Nghệ thuật của môn phái Thiền (Zen) của Nhật dù Thiền Lâm Tế hay Thiền
Tào Động, đều có chú trọng đến phần thiền họa và vườn cảnh.Nghệ thuật
Thiền đặt nặng về những loại chân dụng, những họa phẩmbằng mực đơn sơ,
thuật viết chữ đẹp (thư pháp) và những công cụ trực tiếp hỗ trợ cho việc
hành Thiền, kể luôn cả nghệ thuật tạonhững vườn cảnh cát đá nổi tiếng.
Sự chọn lựa những chủ đề của những thiền sư và sự nhấn mạnh về trục giác
cũng như hiểu biết trực tiếp, dẫn đến một loạt tác phẩm khác với những
chủ đề củanhững tông phái khác nhau. Tuy vậy, mục tiêu chính của việc
tu tập vẫn giữ sự hoà hợp giữa thiền họa, thư pháp với tu
tập Thiền.Theo thiền sư Eido Tai Shimano, cần phải phân biệt thư
pháp(Calligraphy) và thư pháp Thiền (tiếng Nhật gọi là bokukesi) củacác
thiền sư. Về cơ bản, cả hai đều thực hiện trên giấy trắng mực đen, có
thêm triện đỏ. Cả hai đều có bố cục tốt và cũng đềuđẹp. Thế nhưng, nói
chung, nghệ thuật của các nhà thư pháp không sống động; trái lại
bokukesi mang sức sống khác thường, vì nó được sáng tạo từ công năng
"tam muội" (samàdhi) của nhãn quan cácThiền sư. Không chỉ thế, nó còn có
vẻ đẹp kinh người và mị lựckinh hồn; do đó nó trường tồn qua nhiều thế
kỷ. (trích Ngôn ngữ Thiên, thư pháp Thiền).Thư pháp Thiền thường liên hệ
với ngôn ngữ Thiền. Ngôn ngữ Thiền, khi chúng ta đọc chúng và cố hiểu
chúng bằng tri thức, dường nhưrất thường là chẳng có ý nghĩa gì. Mặc dù
đôi khi chúng được biểuhiện một cách có luận lý, chúng cũng có thể được
diễn đạt bằng nghịch lý. các Thiền sư đương nhiên có lý do xác đáng để
diễn tả các thông điệp của mình bằng cách nầy.Hãy tìm hiểu một ví dụ. Ngài
Hoàng Bá (Obaku- 850) nói: "Khắp cả Trung Hoa, chẳng có một Thiền sư".
Thoạt nghe, lời nói có vẻ xấcxược, vì thời đó có nhiều Thiền sư danh
tiếng ở Trung Hoa. Thế nhưng, ngài Hoàng Bá chỉ nhấn mạnh: Không có ai
có thể dạy đượcThiền, chỉ do cá nhân đạt ngộ. Dùng ngôn ngữ nghịch lý
nầy đểnhấn mạnh điện đó. Những phương diện khác cũng thế. Thay vì hội hoạ
và kiến trúc có một sức mạnh về ngoại diện, nhưng những tác phẩm mang
phong cách Thiền đều mang một chức năng khởi động sự phát triển tâm linh
của người tham dự. Những đề mục thư pháp Thiền thông thường dựa trên
những sự gợi ý, những lời hàm súc, ngắn gọn, có tính phản kích lại, đòi
hỏi người tu tập phải đóng vai trò quan trọng hơn trong việc tìm kiếm sự
chứng ngộ của bản thân.Trong thiền đường, cách bài trí cũng mang những
giá trị nhất định. Sự quan trọng tại đây là những bức chân dung của các
Tổ sư Thiền, những ngôi chùa nổi bật mang hình tượng thuộc về điêu
khắc lẫn hội họa. Chân dung của những vị thiền sư (Chinzo) đượcdùng như
là một biểu tượng của sự giao cảm giữa thầy và trò. Khicon người đi đến
sự giác ngộ, bức chân dung của vị Tổ sư dùng để minh chứng cụ thể sự liên
hệ bằng trực giác giữa hai người. Một trong những bức chân dung quan
trọng nhất là của ngài Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) vị khai sáng Thiền Tông
Trung Quốc mà cuộc đời của Ngài được viết bằng những huyền thoại. Để phù
hợp với khuynh hướng châm biếm của phái Thiền, ngài Bồ Đề Đạt Ma
thường được miêu tả một cách hài hước, một sự "đột phá" xa hơn, dựa
trên những phương pháp tu tập của Phật Giáo truyền thống. Trong thiền họa,
kỹ thuật dùng mực Tàu một cách sinh động trên giấy trắngnhấn mạnh sự
quan trọng về sự hiểu biết nền tảng của sự tu tập Thiền đạo. Mực Tàu vốn
được dùng để họa tại Trung Hoa trước kia,đặc biệt là vào đời Nguyên;
tuy vậy, khi ứng dụng trong thiềnhoạ Nhật, đã được thể hiện những đường
nét tự nhiên, được chút hài hước, vốn là truyền thống hội họa Nhật.Trong
cuốn The Method of Zen, vị học giả lỗi lạc Tây Phương về Thiền học R.
