- Đạo đức trong nếp sống người Phật tử
- Tỳ kheo Thích Minh Châu
Nhân ngày lễ Phật Đản năm nay, chúng tôi xin trình bày về
đề tài: "Nếp sống Phật Giáo", một đề tài mà chính Đức Bổn
Thích Ca đã giảng thuyết nhiều lần, nhưng cụ thể và rõ ràng là trong
các bài Kinh Đức Phật dạy người con trai của mình là La Hầu La , sau khi
La Hầu La xuất gia. Những bài Kinh này đều có bản dịch trong Trung bộ
Kinh II, Kinh thứ 61 và 62 và trong Trung bộ Kinh III, kinh thứ 147.
Kinh này đã được Vua A Dục, thế kỷ thứ tư trước Công
nguyên khắc trên bia ký Bhàbrà, kêu gọi mọi người xuất gia và tại gia
Phật tử cần phải tụng đọc Kinh này.
Chúng ta không phải là con trai Đức Phật như La Hầu La,
nhưng đều là người con tinh thần của Đức Phật. Những lời chí tình
và đầy trí tuê của Đức Phật. Những lời dạy chí tình và đầy trí
tuệ của Đức Phật đối với La Hầu La, cách đây gần ba ngàn năm tại
Ấn Độ cũng là lời dạy đối với tất cả chúng ta, những con người
Phật Việt Nam, xuất gia cũng như tại gia, nam cũng như nữ, trẻ cũng như
già.
Hôm nay, nhân ngày Đại Lễ Phật Đản trang trọng, chúng
ta hãy cùng nhau suy ngẫm về những lời giáo huấn của Đức Phật về nếp
sống đạo, nếp sống Phật giáo.
Đức Phật nói: "Này, La Hầu La, nhà ngươi nghĩ thế nào?
Mục đích của cái gương là gì?".
La Hầu La trả lời: "Bạch Thế Tôn, mục đích là để
phản tỉnh"
"Cũng vậy, Đức Phật dạy: "Này La Hầu La, sau khi
phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần,
hãy hành khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành ý nghiệp".
Nếp sống đạo là nếp sống luôn luôn có phản tỉnh,
không buông trôi, không phóng túng. Cái gương mà Đức Phật nói không phải
là cái gương soi mặt, mà là cái gương tâm hồn soi chiếu lại mọi ý nghĩ,
lời nói và việc làm của mình có hợp hay không với nếp sống đạo; nếp
sống Phật giáo, tức là như lời Phật dạy La Hầu La, có hại hay không
có hại đối với mình; đối với người, có lợi hay không có lợi, đối
với mình và đối với người, đem lại hạnh phúc hay là gây ra đau khổ
bất hạnh cho mình và cho người.
Vì sao Đức Phật lại khuyên chúng ta phải phản tỉnh nhiều
lần?
Đó là do quá trình diễn biến của nghiệp, có thể chia
làm ba giai đoạn: giai đoạn một là giai đoạn dụng tâm, cũng gọi là
tác ý. Thông thường, chúng ta gọi là ý muốn. Thí dụ hôm nay là ngày Lễ
Phật Đản. Nhưng ngay từ ngày hôm qua và trước nữa, có vị đã có ý muốn
hôm nay đến chùa lễ Phật, nghe giảng, làm nhiều Phật sự và thiện sự
khác. Nhưng cũng có những vị chắc chỉ là số rất ít nhân ngày Lễ Phật
Đản lại muốn đi xem bói, xem toán, mong được "vào cầu" một
chuyến để phát tài, phát lộc.
Ngay trong giai đoạn ý muốn này, chúng ta cũng phải phản tỉnh,
phải xét xem muốn như vậy là đúng hay không đúng, hợp hay không hợp với
nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo, có lợi lạc cho mình và cho người
hay không, đem lại hạnh phúc hay là gây ra đau khổ, cho mình và cho người
hay là cho cả hai.
