- Lương tâm và Phật tâm
- Cư-sĩ Chính-Trực
Trên thế gian này, từ cổ chí kim, có nhiều tôn giáo, xuất
hiện tồn tại, cho đến ngày nay. Có nhiều tôn giáo, giáo phái tín ngưỡng,
thành lập sinh hoạt, chỉ một thời gian, rồi tự biến mất. Theo luật đào
thải, cái gì xấu dở, không được tiện dụng, không lợi ích gì, không
ai chịu dùng, không ai nghe theo, sẽ không tồn tại. Nhờ trí sáng suốt,
chúng ta có thể, phân biệt rõ ràng, tà giáo chánh giáo. Tà giáo là những,
giáo phái tín ngưỡng, không đem lợi ích, đến cho con người, không đem bình
yên, ở trong tâm trí, chỉ đem lợi lộc, cho một thiểu số, giai cấp lãnh
đạo. Tà giáo chủ trương, không cần trí tuệ, chỉ cần đức tin, làm
cho con người, ngày càng u mê, ngu ngơ tăm tối, nhắm mắt tin càng, bất cứ
những gì, vị giáo chủ nói, bất cứ những gì, giáo hội phán ra, không
được suy nghĩ, phân biệt đúng sai, thường được gọi là: những người
cuồng tín. Tà giáo thường hay, xúi giục tín đồ, hy sinh tài sản, của cải
vật chất, kể cả sanh mạng, bất cứ giá nào, để được phong thánh,
được lên thiên đàng. Tà giáo có mặt, ở các xứ nghèo, lạc hậu chậm
tiến, dân trí thấp kém, và còn xuất hiện, ở xứ văn minh, vật chất cực
thịnh, chẳng hạn như là: xứ Canada, Hoa Kỳ Anh Pháp, Đức Ý Nhật Bản.
Tà giáo phát triển, phạm vi giới hạn, không gian thời gian, không thể
phát triển, trên khắp toàn cầu, nếu không xử dụng, chiến tranh xâm lược,
thủ đoạn tinh thần, mê hoặc nhân tâm, linh thiêng huyền bí, cưỡng ép
hôn nhân, chính trị kinh tế. Khoa học nhân loại, ngày càng phát triển,
tà giáo lu mờ, niềm tin lung lay, tín đồ giảm sút, giáo chủ lo âu.
Chánh giáo là những, tôn giáo chân chánh, chỉ dạy pháp
môn, phương pháp dẹp trừ, phiền não khổ đau, đem lại bình yên, trong
tâm con người, đem lại an lạc, hạnh phúc hiện đời, giúp đỡ con người,
giác ngộ giải thoát, khỏi vòng sanh tử, luân hồi nghiệp báo. Chánh giáo
chủ trương, bất tùy phân biệt, cũng không kỳ thị, phát triển đến đâu,
hòa nhập đến đó, trong sự hòa bình, hòa hợp bình an, không gây chiến
tranh, không gây mâu thuẫn, không chống trái nhau, như nước pha sữa, tuy
hai mà một. Chánh giáo chủ trương, tự do tín ngưỡng, phát triển tâm
linh, tự nguyện tự tín. Chánh giáo luôn luôn, đem lại cho người, những
niềm an ủi, ngay trong đời sống, những niềm vui tươi, cho những tâm hồn,
đang bị nhiệt não, vì các hệ lụy, của thế gian này. Khoa học nhân loại,
ngày càng phát triển, chánh giáo sáng tỏ, chứng minh rõ ràng, niềm tin vững
chắc, nhờ các phát minh, khoa học kỹ thuật. Dĩ nhiên tín đồ, đông hơn
nhiều hơn, tin tưởng vững hơn, có nhiều lợi ích, thực tế rõ ràng,
ngay trong cuộc sống.
Người ta cho rằng: tất cả tôn giáo, đại cương giáo
lý, thảy đều giống nhau, chẳng hạn như là: khuyên răn dạy dỗ, làm
lành lánh dữ, cải ác tùng thiện, nhằm đạt mục tiêu, kiến tạo xã hội,
an ninh trật tự, bình yên hạnh phúc. Nói chung, để đạt cứu cánh, hầu
hết tôn giáo, đều dạy con người, sống với "LƯƠNG TÂM". Thế
giới luôn luôn, đề cao phát triển, lương tâm con người, lương tâm nhân
loại. Chúng ta hãy thử, tìm hiểu thử xem: Lương Tâm là gì? Người có lương
tâm, khác với người đời, như thế nào? Còn trong giáo lý đạo Phật, từ
ngữ "Phật TÂM" có ý nghĩa gì, có sự khác biệt nào không?
