Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học
còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học
này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát mà không
phải đưa đến các phước báo sanh thiên.
Ý Nghĩa của Giới
Thông thường Giới được hiểu là ngăn ngừa điều quấy,
dứt dừng điều ác ("phòng phi chỉ ác"), hoặc ngưng điều ác và
làm điều thiện ("chỉ ác, tác thiện").
Trong Bát Chánh đạo, Giới là giới uẩn gồm có chánh ngữ,
chánh nghiệp và chánh mạng. Ở đây chỉ sự ngăn ngừa các hành động lỗi
lầm của thân và khẩu. Khi các hành động lỗi lầm không được làm thì
tránh được nhiều sự tổn hại cho những người khác. Đây đã nói lên
ý nghĩa "tác thiện" của giới.
Chữ Giới trong Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Sk: Pràtimoksa,
Pàli: Patimokkha) có nghĩa là Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát, Tùy
thân giải thoát. Biệt giải thoát là giải thoát từng phần: giữ giới
nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít. Tùy thuận
giải thoát là giải thoát tùy thuộc vào quả hữu vi hay vô vi của người
hành.
Từ điển của Rhys Davids cắt nghĩa Giới (Silà) có gốc từ
ngữ căn Sìl. Ngữ căn Sìl có hai nghĩa: Upadhàranà (luân lý, đạo đức của
Phật giáo, cách cư xử, tư cách đạo đức) và Samàdhi (Định, Thiền).
Từ Patimokkha thì có nghĩa là, theo cách phân tích từ ngữ,
trói buộc các hành động, giữ gìn, thúc liễm các hành động của thân
và khẩu không để cho rơi vào đường ác, sai lầm, tổn hại mình và người.
Ví như buộc mồm trâu để ngăn nó ăn lúa mạ.
Giới trong nghĩa của ngày trai giới (Pàli: Uposatha, Sk:
Upavasatha), Hán dịch là Bố-sa-tha, có nghĩa là tịnh trú, trưởng dưỡng,
trưởng tịnh và thiện túc.
Tăng Chi (III-A) định nghĩa ngày trai giới là ngày thực
hành hạnh sống của vị A-la-hán (chỉ giữ tám giới).
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Thế Tôn dạy: "Giới
là nền tảng của bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Cần,
năm Lực, bảy Bồ-đề phần và tám Thánh đạo phần. Ví như là đất là
nền tảng, không có nó thì các loại động vật không thể di chuyển, cũng
thế, không có Giới thì ba mươi bảy phẩm trợ đạo không thể được tu
tập viên mãn."
Qua các định nghĩa trên, Giới giúp cho hành giả đạt được
hai mục tiêu: không làm các điều ác (chư ác mạc tác), làm các việc
lành (chúng thiện phụng hành). Mục tiêu thứ ba của Phật giáo là giữ
tâm ý thanh tịnh, loại bỏ hết các lậu hoặc (tự tịnh kỳ ý) và cũng
là mục tiêu cứu cánh, cần phải nhờ đến định uẩn và tuệ uẩn.
Thời Gian Và Lý Do Thiết Lập Giới
Theo tài liệu sử của Edward J. Thomas trong cuốn "Đời
sống của đức Phật" (The Life of Buddha), Giáo hội Ni được thành lập
từ năm thứ năm sau ngày Thế Tôn thành Đạo. Do đó, qua năm thứ sáu một
số giới luật đã bắt đầu hình thành, và hình thành tương đối rõ là
vào năm thứ mười sau ngày Thành Đạo. Luật tạng thì ghi mãi đến năm
thứ mười ba sau ngày Thành Đạo, giới luật mới hẵn nhiên được hình
thành, do Tôn giả Ưu-ba-ly (Upàli) đặc trách. Bấy giờ Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa
(Patimokkha) ra đời.