Nếu trong giai đoạn ý muốn, quý vị phản tỉnh thấy vào
ngày Lễ Phật đản mà đi xem bói xem toán là không thích hợp, là nêu gương
xấu mê tín dị đoan cho vợ con, họ hàng bè bạn và những người khác
thì quý vị hãy kiên quyết từ bỏ ý muốn đó đi. Ngược lại, đối với
ý muốn đi chùa, lễ Phật, nghe thuyết giảng, làm nhiều Phật sự và thiện
sự khác. Các vị phản tỉnh thấy ý muốn đó là tốt đẹp, đem lại an
lạc cho mình và cho người khác, hiện nay cũng như về sau, thì quý vị
hãy cương quyết thực hiện ý muốn đó, mà cũng chính vì tuyệt đại đa
số các vị đã có ý muốn tốt đẹp đó, cho nên hôm nay chúng tôi có
duyên lành thuyết giảng trong một hội chúng đông đảo và hồ hởi như
thế này.
Nếu mọi việc chúng ta làm, mọi lời chúng ta nói, mọi ý
nghĩ của chúng ta đều được phản tỉnh xem xét cẩn thận ngay từ trong
giai đoạn ý muốn, như lời Đức Phật dạy La Hầu La, thì bao nhiêu sai lầm,
tội ác và bất hạnh đã không xảy ra trong thế giới đầy đau thương này.
Đức Phật nói: "Này La Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh
ngươi biết "Thân nghiệp này ta muốn làm, thân nghiệp này cuả ta có
thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến
cả hai, thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ. Một thân
nghiệp như vậy, này La Hầu La, nhà ngươi nhất định chớ có làm. Này La
Hầu La, nếu sau khi phản tỉnh, người biết: "Thân nghiệp này ta muốn
làm, thân nghiệp này cuả ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể
đưa đến hại nguời, không có thể đưa đến hại cả hai, thời thân
nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc. Một
thân nghiệp như vậy là thiện, này La Hầu La, nhà ngươi nên làm".
Giai đoạn hai là giai đoạn một việc đã bắt đầu làm,
đang làm. Ngay trong giai đoạn này, giai đoạn việc làm đang diễn biến, chúng
ta vẫn tiếp tục phản tỉnh: việc này chúng ta đang làm hợp hay không hợp
với nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo, có gây thiệt hại cho mình,
cho người khác, cho cả hai hay không, hay là ngược lại, có đem an lạc cho
mình, cho người khác, cho cả hai hay không? Nếu qua phản tỉnh, xét thấy
là có hại cho mình, cho người, cho cả hai thì chúng ta hãy cương quyết tiếp
tục việc làm đó, dù có khó khăn cản trở.
Cũng như ngày hôm nay, quý vị hoan hỉ đến đây lễ Phật,
nghe thuyết pháp, làm nhiều thiện sự và Phật sự, trong lòng quý vị cảm
thấy an lạc, hạnh phúc, trí tuệ các vị tăng trưởng. Nếu quý vị xét
thấy đáng như vậy thì quý vị hãy yên tâm tiếp tục làm, trong ngày lễ
Phật đản này cũng như trong các ngày lễ Phật khác, hay là mỗi khi có
điều kiện.
Trái lại, có những việc quý vị đang làm, đang tiến hành,
nhưng trong quá trình làm, quý vị xét thấy không có lợi cho mình, cho người,
không có lợi cho cả hai, thì dù ý muốn ban đầu có tốt chăng nữa, quý
vị cũng nên chấm dứt ngay công việc đó.
Đức Phật dạy La Hầu La rằng: "Này La Hầu La, khi
nhà ngươi đang làm một thân nghiệp, nhà ngươi cần phản tỉnh thân nghiệp
ấy như sau: Thân nghiệp này ta đang làm, thân nghiệp này của ta đưa đến
tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp
này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Này
La Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, nhà ngươi biết thân nghiệp đang làm
là bất thiện, như vậy thì nhà ngươi hãy từ bỏ một thân nghiệp như vậy.