* * *
Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ tìm hiểu: "LƯƠNG TÂM
và PHật TÂM", theo quan điểm của đạo Phật mà thôi. Người trên thế
gian tin Phật, thờ Phật, cúng Phật, lạy Phật, chưa hẳn là Phật Tử
chân chánh, dù tại gia hay xuất gia. Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như
Lai". Tại sao như vậy? Bởi vì, những người chỉ biết, tin tưởng
Như Lai, tức là tin Phật, như là tin tưởng, một vị thần linh, hay là thượng
đế, quyền năng tối thượng, ban phước những ai, cầu nguyện phụng thờ,
lễ lạy tin theo, sẵn sàng giáng họa, những ai không tin, không chịu thờ
lạy, những người như vậy, chỉ là những người, phỉ báng đạo Phật.
Những người như vậy, chẳng hiểu biết gì, Chánh Pháp đạo Phật, dù họ
ở chùa, hay ở tại gia, dù họ mang bất cứ hình tướng nào chăng nữa.
Chúng ta nên biết một cách rõ ràng, một cách tường tận
và chắc chắn rằng: Đức Phật không phải là thần linh, không bao giờ
ban phước hay giáng họa cho bất cứ ai. Đức Phật là con người đã giác
ngộ và giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đức Phật chỉ dạy rành rẽ
con đường tu tập, giảng giải đầy đủ các pháp môn hành trì, tùy theo
căn cơ trình độ, hoàn cảnh và sở nguyện của mỗi người, dành cho bất
cứ ai muốn đi đến chỗ giác ngộ và giải thoát, không phân biệt là Phật
Tử hay không là Phật Tử, không phân biệt tại gia hay xuất gia. Nhưng muốn
được giác ngộ và giải thoát, hay ít ra, muốn được an lạc và hạnh
phúc hiện đời, con người phải làm sao, phải làm gì?
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Hãy tự thắp
đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp".
Phật độ hữu duyên nhơn. Đức Phật chỉ có thể cứu độ
những người hữu duyên, tức là những người chịu thắp sáng ngọn đuốc
trí tuệ của mình, bằng cách mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, nhờ đó mới
có thể phá tan màn vô minh, thấu rõ chân lý, biết pháp môn thực hành.
Nói một cách khác, nếu những người nào, phát tâm bồ đề, cầu học Chánh
Pháp, thực hành giáo lý, vào trong đời sống, hằng ngày hiện đời, mới
có thể nếm, pháp vị vi diệu, cao siêu mầu nhiệm, mới có thể sống, an
lạc hạnh phúc, mới có thể đạt, cứu kính đạo Phật, đó là: giác ngộ
và giải thoát. Cũng ví dụ như, một vị bác sĩ, chỉ có thể cứu, những
người có bệnh, nhưng chịu chữa trị, chịu nghe lời khuyên, và chịu uống
thuốc, mà thôi.
Toàn bộ giáo lý nhà Phật được ghi chép trong tam tạng
kinh điển, gồm có: Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Luận. Ngày xưa, có một
vị quan Tể Tướng đến tham vấn đạo, muốn được biết cốt tủy của
đạo Phật, làm sao có thể tóm gọn được tam tạng giáo kinh điển nhà
Phật. Một vị Thiền Sư bèn chỉ dạy bài kệ, trong Kinh Đại Bát Niết
Bàn, như sau:
- Chư ác mạc tác
- Chúng thiện phụng hành
- Tự tịnh kỳ ý
- Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là:
- Việc ác không làm
- Làm các việc thiện
- Giữ tâm thanh tịnh
- Đúng lời Phật dạy.