Vì sao Giới bổn không được thiết lập ngay từ năm đầu
của Giáo hội? Theo truyền thống, chư Thế Tôn chỉ thiết lập các giới
điều, khi nào thấy cần thiết, khi nào đầy đủ nhân duyên. Khi có một
hiện tượng vi phạm gây nên một ảnh hưởng không tốt cho sinh hoạt của
Tăng chúng thì Thế Tôn mới kiết giới, thành lập thêm một giới điều
để ngăn ngừa hiện tượng xấu ấy xảy ra về sau. Giới bổn cũng thế,
trong những năm đầu, chư Tỷ-kheo sinh hoạt thanh tịnh trong khuôn khổ của
Chánh pháp nên Thế Tôn không đề cập đến Giới bổn, mà chỉ trình bày
Giới dưới những hình thức đơn giản, và tổng quát nhất là hình thức
hộ trì các căn, hoặc dưới hình thức chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh
mạng của Bát Chánh đạo. Mãi đến năm thứ mười ba sau ngày thành Đạo,
bấy giờ có nhiều hiện tượng sinh hoạt đi ra ngoài đời sống phạm hạnh,
Thế Tôn mới thành lập giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa.
Một hôm, Tôn giả Upàli bạch Thế Tôn: "Bạch Thế
Tôn, do những mục đích nào các học pháp được thiết lập cho các đệ
tử của Như Lai và Giới bổn Patimokkha được tuyên đọc?"
Thế Tôn dạy, do mười mục đích mà các học pháp được
thiết lập và Giới bổn Pàtimokkha được tuyên đọc:
- Để Tăng chúng được cực thịnh,
- Để Tăng chúng được an ổn,
- Để chặn đứng các người cứng đầu,
- Để các thiện Tỷ-kheo được sống an ổn,
- Để chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại,
- Để chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai,
- Để đem lại tịnh tín cho những người không tin,
- Để làm tịnh tín tăng trưởng cho những người có lòng tin,
- Để diệu pháp được tồn tại,
- Để luật được chấp nhận. (Tăng Chi Bộ Kinh 3B, tr. 73)
Qua mười mục đích trên, Giới bổn chỉ giới hạn ở hai
phần "chỉ ác" và "tác thiện" trong ba phần (chỉ ác, tác
thiện và tự tịnh kỳ ý) mà Phật giáo nhắm đến.
Như thế, Giới qua Nikàya, chỉ gồm vào các giới của tại
gia và xuất gia. Đây là nội dung của Nhiếp luật nghi giới hay gọi là Biệt
giải thoát giới.
Nội Dung Các Loại Giới
Có nhiều hình thức phân loại giới. Cách phân loại thứ
nhất, giới mang ý nghĩa rộng rãi của "Đại-thừa". Ở đây có
ba loại:
- Loại một gọi là Nhiếp luật nghi giới, gồm có các giới
của tại gia và xuất gia: ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới
và cụ túc giới.
- Loại hai gọi là Nhiếp thiện pháp giới, lấy việc thực hành tất cả
việc thiện làm giới.
- Loại ba gọi là Nhiêu ích hữu tình giới, lấy việc làm lợi ích cho tất
cả chúng sanh làm giới.
Cách phân loại thứ hai cũng mang ý nghĩa rất rộng rãi của
Đại thừa, gồm có:
- Biệt giải thoát giới, đấy là nội dung của Nhiếp luật
nghi giới.
- Định cộng giới, là giải thoát do định sinh, lấy định làm giới. Do
tu Thiền định mà thân tâm thanh tịnh, giới thể được cụ túc.
- Đạo cộng giới, là giải thoát do tuệ sinh, lấy tuệ làm giới. Do tu
vô lậu nghiệp mà được trí vô lậu, giới thể được viên mãn.
Qua sự phân loại giới trên, nhiếp thiện pháp giới và
nhiêu ích hữu tình giới là thuộc Đại thừa giới; biệt giải thoát giới
và định cộng giới thì được gọi là hữu lậu giới; đạo cộng giới
được gọi là vô lậu giới.
Luận Câu Xá thì gọi biệt giải thoát luật nghi (hay biệt
giải thoát giới) là Dục giới triền giới; gọi định sanh luật nghi (hay
định cộng giới) là Sắc giới triền giới; và gọi đạo sanh luật nghi
(hay đạo cộng giới) là vô lậu giới.
Trong giới hạn của phần giới được trình bày ở đây,
chúng ta không đi vào các chi tiết của giới, cũng không đi vào các giới
luật xuất gia, mà chỉ trình bày những nét cơ bản của Giới học.