Herrigel đã viết: Đặc tính của Thiền họa là không gian.Nhưng không gian
Thiền họa khong phải là thứ không gian của ngườiTây Phương, với những
chiều khác nhau, thứ môi trường nhất loạt,trong đó sự vật đứng, môi
trường chung quanh sự vật và cô lậpchúng với nhau. Thiền họa không có
không gian chết, có thể bị dời chỗ, hay bị giới hạn trong những tương quan
có thể thấy được giữa các vị trí trái, phải, trên, dưới. Không gian trong
Thiền họa mãimãi bất động nhưng lại đang động; nó dường như đang sống và
đangthở; nó không có hình và trống trải, nhưng lại là nguồn gốc của mọi
hình dáng. Nó không tên, nhưng lại là lý do làm cho mọi sựvật có một
cái tên. Nhờ nó, mọi vật có một giá trị tuyệt đối,đều quan trọng ngang
nhau, ý nghĩa ngang nhau, đều là những đạidiện của dòng sống phổ cập đang
tuôn chảy chung quanh chúng. Điềunầy cũng giải thích ý nghĩa sâu xa trong
Thiền họa, của sự "để vật thể ra ngoài". Một bức Thiền họa bao hàm
những cái "không được gợi đến" và "không thể gợi đến". Họa sĩ Thiền
không kinh hoàng trước khoảng trống (Horror vacui). Trong khoảng trống
vốn là sự vật sống động hơn tất cả.
Thiền sư Okbong Sunim người Triều Tiên cũng là một danh họa đãviết: "Nếu
bạn cầm cọ lên, bạn phải vẽ, phải sơn đi sửa lại. Khigặp công việc khó,
bạn khắc phục với cố gắng không ngừng. Sự cố gắng là yếu tố quan trọng
trong thiền hoạ. Phải luyện tâm. Hãy để cho tâm yên tĩnh, chăm chú. Bạn
không thể vẽ, nếu tâm của bạn cứ lăng xăng, lo lắng. Tâm cần yên tĩnh,
lắng đọng. Bạn nên lắng tâm ngồi thiền trong giây phút trước khi bạn bắt
đầu vẽ. Nếu tâmyên định, ta không có lý do gì mà không vẽ được cả. Tất cả
đều do tâm mà ra. Tâm là tất cả, cho nên hội họa cũng là tâm. Nếu tâm
lăng xăng, không lắng đọng, thì tranh vẽ cũng lăng xăng, lộn xộn."Vạn pháp
tụ về một pháp" nằm trong ý nghĩa đó. Phật Giáo thiên về những gì có vẻ
tự nhiên, về sự tỉnh thức trở về với cái tâm chân chánh của mình. Hội
họa cũng là cách để biểu lộ nội tâm, cảm xúc của mình. Khi tạo ra được
một tác phẩm nghệ thuật từ sự tĩnh lặng, người xem cũng thấy như hoà
lẫn vào sự tĩnh lặng đó..."Thiền họa liên kết với một truyền thống vĩ
đại - tranh phong cảnh của Trung Hoa trước khi Phật Giáo du nhập. Ở đấy,
những nét đặcbiệt của Thiền họa đã được kết tinh lại, hay ít nhất cũng đã
hình dung trước. Điều nầy có thể là do ảnh hưởng sâu xa của Lão Giáo. Khi
Phật Giáo bắt đầu truyền từ Ấn Độ vào Trung Hoa, với những biến đổi sâu
sắc trong tư duy của họ, đã trải qua những biến đổi chậm chạp nhưng sâu
sắc là nhờ Lão Giáo. Thiền có lẽ là "đóa hoa huyền diệu nhất và đẹp nhất
trong thiên tài sáng tạo của người Trung Hoa" (E. Herrigel). Những hoạ
sĩ Thiền cho rằng bắt nguồn từ những tác phẩm "tiền Phật Giáo Trung Hoa"
tức là nói đến sự un đúc do tinh thần Lão Giáo. Trong Đạo giáo của Lão
Tử, chúng ta tìm thấy nhiều yếu tố quan trọng trong nghệ thuật Thiền.Câu
chuyện sau đây trong Giai Thoại Thiền nói lên ý nghĩa của sự tu luyện
trong hội hoạ: Một lần, trong một ngôi chùa, có vị Sa dimuốn trở thành họa
sĩ như sư phụ mình là một họa sư danh tiếng, nên cầu xin thầy học về họa.