Nhưng nếu, này La Hầu La, trong khi phản tỉnh, nhà ngươi biết như sau: thân
nghiệp nay ta đang làm không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người,
không đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến
an lạc, đem đến quả báo an lạc, thân nghiệp như vậy, này La Hầu La,
nhà ngươi cần phải tiếp tục làm."
Giai đoạn ba là giai đoạn khi một việc đã được làm
xong. Chúng ta cũng cần phản tỉnh xem, việc mà chúng ta đã làm có hợp
hay không hợp với nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo, có gây thiệt hại
hay không cho mình và cho người, có gây thiệt hại hay không cho cả hai, có
đem lại an lạc và hạnh phúc hay không cho mình và cho người khác hay là
cho cả hai. Nếu phản tỉnh và nhận thấy việc đã làm có gây thiệt hại
cho mình và cho người khác hay là cho cả hai, thì chúng ta phải thành thật
ăn ăn hối lỗi, trung thực bộc lộ lỗi lầm với vị đạo sư hay là với
những người bạn đồng tu, đồng đạo của mình. Sau đó, hạ quyết tâm
từ nay không làm lại một việc làm có hại như vậy nữa. Nhưng nếu, qua
phản tỉnh, nhận thấy việc mình đã làm là hợp với nếp sống đạo, nếp
sống Phật giáo, đem lại hạnh phúc an lạc cho mình và cho ngưòi khác, hay
cho cả hai, thì chúng ta thật sự hoan hỷ, sẵn sàng làm lại việc đó một
lần nữa, nhiều lần nữa mỗi khi có điều kiện, vì hạnh phúc an lạc của
bản thân mình và của mọi người.
Chính Đức Phật cũng đã khuyến cáo La Hầu La nên làm như
vậy, sau mỗi việc làm cuả mình: "Này La Hầu La, sau khi nhà ngươi làm
xong một thân nghiệp, nhà ngươi cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như
sau: "Thân nghiệp này ta đã làm, thân nghiệp này của ta đưa đến tự
hại, đưa đến hại người khác, đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp
này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ, nếu
trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, nhà ngươi biết như sau: Thân nghiệp
này ta đã làm, đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại
cả hai, thời thân nghiệp này là bất thiện đưa đến đau khổ, đem đến
quả báo đau khổ. Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, nhà ngươi cần
phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước các vị Đạo
sư, hay trước các vị đồng Phạm Hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ
lộ, trình bày, cần phải phòng hộ trong tương lai".
"Lại nữa, nếu trong khi phản tỉnh, này La Hầu La,
nhà ngươi biết như sau: Thân nghiệp này ta đã làm, không đưa đến tự hại,
không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp
này là thiện, đưa đến an lạc đem đến quả báo an lạc. Do vậy, này La
Hầu La, nhà ngươi phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình tu học ngày đêm
trong các thiện pháp".
Đối với mỗi việc làm của thân, tức là thân nghiệp,
dù khi còn là ý muốn, hay là khi đang làm, hay là sau khi đã làm xong, Đức
Phật đều khuyên La Hầu La cũng như tất cả Phật tử chúng ta đều nên
tỉnh táo xem xét, là thiện hay là bất thiện, nếu là thiện, thì hãy tu học
ngày đêm để tăng trưởng những việc làm thiện đó. Và nếu là bất
thiện thì cũng hãy cố gắng ngày đêm để dứt bỏ, đoạn trừ, đề phòng,
ăn năn, hối lỗi, để cho những pháp bất thiện đó không bao giờ còn
tái phạm nữa.
Không những đối vói việc làm nơi thân, mà cả đối với
lời nói, đối với mỗi ý nghĩ chớm nở trong tâm mình, Đức Phật cũng
đều khuyên chúng ta phản tỉnh xem xét là thiện hay bất thiện. Nếu là
thiện, thì học tập phát huy tăng trưởng lên, nếu là bất thiện, thì phấn
đấu không mệt mỏi để diệt trừ, xóa bỏ. Và chỉ sau nhiều lần phản
tỉnh như vậy đối với việc làm, lời nói và ý nghĩ cuả mình, chúng ta
mới có thể tiến dần tới chỗ tất cả ba nghiệp của chúng ta, thân
nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp dần dần được trong sạch sáng sủa,
hoàn toàn hợp với nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo. Chúng ta, dần dần
thực hiện theo đúng lời dạy của Đức Phật, như đã ghi trong Kinh Pháp
Cú:
"Không làm mọi điều ác,
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm giữ ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy".