Vị quan đó nói: Như vậy dễ quá, con nít lên tám, cũng có
thể biết. Thiền sư từ tốn: Con nít lên tám, có thể biết được, ông
già tám mươi, suốt đời thực hành, cũng vẫn chưa xong! Thực vậy, biết
suông nói suông, việc gì cũng dễ, nhưng thực hành được, một cách chu
toàn, mới thực là khó. Hơn nữa, chúng ta nên biết rằng: Người nào thực
hành được hai câu đầu của bài kệ, đó chính là người có lương tâm
ở trên thế gian này. Còn người nào thực hành được đến câu thứ ba của
bài kệ, đó chính là người sống được với Phật Tâm, còn được gọi
là bản tâm thanh tịnh của con người. Đó mới chính thực là cứu kính của
đạo Phật.
Nói một cách đơn giản, lương tâm là tâm lương thiện,
hiền lương, thiện lành. Theo sách vở thế gian, lương tâm có nghĩa là: nhận
thức nội tâm theo lẽ phải, nhận thức đúng sai, phải trái, khả năng tự
đánh giá hành vi của mình về phương diện lẽ sống và đạo đức.
Lương tâm có nghĩa là tâm công minh, chính trực, sách vở gọi là: Công
Tâm hay Trực Tâm. Người có lương tâm luôn luôn chỉ làm các việc thiện
lành, lương thiện, ích lợi cho mình và cho người, với tất cả tấm lòng
chân thật, hiền lương, không làm các việc xấu ác, lợi mình hại người,
không gây phiền não khổ đau cho người khác. Người có lương tâm luôn
luôn đem lại sự bình yên hạnh phúc cho mọi người, an ninh trật tự cho
xã hội, là mẫu người lý tưởng, đáng tôn trọng kính mến, nhưng rất
khó thực hiện. Tại sao vậy? Bởi vì:
- - Sống trên thế gian này, "việc ác không làm" không phải là điều
dễ dàng.
- - Sống trên thế gian này, "làm các việc thiện" không phải là
điều dễ dàng.
- - Sống trên thế gian này, "giữ tâm thanh tịnh" là điều khó khăn
nhứt.
* *
1) Sống trên thế gian này, "việc ác không làm"
không phải là điều dễ dàng. Thế nào là việc xấu việc ác, việc dữ
hay việc bất thiện? Theo sách vở thế gian, việc xấu, việc ác, việc dữ,
việc bất thiện, có nghĩa là: những việc làm không tốt, đáng khinh khi,
đáng chê trách, đáng xấu hổ, đáng hổ thẹn, trái với đạo đức, không
hợp lẽ phải, lợi mình hại người, gây phiền não, tạo khổ đau, đem
tai họa đến cho người khác, do tâm ích kỷ, ganh tị đố kỵ, hơn thua phải
quấy, mục hạ vô nhơn, cống cao ngã mạn, khen mình khinh người, thúc đẩy
sai khiến. Theo kinh điển nhà Phật, một cách tóm gọn, việc xấu việc
ác, việc dữ bất thiện, đều phát xuất từ: tâm tham sân si.
Do nghiệp chướng huân tập lâu đời, tức là do thói quen
trong cuộc sống hằng ngày, con người quen làm các chuyện xấu dở, ác
ôn, độc địa, hại người, một cách dễ dàng. Nhưng khi con người muốn
ngưng các chuyện như vậy, không làm hoặc không làm nữa, trong kinh sách gọi
là: dừng nghiệp và chuyển nghiệp, thì rất khó khăn. Có những người cảm
thấy sung sướng khi làm cho người khác bực bội, đau khổ, thua thiệt, tàn
mạt, sống không yên, chết không được! Có những người cảm thấy sung
sướng khi nói những lời, khiến người khác nhức nhối tức tối, lắc
đầu chịu thua, mới được hả dạ, kể cả người đó là vợ hay chồng,
anh chị em, thậm chí là cha mẹ. Có những người cảm thấy sung sướng
khi suy tư nghĩ tưởng những điều lợi mình hại người! Trong kinh sách, gọi
đó là tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Tam nghiệp được
thanh tịnh, con người đồng với chư Phật sống ở cảnh giới tây phương.
Tam nghiệp chưa được thanh tịnh, làm sao cuộc sống được an lạc và hạnh
phúc?