Thầy bảo chọn đề tài. Vị Sa di chọn trúc và xin thầy dạy phương pháp họa
về trúc. Thầy bảo: "Bây giờ khoan vẽ, mà quan sát trúc trong một thời
gian đã". Vị Sa di vâng lời. Ngày lại ngày, Sa di ngắm cành trúc trước cửa
sổ phòng mình.Cứ mỗi lần vị Sa di xin thầy chỉ có phương pháp vẽ trúc, thì
thầyluôn luôn đáp lại lời bảo đó và khuyên phải chuyên cần quan sáttrúc.
Sa di vâng lời và tiếp tục ngắm trúc qua nhiều dạng khác nhau. Ngắm từ
lúc trúc còn là những mầm non, khi còn là những cànhlá nhỏ, sau trở thành
cây trúc lớn vào mùa Hạ, mùa Đông, trong sương bạc, trong những tiếng
chim ca. Vị thầy nhận ra người họctrò thực hành theo lời dạy của mình
một cách tốt đẹp. Sau 7 nămkể từ khi vị Sa di bắt đầu quan sát trúc,
thầy bèn bảo: "Bây giờcon hãy cầm bút, mực và vẽ về trúc". Vị Sa di vâng
lời. Kết quả là không ai có thể vẽ trúc đẹp hơn vị Sa di đó. Từ đó, vị Sa
ditrở thành họa sĩ rất nổi tiếng.
Vườn cảnh Nhật: Ngoài hội họa còn nghệ thuật làm vườn cũng là lãnh vực
rất sâurộng. Nghệ thuật làm vườn cảnh được sử dụng lâu đời ở vùng
ViễnĐông. Những tướng quân Muromachi ở Nhật đã theo những khuôn mẫucủa
văn hoá triều Heian. Họ thường xây dựng vườn chung quanhnhững nhà thủy
tạ giữa các hồ. Công trình xây dựng thông thường gồm có: một ngôi chùa
để thờ phượng, một phòng đơn giản để hànhThiền và trà đạo. Vườn ở chung
quanh. Cách bố trí như vậy theokiểu mẫu ở ngôi đền Ginkakuji. Đây là sự
kết hợp giữa mô típbản xứ với vưòn cảnh kiểu nước ngoài. Những chất
liệu chính là vườn, nước và cát; đây là hình ảnh cảnh giới Tây Phương
được môtả trong kinh A Di Đà.Một mái chùa bằng gỗ gợi lên hình ảnh quen
thuộc những đền chùaThần Đạo (Shinto) và Phật Giáo thời đại Heian; những
cửa sổ củatầng hai là kiểu lập lại mô típ bệ thờ (Chaitya); chim
phượnghoàng trên mái nhà theo phong cách điêu khắc đền Byodoin
nổitiếng. Vấn đề căn bản là trang trí đơn giản, thông thoáng, kíchcỡ
khiêm tốn sao cho phù hợp với tinh thần tự chế của Thiền. Kiểucấu trúc
nầy được gọi là Byodo-in. Đây là một trong những ngôichùa Thiền tông mà
nghệ thuật vườn cảnh đã đạt đỉnh cao nhất; từđó lan toả khắp nơi. Hầu
hết các đền chùa Nhật đều giành mộtkhoảng không gian để tạo vườn cảnh.
Cách bố cục thường mang tínhtrừu tượng, hàm súc mà không thô thiển. Một
ít tảng đá, một đụncát được bố trí phiá trước một sân dùng để thiền hành.
Từ xa, cóthể thấy được vẻ tự nhiên của cảnh quan nầy. Tại Nhật, khi
nóiđến vườn cảnh thì nhắc đến những vườn đá nổi tiếng Ryoanji tạicố đô
Kyoto. Ta thấy gì ở đây: 15 tảng đá được sắp xếp hết sứcnghệ thuật,
tinh xảo trên đụn cát; mỗi chi tiết đều được đặt ở những vị trí chính
xác. Người đến thưởng ngoạn cảnh nầy thường phải suy nghiệm và phân
tách, mới thấu triệt hết ý nghĩa. Đá vàcát là hai giai đoạn của thành,
trụ, hoại, diệt. Rồi một ngày nào, những tảng đá kia mòn dần trở thành
cát. Vạn vật đều như thế cả.
Tại Nhật, hàng trăm cuốn sách viết về vườn cảnh, nhưng vẫn còn thấy
thiếu. Thiếu là vì sức sáng tạo ngành càng chuyên sâu, càng khám phá.
Âm nhạc Nhật và Thiền
Trong những dòng thơ Thiền của Nhật Bản có một đoạn viết về âmsắc như
sau: "Chuông ngân giữa trời không; Tiếng sáo tre gợi nhớ.Đưa hồn về
nguyên sơ". Thiền sư Nhật thường viết và suy tư vềnhững âm điệu từ cây
sáo tre.