Tính Chất Và Nền Tảng Của Giới
Cứ theo từng giới cấm một, cũng như toàn thể Giới bổn,
đặc biệt là mười giới căn bản chung cho cả tại gia và xuất gia liên
hệ đến thân, khẩu và ý, chúng ta có thể tìm ra tính chất của giới
và nền tảng trên đó Giới được thiết lập.
Ở đây, đơn cử giới "bất sát" (không được sát
sanh). Căn bản của giới này là không giết người, thứ đến là không giết
hại các loài chúng sinh khác. Về phần người giữ giới, khi giữ giới này
thì ngăn trừ được sân tâm, nuôi dưỡng được từ tâm, khiến cho tâm
được an tịnh, an lạc ngay trong hiện tại, từ đây, người giữ giới không
tạo các nghiệp ác để phải chịu thọ quả khổ đau trong tương lai. Về
phần các người khác và các chúng sanh khác, khi giới bất sát được giữ
gìn thì đời sống của họ được thêm phần bảo đảm an toàn, an ổn,
khỏi phải gánh chịu các hậu quả do lòng sân hận, ác hại của người
khác gây ra trong hiện tại.
Đối với giới "bất dâm", "bất đạo",
người giữ giới ngăn được lòng tham và không tạo thêm ác nghiệp gây
ra khổ đau trong hiện tại và tương lai, tha nhân và các loài chúng sanh
khác thì tránh được các tổn hại và sống an ổn.
Kết quả việc giữ giới như thế tựu trung tính chất của
nó là đem lại an vui cho mình và cho người, điều hòa được sinh hoạt của
tập thể, tạo nên lòng tin cho kẻ khác. Đem lại lợi ích an lạc và giải
thoát cho tự thân người giữ giới, đấy là trí tuệ; đem lại lợi ích
an lạc cho tha nhân và các loài khác, đấy là từ bi. Trí tuệ và từ bi
là nền tảng trên đó Giới được thiết lập.
Hướng đi của giới là đem lại lợi ích, an lạc cho mình
và người, nên giới giúp đỡ người tu tập thấy nhẹ nhàng thân và
tâm, an lạc trong từng bước đi. Giới đúng nghĩa của nó, không có ý nghĩa
nào trói buộc hay tù túng cả. Ngoài một số hành động, nếu làm, hẳn
nhiên phá đổ hạnh thanh tịnh nên tuyệt đối bị cấm chỉ, các sinh hoạt
còn lại của người tu tập giải thoát đều được tùy duyên mà châm chước,
khai mở. Ngay cả trong các trường hợp bị cấm chỉ, nếu vì "nghịch
duyên" mà bị rơi vào (như là "các tai nạn" liên hệ giới xảy
đến), ngoài sự tác ý của hành giả, thì sẽ không phạm, nếu người bị
nạn không khởi lên tham tâm hay sân tâm tùy thuận theo sự kiện đang xảy
ra (ví dụ bị cưỡng hiếp, nếu không khởi lên lạc tâm thì không phạm).
Về các giới trọng thì tính chất khai mở của chúng còn
có phần hạn chế, nhưng với các giới nhẹ thì tánh chất của chúng rất
là cởi mở, linh động, phóng khoáng.
Luật tạng ghi rằng một lần các Phật tử và ngoại đạo
chê trách các vị Tỳ-kheo đứng mà tiểu tiện, cho rằng cung cách đó là
thô tháo, thiếu lịch nhã. Khi sự việc này được trình lên Thế Tôn, Thế
Tôn bèn dạy: "Vậy thì từ nay các Tỷ-kheo, ngồi mà tiểu tiện".
Nhưng ở một quốc độ khác, khi chư Tỷ-kheo ngồi tiểu tiện thì lại bị
chê rằng các đệ tử của Thế Tôn toàn là nữ giới. Khi sự việc này
trình lên Thế Tôn, Thế Tôn lại dạy: "Nếu vậy, thì đứng mà tiểu
vậy." Thế có nghĩa là tùy theo quốc độ, tùy theo văn hóa mà thích
ứng. Đấy là một trường hợp điển hình nói lên tính chất linh động
và cởi mở của Giới.
Như vậy giới trong giáo lý Phật giáo, không mang tính cố
chấp, cứng nhắc như là giới điều (dogma) của các Tôn giáo khác, mà
mang nghĩa tự nguyện, thiết thực đem lại lợi ích cho mình và người, nhằm
nuôi dưỡng và phát triển tín tâm của mình và người.