Tâm ý giữ trong sạch, phải là mối quan tâm thường xuyên
và hàng đầu của mọi Phật tử chúng ta, xuất gia hay tại gia. Vì sao vậy?
Thưa quý vị, đây là vì, thông thường, người ta suy nghĩ trước rồi mới
nói, mới làm, tất cả chúng ta đều tâm niệm câu kệ I của Kinh Pháp
Cú:
"Ý dẫn đầu các Pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như bánh xe vật kéo"
Nghĩa là: Tâm ý đã bất thiện, nhơ bẩn, đầy tham sân
si, thì lời nói, hành động với tâm ý như vậy cũng sẽ bất thiện, nhơ
bẩn, đầy tham sân si, và đem lại quả báo đau khổ.
Trái lại, như Kinh Pháp Cú nói:
"Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình".
Nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo, là nếp sống với
tâm ý trong sạch. Đó cũng chính là nếp sống hạnh phúc. Một niềm hạnh
phúc mình tự tạo cho mình, đem lại cho mình chứ không phải người nào
khác, dù là cha mẹ, bà con cũng không làm được. Đó chính là ý tứ cuả
câu kệ 43 trong kinh Pháp Cú:
"Điều mẹ cha, bà con
Không có thể làm được,
Tám hướng chánh làm được,
Làm được tốt đẹp hơn!".
Tâm hướng chánh là tâm thiện, tâm lành, tâm trong sạch.
Trái lại, con ngưòi có tâm bất thiện cũng là người bất
hạnh nhất trên đời, một nỗi bất hạnh còn lớn lao hơn, đáng sợ hơn
là điều ác kẻ thú đem lại cho mình nữa. Kinh Pháp Cú viết:
"Oan gia hại oan gia,
Kẻ thù hại kẻ thù,
Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân".
Vì sao Kinh Pháp Cú lại nói như vậy? Đấy là vì tâm bất
thiện là kẻ thù ở bên trong, kẻ thù làm hại ngấm ngầm, cho nên cũng là
kẻ thù đáng sợ hơn cả.
Có vị nêu câu hỏi: Làm sao giữ được cho tâm ý luôn
luôn thiện lành trong sạch? Làm sao giữ cho tâm ý không còn nghĩ ác, nghĩ
bất thiện? Làm sao đừng có tham sân si, bớt tham sân si, mặc dù vẫn biết
tham sân si là sai trái, đau khổ?
Đó là một câu hỏi rất chính đáng, Đức Phật đã từng
nói: "Rối ren thay loài người!" (Kinh Kandakara, Trung bộ II Kinh 51) .
Có người biết hút thuốc là có hại những vẫn hút, biết uống rượu là
có hại nhưng vẫn uống. Đó là sức mạnh cuả thói quen, một sức mạnh
đáng sợ. Cũng như một người đi mãi trong sương mai, thế nào áo cũng thấm
sương. Muốn cho áo mình đươc khô, phải phơi phóng bao nhiêu ngày! Đối với
tâm người cũng vậy. Tâm người nghĩ ác hay nghĩ thiện cũng thành thói
quen. Mà đã thành thói quen, nhất là thói quen xấu thì cũng phải có công
phu, mất thời gian mới trừ bỏ được.
Trước hết phải tự tạo cho mình một môi trường tốt với
những môi trường tốt, những thiện trí thức, như sách Phật thường nói.