Theo truyền thuyết ghi trong cuốnKojiki (Cổ Sự Ký) thì cây sáo tre dạng
ống tiêu (người Trung Hoagọi là Xiao) được các nhà sư Nhật Bản sang
Trung Quốc du họcmang về nước vào thời đại Nara. Vào thế kỷ VIII, và
sau đó đượctruyền bá và thu dụng làm một loại nhạc ghi trong ban nhạc
cungđình (gagaku) của Thiên Hoàng sau nầy. Tiêu cung đình Nhật Bản đầu
môphỏng theo tiêu của Trung Quốc, gồm nhiều ống trúc ghép lại vớinhau,
mỗi ống là một âm khác nhau. Nhưng dần dà về sau, qua nhữngcải cách, người
ta chỉ còn lấy một ống khoét thành nhiều lỗ trênthân, dùng cho tất cả
các âm. Ống tiêu lúc đó chia 2 loại: mộtloại không có miệng dùn để chỉnh
âm, hơi được thổi qua lỗ khoét.Loại khác có miệng, khắc theo hình chữ V,
chơi trong các ban nhạcbiểu diễn. Loại tiêu có miệng nầy người Nhật gọi
là "Shakuhachi"(Xích bát) có nghĩa là "một thước tám" (dài khoảng
54cm).Sau thời Nara, tiêu cũng lãng quên. Mãi đến thế kỷ XV, loại tiêunầy
được phục hồi, cải biến ngắn hơn, gọi là "hitoyogiri". Ngoàira, loại tiêu
nầy khấc hình chữ V, quay đỉnh vào bên trong; còntiêu cung đình của Nhật
và của Trung Hoa thì quay đỉnh ra ngoài.Tiêu hitoyogiri có 5 lỗ chuẩn
tương đương với năm âm: cung,thương, giốc, chủy, vũ (tương ứng với các
nốt nhạc: Fa, Sol, La,Do, Ré) và được các nhà sư Nhật tu theo hạnh Đầu
Đà (Kuke) phụcchế để dùng trong các buổi lễ.Ở Edo (Tokyo ngày nay) vào
thế kỷ XVIII, giới võ sĩ (samourai)từng sống nhờ bảo vệ các lãnh chúa
bỗng nhiên trở nên thất nghiệpvì trong nước trở lại thanh bình. Nhiều
người sa cơ lỡ vận gọi là"ronin" (lãng nhân) đã gia nhập hàng ngũ du tăng
khất sĩ "kumoso"(hư vô tăng); có người lập nên chùa riêng. Vì có lệnh
triều đìnhcấm mang gươm, cho nên các ronin đã cải chế các loại
tiêuhitoyogiri to hơn, dài hơn, có đầu cong lên, để khi chơi nhạc họcó
thể thổi đầu nhỏ; khi cần chiến đấu, họ dùng đầu gốc phangchém dễ dàng.
Theo truyền khẩu, chế độ Mạc Phủ đã cho phép một sốronin cải trang thành
tu sĩ để do thám các kumoso; họ len lỏi vàocác chùa, vừa đi vừa thổi tiêu,
hết nơi nầy đến nơi khác. Để phânbiệt, dân chúng gọi họ là "komuso" nghĩa
là "chẳng ra thể thốnggì". Tuy vậy, tiếng tiêu cũng như tiếng tụng kinh đã
không vì vậymà mất ý nghĩa thanh cao.Trong thời kỳ nầy, loại tiêu
Shakuhachi chia ra nhiều môn pháikhác nhau. Có môn phái như Kim-ryo chuyên
luyện hơi thở (quán sổ tức) và dùngkỹ thuật nầy để thởi tiêu. Môn phái
Kinko thì sưu tầm những cakhúc trong dân gian truyền thống, do Kinki
Kurosawa thực hiện.Những ca khúc nầy đến nay vẫn còn truyền bá, gọi là
"36 bài cổnhạc của Kinko". Vào thời Minh Trị Thiên Hoàng lại có thêm
mônphái Tozan, tổng hợp tinh hoa của tiêu Shakuhachi. Cho đến khichế độ
Mạc Phủ lụi tàn, giới võ sĩ phân tán thì tiêu cũng thayđổi. Những nét
thô cứng không còn; thay vào đó là loại tiêu códáng cong, trông thanh
tao hơn. Để tạo âm thanh, người thổi tiêutrề môi thổi vào mép của ống
sáo như lối thổi tiêu của ta. Lượnghơi thổi vào, kết hợp với tay bấm hàng
lỗ, tạo âm giai khác nhau.Tiếng tiêu cũng đi vào nghệ thuật Thiền qua
những nhạc sĩ điêuluyện về âm pháp và luôn trì thủ tâm hồn tĩnh lặng.