Những người chỉ biết đi chùa lễ lạy, cúng kiến, ăn
chay một tháng vài ngày, thậm chí ăn chay trường, góp chút công của vào
các việc từ thiện, hay ấn tống kinh sách, tụng kinh rầm rầm, đọc chú
rào rào, gỏ mỏ đánh chuông vang rân, hoặc ngồi thiền thở ra hít vô, nhưng
chẳng hiểu mục đích để làm gì, nhứt là khi tam nghiệp chưa thanh tịnh,
mà cầu nguyện vãng sanh tây phương cực lạc, cầu nguyện gặp chư Phật,
có khi còn cầu nguyện cho tất cả cửu huyền thất tổ, nội ngoại song
thân, ông bà cha mẹ, cùng vãng sanh cực lạc, thì đúng thực là: những người
đang sống trong cơn mê!
Chính vì sống trong cơn mê, không biết thân này giả tạm,
không biết tâm này vô thường, biến đổi luôn luôn, con người tạo tội
tạo nghiệp không ngừng, cho nên trôi lăn trong sanh tử luân hồi đã bao
nhiêu kiếp rồi, vẫn chưa thức tỉnh. Chỉ vì miếng ăn ngon trong chốc lát,
con người tìm đủ mọi cách ăn uống cầu kỳ, bất chấp sự đau khổ của
các con vật bị giết làm thịt một cách hết sức dã man. Chỉ vì một lời
nói khó nghe, một lời khuyên chạm tự ái, con người có thể trả thù người
khác bằng đủ mọi cách, từ trong ý nghĩ ác độc, sắp đặt kế hoạch
hại người, cho đến lời nói cay cú, nghiệt ngã, gây nhức đầu nhói tim
kẻ khác, và hành động tàn nhẫn, vu khống cáo gian khiến người lâm nạn.
Có những việc lợi mình hại người, nhưng nhỏ nhặt, con
người có thể tránh được, không làm. Nhưng nếu việc lợi mình hại người
đó đem lại bạc triệu đô la, sức hấp dẫn thực là kinh khủng, bao
nhiêu người trên thế gian đã không chống cự nổi lòng tham lam ham muốn
thèm thuồng muôn thuở của mình, sẵn sàng lao đầu vào, dù biết đó là
việc tạo tội tạo nghiệp, cũng bất chấp hậu quả khổ đau gây ra cho
người khác và gia đình của họ, thậm chí bất chấp hậu quả xảy ra
cho chính bản thân mình. Chẳng hạn như thấy của rơi trị giá nhỏ nhoi,
người ta lượm được, có thể trả lại cho chủ nhân, để nhận được
lời khen tán thưởng. Nhưng nếu của rơi là vài chục lượng vàng y, hay
vài trăm ngàn đô la, thì việc trả lại cho khổ chủ thực là khó làm lắm
thay!
Chẳng hạn như có người xúi làm chuyện bất chánh hoặc
phi pháp, đem lại mối lợi không lớn lắm, con người còn sợ bị pháp luật
trừng trị, còn sáng suốt nhớ tới luật nhân quả, biết sợ hậu quả,
không dám làm theo. Nhưng nếu việc đó, đáng vài triệu đô, dù cho khó khăn,
nguy hiểm đến đâu, dù có phạm pháp, lương tâm cắn rứt, có người bất
chấp, dùng đủ thủ đoạn, giựt hụi quịt nợ, thưa gửi kiện tụng, vu
khống cáo gian, đặt điều thêm bớt, cố ý gạt gẫm, dụng tâm hại người,
dù là người thân, hay người hiền thiện, họ cũng mặc kệ, miễn sao thu
được, số tiền lớn lao, đến nổi tối tâm, tối mặt như vậy. Địa
ngục nơi đâu, người khác đau khổ, gia đình tan nát, họ cũng dửng
dưng, chẳng cần biết đến!
Chẳng hạn như là: Người có tâm tham, rất khó thực
hành, bố thí cúng dường, giúp người nghèo khó. Người đời có câu: Đồng
tiền liền khúc ruột. Những người như vậy, mất một đồng tiền, họ
có cảm giác, đứt từng khúc ruột. Đối với họ đồng tiền to hơn cái
bánh xe. Ngay cả chồng vợ con cái, ông bà cha mẹ, họ cũng coi nhẹ, rẻ
hơn đồng tiền! Đời họ chỉ biết: làm tiền, nhận tiền, kiếm tiền,
nhặt tiền, lượm tiền, thu tiền, đếm tiền, cất tiền, giấu tiền,
nhưng không bao giờ biết chữ "cho tiền" viết ra làm sao. Chữ tiền
làm mắt họ mờ tối, và chữ tiền đeo theo họ cho đến giây phút từ
giã cõi đời này.
