hay của giấc mộng; nên nó có hay không, thì hoàn
toàn tùy thuộc vào tâm ta, là vấn đề của tâm, cho nên nói rằng: “như mộng
trung nhân, mộng thời phi vô, cập chí ư tỉnh, liễu vô sở đắc”, hay chỉ cần
nhận ra bản chất không thật của huyễn thì huyễn diệt: “tri huyễn tức ly…..
ly huyễn tức giác”, mà không cần làm gì hơn là để cái tâm thanh tịnh chiếu
soi.
Bấy giờ chỉ cần “Thỏng tay mà buông lơi”
mà thôi, đó là trạng thái tâm thức ly khai các huyễn, không còn mê muội;
liễu tri các huyễn tướng vốn an trú trong thật tướng của nó; mà thật tướng
xưa nay vốn đầy đủ, không cần tạo tác, bởi nó vốn là vi diệu của tâm. “Thỏng
tay mà buông lơi”, gợi lên phong cách phóng khoáng của chư vị tổ sư đã
vượt qua bên này bên kia vòng kiến chấp và đang thỏng tay vào chợ, thị
hiện hóa độ chúng sanh, thiết lập v ô trú xứ Niết-bàn, do đã “Trụ tâm
Như bất thối”.
Đoạn thơ Tâm Như bất thối
của Mặc Giang là cả một triết lý sâu sắc v
ề nghĩa lý Viên giác. Để có thể nói lên
biểu đạt được điều đó, đòi hỏi cả một sự nghiền ngẫm tư duy và thể hiện độ
“chín” của tâm thức của tác giả Mặc Giang. Không cần phải làm gì đối với
thế giới phù hoa mà chỉ cần quay lại khám phá, sửa đổi và khám phá cái tâm,
quán sát những đặc tính đa thù của nó.
Ôi! Cái huyễn! sức tàn phá của nó vô cùng
tàn bạo đối với tâm thức còn mịt mờ u tối; nhưng lại trở nên rất mong manh
như hoa đốm, như sương sớm, như nắng chiều dưới cái nhìn đầy trí huệ. Bản
chất vô tự tính của các huyễn gợi cho ta khả năng vươn tới sự nỗ lực tích
cực để thấy đằng sau cái huyễn là những gì không phải huyễn. Ðó là sự nỗ
lực của tâm thức Ðại thừa, nhân cách Ðại thừa : thỏng tay vào chợ, dêiù mà
mà Tâm Như bất thối đã dọn đường cho chúng ta.