Nghệ thuật thiền họa và vườn cảnhNghệ thuật của môn phái Thiền (Zen) của
Nhật dù Thiền Lâm Tế hayThiền Tào Động, đều có chú trọng đến phần thiền
họa và vườn cảnh.Nghệ thuật Thiền đặt nặng về những loại chân dụng, những
họa phẩmbằng mực đơn sơ, thuật viết chữ đẹp (thư pháp) và những công
cụtrực tiếp hỗ trợ cho việc hành Thiền, kể luôn cả nghệ thuật tạonhững
vườn cảnh cát đá nổi tiếng. Sự chọn lựa những chủ đề củanhững thiền sư
và sự nhấn mạnh về trục giác cũng như hiểu biếttrực tiếp, dẫn đến một
loạt tác phẩm khác với những chủ đề củanhững tông phái khác nhau. Tuy
vậy, mục tiêu chính của việc tutập vẫn giữ sự hoà hợp giữa thiền họa,
thư pháp với tu tậpThiền.Theo thiền sư Eido Tai Shimano, cần phải
phân biệt thư pháp(Calligraphy) và thư pháp Thiền (tiếng Nhật gọi là
bokukesi) củacác thiền sư. Về cơ bản, cả hai đều thực hiện trên giấy
trắngmực đen, có thêm triện đỏ. Cả hai đều có bố cục tốt và cũng đềuđẹp.
Thế nhưng, nói chung, nghệ thuật của các nhà thư pháp khôngsống động;
trái lại bokukesi mang sức sống khác thường, vì nóđược sáng tạo từ công
năng "tam muội" (samàdhi) của nhãn quan cácThiền sư. Không chỉ thế, nó
còn có vẻ đẹp kinh người và mị lựckinh hồn; do đó nó trường tồn qua
nhiều thế kỷ. (trích Ngôn ngữThiên, thư pháp Thiền).Thư pháp Thiền thường
liên hệ với ngôn ngữ Thiền. Ngôn ngữ Thiền,khi chúng ta đọc chúng và cố
hiểu chúng bằng tri thức, dường nhưrất thường là chẳng có ý nghĩa gì. Mặc
dù đôi khi chúng được biểuhiện một cách có luận lý, chúng cũng có thể
được diễn đạt bằngnghịch lý. các Thiền sư đương nhiên có lý do xác đáng
để diễn tảcác thông điệp của mình bằng cách nầy.Hãy tìm hiểu một ví dụ.
Ngài Hoàng Bá (Obaku- 850) nói: "Khắp cảTrung Hoa, chẳng có một Thiền sư".
Thoạt nghe, lời nói có vẻ xấcxược, vì thời đó có nhiều Thiền sư danh
tiếng ở Trung Hoa. Thếnhưng, ngài Hoàng Bá chỉ nhấn mạnh: Không có ai có
thể dạy đượcThiền, chỉ do cá nhân đạt ngộ. Dùng ngôn ngữ nghịch lý nầy
đểnhấn mạnh điện đó.Những phương diện khác cũng thế. Thay vì hội hoạ và
kiến trúc có một sức mạnh về ngoại diện, nhưngnhững tác phẩm mang phong
cách Thiền đều mang một chức năng khởiđộng sự phát triển tâm linh của
người tham dự. Những đề mục thưpháp Thiền thông thường dựa trên những
sự gợi ý, những lời hàmsúc, ngắn gọn, có tính phản kích lại, đòi hỏi
người tu tập phảiđóng vai trò quan trọng hơn trong việc tìm kiếm sự chứng
ngộ củabản thân.Trong thiền đường, cách bài trí cũng mang những giá
trị nhấtđịnh. Sự quan trọng tại đây là những bức chân dung của các Tổ
sưThiền, những ngôi chùa nổi bật mang hình tượng thuộc về điêukhắc
lẫn hội họa. Chân dung của những vị thiền sư (Chinzo) đượcdùng như là
một biểu tượng của sự giao cảm giữa thầy và trò. Khicon người đi đến sự
giác ngộ, bức chân dung của vị Tổ sư dùng đểminh chứng cụ thể sự liên hệ
bằng trực giác giữa hai người.Một trong những bức chân dung quan trọng
nhất là của ngài Bồ ĐềĐạt Ma (Bodhidharma) vị khai sáng Thiền Tông Trung
Quốc mà cuộc đờicủa Ngài được viết bằng những huyền thoại. Để phù hợp
với khuynhhướng châm biếm của phái Thiền, ngài Bồ Đề Đạt Ma thường
đượcmiêu tả một cách hài hước, một sự "đột phá" xa hơn, dựa trênnhững
phương pháp tu tập của Phật Giáo truyền thống. Trong thiềnhọa, kỹ thuật
dùng mực Tàu một cách sinh động trên giấy trắngnhấn mạnh sự quan trọng
về sự hiểu biết nền tảng của sự tu tậpThiền đạo. Mực Tàu vốn được dùng
để họa tại Trung Hoa trước kia,đặc biệt là vào đời Nguyên; tuy vậy, khi