Vị Trí Của Giới Trong Hệ Thống Giáo Lý Phật Giáo
Trường Bộ Kinh và Trường A-hàm đề cập đến Giới nhiều
hơn là các bộ Kinh còn lại. Điển hình là Kinh Phạm Võng (của Nikàya)
và Kinh Phạm Động (của Trường A-hàm) xác định rõ vị trí của Giới
trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Trong hai kinh này, Thế Tôn xác nhận chỉ
có các kẻ phàm phu mới ca ngợi, tán thán Như Lai về Giới đức. Lời ca
ngợi, tán thán Như Lai như thật chân chánh là ca ngợi, tán thán về Tuệ
đức: -- "Như Lai đã chứng tri, giác ngộ và tuyên thuyết các pháp
sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt khỏi tầm luận
lý suông, rất tế nhị, chỉ có các bậc trí tuệ mới nhận hiểu."
Qua lời xác nhận ấy của Thế Tôn, ta thấy Giới chỉ mới
là bước đi căn bản (Giới, Định, Tuệ) của Phật giáo. Thực sự nói
rõ hơn, Giới chỉ là bước đầu của năm bước đi: Giới, Định, Tuệ,
Giải thoát và Giải thoát tri kiến (tri kiến biết rằng đã giải thoát).
Giới là bước đi đầu, nhưng là bước đi nền tảng. Nếu
hành giả rơi vào giới cấm thủ (giữ giới sai lạc của ngoại đạo), hỏng
từ bước đi đầu này, thì không thể nào thực hiện được bốn bước
đi kế tiếp.
Đấy là ý nghĩa của từ ngữ Giới trong Nikàya và A-hàm.
Qua đến Bắc tạng (Đại thừa) thì từ Giới mang ý nghĩa
rộng rãi bao la hơn: Giới bao gồm cả Định và Tuệ. Biệt giải thoát giới
(hay Nhiếp luật nghi giới) và Định cộng giới là thuộc hữu lậu giới,
Đạo cộng giới thuộc về Tuệ giải thoát hay vô lậu giới.
Đại Tạng Bát-nhã thì xếp Giới vào một trong sáu chi phần
tu tập của Bồ-tát gọi là "Lục Ba-la-mật". Giới Ba-la-mật thì
đã đồng nghĩa với đoạn trừ hết chấp thủ tướng, hay đồng nghĩa với
đoạn trừ hết lậu hoặc, đây là Tuệ giải thoát.
Tuy có cái nhìn khác nhau trong sự phân loại và trình bày về
Giới học của Nam tạng và Bắc tạng, nhưng nếu chúng ta nhình kỹ vào nội
dung thì thấy rõ không có sự mâu thuẩn thực sự nào cả. Nam tạng thì
trình bày giới hạn Giới ở mức độ như đã trình bày, qua giới hạn đó
thì Nam tạng bàn đến phần Định và Tuệ. Sự phân ranh giới hạn này
có tính cách hình thức và quy ước hơn là nội dung tâm thức của người
hành trì giới. Ở Bắc tạng, thì Định và Tuệ có thể cùng được tu
chung với Giới; ở người hành trì Giới, đạt đến giới Ba-la-mật hẳn
là đòi hỏi người hành trì Giới phải có đầy đủ Định và Tuệ. Thiếu
Định và Tuệ thì hành giả không thể nào đạt được kết quả hành giới
mà ly hết thảy các tướng chấp thủ.
Thực sự, cả Nam tạng lẫn Bắc tạng đều xác nhận
không thể tách rời riêng rẽ Giới, Định, Tuệ. Nhìn vào tám chi phần
trong Bát Chánh đạo thì thấy hiển nhiên điều đó. Giới (hay chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng) không thể gọi là Chánh giới, nếu không có mặt
của Tuệ (chánh kiến và chánh tư duy). Thực hiện Giới cũng chính là thực
hiện Tuệ, thực hiện Tuệ cũng chính là thực hiện viên mãn Giới.
Hiểu Ý Nghĩa Đúng Đắn Của Giới Và Phạm Giới
Vấn đề phạm giới đưa đến kết quả nặng, nhẹ khác
nhau giữa những người tu tập có tâm lý giải thoát khác nhau, dù họ phạm
cùng một lỗi. Hậu quả họ đón nhận cũng khác nhau trong hiện tại và tương
lai.