Trong kinh Tiểu Kinh Mãn Nguyên (Kinh Trung Bộ số 110), Đức Phật giới thiệu
cho chúng ta rõ thế nào là nếp sống của một người bất thiện. Một
người bất thiện, là một người đầy những tánh bất thiện, như không
có lòng tin, không biết xấu hổ, không biết sợ hãi, nghe ít, biếng nhác,
thất niệm, kém trí tuệ. Người bất tiện suy tư như người bất chánh,
suy tư tự làm hại mình, suy tư làm hại người khác, suy tư làm hại cả
hai. Người bất thiện nói năng như người bất chánh: Nói láo, nói hai lưỡi,
nói lời độc ác, nói lời phù phiếm. Người bất thiện hành động như
người bất chánh, sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục. Như
vậy, với những định nghĩa trên chúng ta biết ngay thế nào là người bất
thiện và giúp chúng ta tự tránh không trở thành người bất thiện.
Phật tử thường xuyên đến đây Lễ Phật, nghe giảng
kinh đọc sách Phâạt, cùng nhau nói chuyện đạo lý, làm các việc Phật sự
và thiện sự, đó chính là tự tạo cho mình một môi trường tốt bài trừ
niệm ác, nẩy sinh niệm lành, niệm thiện. Một người làm thì khó, hay
là mới bắt đầu làm thì khó. Nhưng nếu có tổ chức, nhiều người cùng
làm và làm nhiều lần, thành quen, thành nếp thì công việc khó khăn mấy
cũng sẽ hoàn thành tốt đẹp.
Có môi trường tốt rồi, có bạn bè tốt rồi, chúng ta
còn phải nổ lực bản thân nữa.
Kinh An Trú Tầm (Kinh thứ 20, Trung Bộ Kinh 1), dạy chúng ta
phương pháp nổ lực đúng đắn để nuôi dưỡng niệm lành, loại trừ niệm
ác. Kinh An Trú Tầm nói có năm biện pháp tất cả:
-- Biện pháp thứ nhất: là lấy niệm lành xua đuổi niệm
ác. Thí dụ, lấy niệm từ bi xua đuổi niệm sân giận Đức Phật dùng
ví dụ người thợ mộc khéo, dùng một cái nêm hay (Ý nghĩ lành) đánh bật
một cái nêm khác (ý nghĩ ác).
-- Biện pháp thứ hai: Là ngẫm nghĩ về hậu quả tai hại
của niệm ác sẽ dẫn tới tội ác và sự trừng phạt. Cũng như một người
quan sát thấy mình đang đeo xung quanh cổ một cái xác chó chết, sợ quá,
liền vứt bỏ đi. Cũng như hiện nay, người nghiện thuốc lá suy nghĩ thấy
hút thuốc có thể gây cho mình và con cái mình (ngửi khói thuốc) mắc bệnh
ung thư, phát sợ bèn bỏ thuốc hút.
-- Biện pháp thứ ba: là cố gắng, quên niệm ác đi, đừng
nghĩ tới nó nữa. Phật lấy ví dụ một người nhắm mắt để khỏi phải
thấy một vật gì đó có thể thúc đẩy mình làm ác.
-- Biện pháp thứ tư: là hãy chận giòng niệm ác lại, để
cho nó giảm bớt sức mạnh. Đức Phật dùng ví dụ một người đang chạy,
chuyển sang đi, rồi chuyển sang đứng, rồi ngồi, rồi nằm. Tôi có thể
lấy ví dụ hút thuốc để minh họa lời Phật. Một người nghiện, thấy
bao thuốc lá cầm ngay lấy, rút thuốc đánh diêm châm, hít hai ba hơi luôn.
Bây giờ thấy bao thuốc, khoan cầm lấy bao, và khi đã cầm lấy bao rồi,
thì khoan rút điếu thuốc rqa, khoan châm diêm, hay là đã châm diêm rồi,
thì khoan hít một hơi v.v... Bởi vì, mỗi khi dừng lại như vậy, chúng ta
đều có thể phản tỉnh, nhớ đến lời dặn của thầy thuốc về thuốc
lá gây bệnh ung thư như thế nào, lời nhắn của vợ hút thuốc tốn tiền
như thế nào v.v... nhờ vậy, có thể ngăn không hút thuốc nữa.