ứng dụng trong thiềnhoạ Nhật, đã được thể hiện những đường nét tự
nhiên, được chúthài hước, vốn là truyền thống hội họa Nhật.Trong cuốn The
Method of Zen, vị học giả lỗi lạc Tây Phương về Thiền họcR. Herrigel đã
viết: Đặc tính của Thiền họa là không gian.Nhưng không gian Thiền họa
khong phải là thứ không gian của ngườiTây Phương, với những chiều khác
nhau, thứ môi trường nhất loạt,trong đó sự vật đứng, môi trường chung
quanh sự vật và cô lậpchúng với nhau. Thiền họa không có không gian chết,
có thể bị dờichỗ, hay bị giới hạn trong những tương quan có thể thấy được
giữacác vị trí trái, phải, trên, dưới. Không gian trong Thiền họa mãimãi
bất động nhưng lại đang động; nó dường như đang sống và đangthở; nó không
có hình và trống trải, nhưng lại là nguồn gốc củamọi hình dáng. Nó không
tên, nhưng lại là lý do làm cho mọi sựvật có một cái tên. Nhờ nó, mọi
vật có một giá trị tuyệt đối,đều quan trọng ngang nhau, ý nghĩa ngang
nhau, đều là những đạidiện của dòng sống phổ cập đang tuôn chảy chung
quanh chúng. Điềunầy cũng giải thích ý nghĩa sâu xa trong Thiền họa, của
sự "để vậtthể ra ngoài". Một bức Thiền họa bao hàm những cái "khôngđược
gợi đến" và "không thể gợi đến". Họa sĩ Thiền không kinhhoàng trước
khoảng trống (Horror vacui). Trong khoảng trống vốnlà sự vật sống động
hơn tất cả.
Thiền sư Okbong Sunim người Triều Tiên cũng là một danh họa đãviết: "Nếu
bạn cầm cọ lên, bạn phải vẽ, phải sơn đi sửa lại. Khigặp công việc khó,
bạn khắc phục với cố gắng không ngừng. Sựcố gắng là yếu tố quan trọng
trong thiền hoạ. Phải luyện tâm. Hãyđể cho tâm yên tĩnh, chăm chú. Bạn
không thể vẽ, nếu tâm của bạncứ lăng xăng, lo lắng. Tâm cần yên tĩnh,
lắng đọng. Bạn nên lắngtâm ngồi thiền trong giây phút trước khi bạn bắt
đầu vẽ. Nếu tâmyên định, ta không có lý do gì mà không vẽ được cả. Tất cả
đều dotâm mà ra. Tâm là tất cả, cho nên hội họa cũng là tâm. Nếu
tâmlăng xăng, không lắng đọng, thì tranh vẽ cũng lăng xăng, lộn xộn."Vạn
pháp tụ về một pháp" nằm trong ý nghĩa đó. Phật Giáo thiênvề những gì
có vẻ tự nhiên, về sự tỉnh thức trở về với cái tâmchân chánh của mình.
Hội họa cũng là cách để biểu lộ nội tâm, cảmxúc của mình. Khi tạo ra
được một tác phẩm nghệ thuật từ sựtĩnh lặng, người xem cũng thấy như
hoà lẫn vào sự tĩnh lặngđó..."Thiền họa liên kết với một truyền thống vĩ
đại - tranh phong cảnhcủa Trung Hoa trước khi Phật Giáo du nhập. Ở đấy,
những nét đặcbiệt của Thiền họa đã được kết tinh lại, hay ít nhất cũng đã
hìnhdung trước. Điều nầy có thể là do ảnh hưởng sâu xa của Lão Giáo.Khi
Phật Giáo bắt đầu truyền từ Ấn Độ vào Trung Hoa, với nhữngbiến đổi sâu
sắc trong tư duy của họ, đã trải qua những biến đổichậm chạp nhưng sâu
sắc là nhờ Lão Giáo. Thiền có lẽ là "đóa hoahuyền diệu nhất và đẹp nhất
trong thiên tài sáng tạo của ngườiTrung Hoa" (E. Herrigel). Những hoạ sĩ
Thiền cho rằng bắt nguồntừ những tác phẩm "tiền Phật Giáo Trung Hoa" tức
là nói đến sự unđúc do tinh thần Lão Giáo. Trong Đạo giáo của Lão Tử,
chúng tatìm thấy nhiều yếu tố quan trọng trong nghệ thuật Thiền.Câu chuyện
sau đây trong Giai Thoại Thiền nói lên ý nghĩa của sựtu luyện trong hội
hoạ: Một lần, trong một ngôi chùa, có vị Sa dimuốn trở thành họa sĩ như
sư phụ mình là một họa sư danh tiếng,nên cầu xin thầy học về họa. Thầy
bảo chọn đề tài. Vị Sa di chọntrúc và xin thầy dạy phương pháp họa về
trúc. Thầy bảo: "Bây giờkhoan vẽ, mà quan sát trúc trong một thời gian đã".