Phẩm Hạt Muối (Tăng Chi Bộ Kinh I) ghi sự cắt nghĩa rõ
ràng của Thế Tôn về trường hợp này. Một người dân đen đánh trộm một
con dê của một nhà giàu, có thế lực có thể bị đánh đập đổ máu
ngay tại chỗ và bị tù tội. Nhưng một đại quan của triều đình bắt
trộm một con dê của nhà giàu, có thế lực ấy thì không bị đánh đập,
cũng không bị tù tội. Ví như một nắm muối thả vào một hồ nước lớn
hay con sông lớn thì độ mặn không đáng kể, nhưng nếu để nắm muối
ấy vào một ghè nước thì độ mặn lại đáng kể. Cũng thế, cùng phạm
một tội, với người tâm tư bủn xỉn, không tu tập Giới, Định, Tuệ
thì kết quả có thể đi vào địa ngục; nhưng với người có tu tập Giới,
Định, Tuệ, có từ tâm rộng rãi thì xem qua như kết quả không có (triệt
tiêu).
Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt (Trung Bộ Kinh III) trình bày, một
người có chánh kiến và chánh tín trước lúc chết có thể sang Thiên giới
dù trong đời sống đã tạo nên mười ác nghiệp; trái lại một người có
tà kiến và đầy nghi tâm trước khi chết có thể đi vào địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, dù sanh tiền thường tạo mười thiện nghiệp. Sự có mặt
của chánh kiến của phàm phu đã có ảnh hưởng lớn như thế trong việc
thác sinh, huống nữa là sự có mặt của Tuệ giác.
Thường về mặt giới tướng, sự phạm tội được buộc
tội nếu hội đủ ba điều kiện:
- Sửa soạn để phạm.
- Hành động cụ thể về sự vi phạm.
- Cố ý.
Trong ba điều kiện để buộc tội ấy, hai điều kiện là
thuộc phần tác ý của tâm. Thành thử vấn đề của giới đặt ra một cách
rõ ràng là để giúp cho con người giữ gìn tâm thức được trong sạch,
thanh tịnh, lương thiện. Phạm giới có nghĩa là xác định tâm thức bị
hoen ố. Như thế, vấn đề giữ giới thực ra là vấn đề giữ cho ý thức
thanh tịnh, căn bản là theo dõi ý và chế ngự ý. Với ai mà tu giữ ý thức
được thanh tịnh, giác tĩnh thì hẳn nhiên người ấy có giới thể được
tròn đầy.
Giới dù cho có thiết lập nên nhiều giới điều, căn bản
vẫn là có gốc ý thức. Giữ niệm được thanh tịnh thì giới thanh tịnh.
Có thể phát biểu rằng chỉ có một giới căn bản là ý giới: rời xa
các ác pháp, bất thiện pháp, rời xa tham ái, sân hận và chấp thủ.
Giới có công năng rõ ràng, qua phần trình bày ở trên, là
đem lại an lạc và hạnh phúc lâu dài cho mình và cho người trong hiện tại
và tương lai. Giữ giới là giữ gìn nguồn an lạc hạnh phúc ấy; phạm giới
là gây tổn hại đến nguồn an lạc, hạnh phúc ấy.
Giới, như thế không phải dành riêng cho hàng xuất gia hay
chỉ dành riêng cho hàng Phật tử tại gia, cũng không phải chỉ dành riêng
cho những người lớn tuổi mà là chung cho tất cả mọi người trong mọi
lứa tuổi, cho những ai muốn sống đem lại an lạc, hạnh phúc cho mình và
người trong hiện tại và trong cả tương lai.
Nếu hạnh phúc là đối tượng mà nhân loại mãi đi tìm,
thì hẳn đúng Giới là những gì mà nhân loại cần nắm giữ trên đường
đi đến hạnh phúc ấy. Đã đến lúc con người cần loại bỏ hết thảy
ngộ nhận về Giới của giáo lý Phật giáo để tiến lại gần hơn với
Giới và nắm giữ Giới thân ái như nắm giữ hạnh phúc của mình.
http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/002-gioihoc.htm