-- Biện pháp thứ năm: là dùng ý chí, nghị lực khống chế
niệm ác, không cho nó sanh khởi, Phật ví dụ một người khoẻ vật ngã một
người yếu.
Trên đây là năm biện pháp khống chế và loại trừ niệm
ác, được Đức Phật giảng trong Kinh "An Trú tầm". Đó là những
lời dạy thiết thực và cụ thể, mọi người đều có thể áp dụng
trong cuộc sống hàng ngày. Một điều chúng ta cần ghi nhớ là tất cả
các niệm đều vô thường, dù ác hay thiện, nếu nó không được nuôi dưỡng
bằng những niệm tương ứng và nhất là việc làm tương ứng. Tôi lấy
ví dụ niệm hút thuốc của người hút thuốc lá. Niệm hút thuốc đó
được nuôi dưỡng bằng những niệm như là hút thuốc là vô hại, hút
thuốc thêm sáng kiến, hút một điếu có thể giảm thọ vài ba giây nhưg
cười một tiếng lại tăng thọ bảy giây v.v.. Nếu chúng ta không nuôi dưõng
niệm hút thuốc bằng những niệm như vậy, trái lại chống đối nó, bài
trừ nó bằng những niệm như hút thuốc gây bệnh ung thư, hút thuốc hại
phổi, hút thuốc tốn tiền v.v.. thì niệm hút thuốc có thể dần dần
không còn chi phối chúng ta như trước nữa. Và chúng ta có thể tiến tới
bỏ thuốc lá mà không gặp khó khăn gì.
Một điều nữa, chúng ta cũng cần ghi nhớ là niệm thiện
nói chung mạnh hơn niệm ác, cũng như ánh sáng mạnh hơn bóng tối vậy. Niệm
ác sỡ dĩ chi phối chúng ta được là vì chúng ta không biết nó là ac. Nếu
nhận mặt nó được là ác, thì tự nhiên nó sẽ tan biến đi. Chính vì vậy,
mà Kinh sách Phật khuyên chúng ta nên luôn luôn chánh niệm tỉnh giác, biết
rõ mình đang nghĩ gì, nói gì, làm gì và ý nghĩ đó, lời nói đó, việc
làm đó là thiện hay bất thiện, đem lại an lạc hay đau khổ cho mình và
cho người. Có người nghĩ ác mà không biết mình là ác. Con người như thế
rất khó tu tập bỏ ác làm lành. Cũng như có người làm điều thiện mà
không biết mình làm điều thiện thì cũng rất khó tăng trưởng điều thiện.
Cuộc sống của người Phật tử phải là một cuộc sống
tỉnh táo, biết thiện là thiện để phát huy điều thiện vốn có, học
những điều thiện mình chưa có. Đồng thời cũng phải biết ác là ác
thì mới loại bỏ điều ác mình đã phạm và phòng hộ những điều ác
chưa sanh khởi. Nói tóm lại, tăng điều thiện vốn có, học những điều
thiện chưa có, bỏ điều ác vốn có, tránh điều ác chưa có: đó phải
là nếp sống tinh tấn của mọi Phật tử chúng ta.
Đó cũng là định nghĩa chữ "Chánh tinh tấn",
Sammà vàyama, trong Bát chánh đạo mà Đức Phật khuyên tất cả Phật Tử
chúng ta cần phải hành trì. "Vị Thánh đệ tử sống tinh cần tinh tấn
từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nổ lực kiên trì
tinh tấn, không từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp". (Tăng Chi II,
trang 18).
Trên đây, chúng tôi có nói dùng niệm thiện xưa đuổi niệm
ác. Các vị có thể hỏi đó là niệm thiện gì?.