Vị Sa di vânglời. Ngày lại ngày, Sa di ngắm cành trúc trước cửa sổ phòng
mình.Cứ mỗi lần vị Sa di xin thầy chỉ có phương pháp vẽ trúc, thì thầyluôn
luôn đáp lại lời bảo đó và khuyên phải chuyên cần quan sáttrúc. Sa di
vâng lời và tiếp tục ngắm trúc qua nhiều dạng khácnhau. Ngắm từ lúc trúc
còn là những mầm non, khi còn là những cànhlá nhỏ, sau trở thành cây
trúc lớn vào mùa Hạ, mùa Đông, trongsương bạc, trong những tiếng chim
ca. Vị thầy nhận ra người họctrò thực hành theo lời dạy của mình một
cách tốt đẹp. Sau 7 nămkể từ khi vị Sa di bắt đầu quan sát trúc, thầy
bèn bảo: "Bây giờcon hãy cầm bút, mực và vẽ về trúc". Vị Sa di vâng lời.
Kết quảlà không ai có thể vẽ trúc đẹp hơn vị Sa di đó. Từ đó, vị Sa ditrở
thành họa sĩ rất nổi tiếng.
Vườn cảnh Nhật: Ngoài hội họa còn nghệ thuật làm vườn cũng là lãnh vực
rất sâurộng. Nghệ thuật làm vườn cảnh được sử dụng lâu đời ở vùng
ViễnĐông. Những tướng quân Muromachi ở Nhật đã theo những khuôn mẫucủa
văn hoá triều Heian. Họ thường xây dựng vườn chung quanhnhững nhà thủy
tạ giữa các hồ. Công trình xây dựng thông thườnggồm có: một ngôi chùa để
thờ phượng, một phòng đơn giản để hànhThiền và trà đạo. Vườn ở chung
quanh. Cách bố trí như vậy theokiểu mẫu ở ngôi đền Ginkakuji. Đây là sự
kết hợp giữa mô típbản xứ với vưòn cảnh kiểu nước ngoài. Những chất
liệu chính làvườn, nước và cát; đây là hình ảnh cảnh giới Tây Phương
được môtả trong kinh A Di Đà.Một mái chùa bằng gỗ gợi lên hình ảnh quen
thuộc những đền chùaThần Đạo (Shinto) và Phật Giáo thời đại Heian; những
cửa sổ củatầng hai là kiểu lập lại mô típ bệ thờ (Chaitya); chim
phượnghoàng trên mái nhà theo phong cách điêu khắc đền Byodoin
nổitiếng. Vấn đề căn bản là trang trí đơn giản, thông thoáng, kíchcỡ
khiêm tốn sao cho phù hợp với tinh thần tự chế của Thiền. Kiểucấu trúc
nầy được gọi là Byodo-in. Đây là một trong những ngôichùa Thiền tông mà
nghệ thuật vườn cảnh đã đạt đỉnh cao nhất; từđó lan toả khắp nơi. Hầu
hết các đền chùa Nhật đều giành mộtkhoảng không gian để tạo vườn cảnh.
Cách bố cục thường mang tínhtrừu tượng, hàm súc mà không thô thiển. Một
ít tảng đá, một đụncát được bố trí phiá trước một sân dùng để thiền hành.
Từ xa, cóthể thấy được vẻ tự nhiên của cảnh quan nầy. Tại Nhật, khi
nóiđến vườn cảnh thì nhắc đến những vườn đá nổi tiếng Ryoanji tạicố đô
Kyoto. Ta thấy gì ở đây: 15 tảng đá được sắp xếp hết sứcnghệ thuật,
tinh xảo trên đụn cát; mỗi chi tiết đều được đặt ởnhững vị trí chính
xác. Người đến thưởng ngoạn cảnh nầy thườngphải suy nghiệm và phân tách,
mới thấu triệt hết ý nghĩa. Đá vàcát là hai giai đoạn của thành, trụ,
hoại, diệt. Rồi một ngàynào, những tảng đá kia mòn dần trở thành cát. Vạn
vật đều như thếcả. Tại Nhật, hàng trăm cuốn sách viết về vườn cảnh,
nhưng vẫncòn thấy thiếu. Thiếu là vì sức sáng tạo ngành càng chuyên
sâu,càng khám phá.
Âm nhạc Nhật và ThiềnTrong những dòng thơ Thiền của Nhật Bản có một
đoạn viết về âmsắc như sau: "Chuông ngân giữa trời không; Tiếng sáo tre
gợi nhớ.Đưa hồn về nguyên sơ". Thiền sư Nhật thường viết và suy tư
vềnhững âm điệu từ cây sáo tre. Theo truyền thuyết ghi trong cuốnKojiki (Cổ
Sự Ký) thì cây sáo tre dạng ống tiêu (người Trung Hoagọi là Xiao) được
các nhà sư Nhật Bản sang Trung Quốc du họcmang về nước vào thời đại
Nara. Vào thế kỷ VIII, và sau đó đượctruyền bá và thu dụng làm một loại
nhạc ghi trong ban nhạc cungđình (gagaku) của Thiên Hoàng sau nầy. Tiêu
cung đình Nhật Bản đầu môphỏng theo tiêu của Trung Quốc, gồm nhiều ống
trúc ghép lại vớinhau, mỗi ống là một âm khác nhau. Nhưng dần dà về sau,
qua nhữngcải cách, người ta chỉ còn lấy một ống khoét thành nhiều lỗ
trênthân, dùng cho tất cả các âm. Ống tiêu lúc đó chia 2 loại: mộtloại
không có miệng dùn để chỉnh âm, hơi được thổi qua lỗ khoét.Loại khác có
miệng, khắc theo hình chữ V, chơi trong các ban nhạcbiểu diễn. Loại tiêu
có miệng nầy người Nhật gọi là "Shakuhachi"(Xích bát) có nghĩa là "một
thước tám" (dài khoảng 54cm).Sau thời Nara, tiêu cũng lãng quên. Mãi đến
thế kỷ XV, loại tiêunầy được phục hồi, cải biến ngắn hơn, gọi là "hitoyogiri".
Ngoàira, loại tiêu nầy khấc hình chữ V, quay đỉnh vào bên trong; còntiêu
cung đình của Nhật và của Trung Hoa thì quay đỉnh ra ngoài.Tiêu
hitoyogiri có 5 lỗ chuẩn tương đương với năm âm: cung,thương, giốc,
chủy, vũ (tương ứng với các nốt nhạc: Fa, Sol, La,Do, Ré) và được các
nhà sư Nhật tu theo hạnh Đầu Đà (Kuke) phụcchế để dùng trong các buổi
lễ.Ở Edo (Tokyo ngày nay) vào thế kỷ XVIII, giới võ sĩ (samourai)từng
sống nhờ bảo vệ các lãnh chúa bỗng nhiên trở nên thất nghiệpvì trong nước
trở lại thanh bình. Nhiều người sa cơ lỡ vận gọi là"ronin" (lãng nhân) đã
gia nhập hàng ngũ du tăng khất sĩ "kumoso"(hư vô tăng); có người lập nên
chùa riêng. Vì có lệnh triều đìnhcấm mang gươm, cho nên các ronin
đã cải chế các loại tiêuhitoyogiri to hơn, dài hơn, có đầu cong lên, để
khi chơi nhạc họcó thể thổi đầu nhỏ; khi cần chiến đấu, họ dùng đầu
gốc phangchém dễ dàng. Theo truyền khẩu, chế độ Mạc Phủ đã cho phép một
sốronin cải trang thành tu sĩ để do thám các kumoso; họ len lỏi vàocác
chùa, vừa đi vừa thổi tiêu, hết nơi nầy đến nơi khác. Để phânbiệt, dân
chúng gọi họ là "komuso" nghĩa là "chẳng ra thể thốnggì". Tuy vậy, tiếng
tiêu cũng như tiếng tụng kinh đã không vì vậymà mất ý nghĩa thanh
cao.Trong thời kỳ nầy, loại tiêu Shakuhachi chia ra nhiều môn pháikhác
nhau. Có môn phái như Kim-ryo chuyên luyện hơi thở (quán sổ tức) và dùngkỹ
thuật nầy để thởi tiêu. Môn phái Kinko thì sưu tầm những cakhúc trong
dân gian truyền thống, do Kinki Kurosawa thực hiện.Những ca khúc nầy
đến nay vẫn còn truyền bá, gọi là "36 bài cổnhạc của Kinko". Vào thời
Minh Trị Thiên Hoàng lại có thêm mônphái Tozan, tổng hợp tinh hoa của
tiêu Shakuhachi. Cho đến khichế độ Mạc Phủ lụi tàn, giới võ sĩ phân tán
thì tiêu cũng thayđổi. Những nét thô cứng không còn; thay vào đó là
loại tiêu códáng cong, trông thanh tao hơn. Để tạo âm thanh, người thổi
tiêutrề môi thổi vào mép của ống sáo như lối thổi tiêu của ta. Lượnghơi
thổi vào, kết hợp với tay bấm hàng lỗ, tạo âm giai khác nhau.Tiếng tiêu
cũng đi vào nghệ thuật Thiền qua những nhạc sĩ điêuluyện về âm pháp và
luôn trì thủ tâm hồn tĩnh lặng.