Các Kinh Phật thường dạy pháp tu "Tám chánh đạo"
bằng chánh Tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, tám pháp môn tác thành con người
toàn thiện, tám pháp môn xây dựng một nếp sống Phật giáo hoàn mỹ, thiết
thực ứng dụng vào đời sống thực tại. Một con người chí thiện tất
nhiên phải là con người có tri kiến chơn chánh có tư duy chơn chánh, có
ngôn ngữ chơn chánh, có ba nghiệp chơn chánh, có sinh kế chơn chánh, có ý
niệm chơ chánh và có thiền định chơn chánh.
Thực là sai lầm khi có một người nào đó buộc tội đạo
Phật chúng ta như là tiêu diệt mọi tình cảm của con người, như là phi
nhân bản! Trái lại, có thể nói đạo Phật là đạo nhân bản nhất bời
vì nói giúp cho mọi ngưòi phấn đấu để trở thành những con người hoàn
thiện, những bậc Thánh trên thế gian này, những con người hội tự một
cách đầy đủ và hoàn mỹ nhất những đức hạnh từ bi và trí tuệ. Con
người có trí tuệ và tình thương rộng lớn (từ bi): đó phải là hướng
phấn đấu của tất cả chúng ta, vì đó là mẫu mực, của con người hoàn
thiện theo quan điểm Phật giáo.
Đó là một hướng phấn đấu cụ thể, không có gì là viễn
vông xa vời, Đức Phật và hằng bao thế hệ đệ tử đắc đạo của Ngài
chứng tỏ con người mẫu mực hoàn thiện đó không phải là một cấu
trúc không tưởng mà đã là, đang là, sẽ là những con người sống, thực
tại nếu biết cố gắng phấn đấu theo con đường. Bát chánh đạo mà Đức
Phật đã vạch ra.
Giá trị bất hủ của đạo Phật chính là ở chỗ nó vạch
ra con đường cụ thể giúp cho mỗi người chúng ta trở thành con người
hoàn thiện, con người sống hạnh phúc và tự do, con người mẫu mực về
trí tuệ và tình thương rộng lớn.
Đó cũng chính là bức thông điệp mà Đức Phật để lại
chúng ta: bức thông điệp kêu gọi mọi người chúng ta hãy phấn đấu để
trở thành những con người hoàn thiện, những con người giải thoat khỏi
ba độc Tham, Sân và Si, những con người tâm giải thoát và trí tuệ giải
thoát, xứng đáng là học trò đức Phật, con đẻ tinh thần cuả Đức Phật.
Trong thế giới đầy hận thù này, chúng ta hãy sống không
hận thù, hãy nêu gương sáng của cuộc sống đầy tình thương. Trong thế
giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống
phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu
biết và thông cảm.
Xã hội không nhìn chúng ta, đánh giá chúng ta qua sách Phật
và tượng Phật, mà nhìn chúng ta, đánh giá chúng ta qua con người cụ thể
của chúng ta, qua việc làm và lời nói cụ thể của chúng ta, có thể hiện
trung thành hay tương phản lại với ý tưởng từ bi và trí tuệ của Đạo
Phật.
Đức Phật cũng vậy, Ngài nhìn chúng ta đánh giá chúng ta
không phải qua tượng, tranh Phật, qua sách Phật ghi chép lời Ngài có đúng
hay không, mà là qua nếp sống hàng ngày cụ thể của Tăng ni Phật tử chúng
ta có thật là nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo hay không. Nếu thật
sự, chúng ta sống, ứng xử, hành động theo đúng những lời dạy cuả Phật,
thì dù Đức Phật có nhập Niết Bàn cách đây ba ngàn năm, nhưng Ngài vẫn
luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, theo dõi hướng dẫn, khích lệ chúng ta.
Trong ngày lễ Phật Đản trang trọng này, chúng tôi hy vọng
đó là niềm tin của tất cả chúng ta, và tất cả chúng ta sẽ sống theo
niềm tin đó.
Kính chúc tất cả quý vị trọn hưởng một mùa Phật Đản
tràn đầy Từ bi và Trí tuệ.
- Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Tỳ kheo Thích Minh Châu
http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/001-daoduc.htm