Chẳng hạn như là: Người có tâm sân, coi trọng bản ngã,
tự ái rất cao, rất khó thực hành, hạnh lành ái ngữ. Ái ngữ tức là:
nói năng nhỏ nhẹ, từ tốn hòa nhã, êm ái dịu dàng, dễ nghe dễ thương,
nói lời ngọt ngào, thường hay khen tặng, đem lại nụ cười, an lạc vui
tươi, cho người khác nghe. Trái lại, những người sân hận, thường kiếm
những lời, xỉa xói móc họng, khen mình khinh người, trả đủa thực nặng,
có thể làm cho, đối phương choáng váng, nhức đầu ngất xỉu, hay nghỉ
thở luôn! Họ có thói quen, không ưa người nào, liền thích chọc tức, bằng
lời khó nghe, xui khiến người khác, quấy rầy quậy phá, bằng không làm
vậy, họ ngủ chẳng được!
Chẳng hạn như là: Người có tâm si, rất khó thực hành,
hạnh lành vị tha, chỉ luôn vì mình, không thấu suốt luật, nhân duyên quả
báo. Những người si mê, luôn luôn ích kỷ, chuyện nào lợi mình, hay gia
đình mình, dù cho hại người, cũng vẫn cứ làm. Những người như vậy tức
nhiên chỉ thấy được kiếp sống này của con người, chỉ mong kiếp sau
mình được lên thiên đàng, còn người khác phải đọa địa ngục. Họ
không biết rằng: chính những nghiệp lực, do thân khẩu ý, tạo tác hằng
ngày, sẽ dẫn dắt họ, vào vòng sanh tử, luân hồi khổ đau, ở trong lục
đạo: thiên, nhân, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
Bởi vậy cho nên, chúng ta nhận thấy, sống ở trên đời,
người ta thích thú, kiện tụng lẫn nhau, bất chấp khổ đau, của bao người
khác, người ta buôn lậu, những hàng quốc cấm, bất chấp hiểm nguy, bất
chấp tác hại, nguy hiểm lâu dài, của món hàng đó, đối với quốc gia,
đối với xã hội, đối với con người. Gạt gẫm người thân, dù là anh
em, thậm chí cha mẹ, dính vô tội lỗi, họ cũng chẳng từ! Dù cho nhiều
lúc, tránh được pháp luật, qua mặt chính quyền, làm ăn trót lọt, kiếm
được nhiều tiền, phủ phê sung sướng, nhưng chỉ tạm thời, ăn quen làm
nữa, gặp lúc hết thời, người đời tố cáo, bị bắt quả tang, tiền mất
tật mang, tài sản tuôn ra, lấy của che thân, của sông đổ biển, sa lưới
pháp luật, thân tàn ma dại, cho nên phải biết: nhân quả không sai, nghiệp
báo không chừa, bất cứ một ai, làm việc bất thiện! Cửa ngõ địa ngục,
sẵn sàng mở rộng, đón họ đi vào!
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Dù lên non, xuống
biển, vào hang, nghiệp báo vẫn theo con người như hình với bóng, không ai
có thể tránh được". Hoặc sách có câu: "Lưới trời lồng lộng,
tuy thưa mà không lọt", cũng chính là nghĩa đó vậy.
2) Sống trên thế gian này, "làm các việc thiện"
không phải là điều dễ dàng. Thế nào là việc thiện? Theo sách vở thế
gian, việc thiện có nghĩa là: những việc tốt, những việc lành, đáng
khuyến khích, đáng quí trọng, về mặt tư cách, hợp với đạo đức, lợi
mình lợi người, không hại người hại vật. Người có tâm từ thiện, sẵn
sàng giúp đỡ người khác, đem lại an vui lợi ích cho mọi người, không
phân biệt người thân hay kẻ thù. Làm các việc thiện mà không cầu danh,
không vụ lợi, không dụng ý, không cầu báo đáp, lại càng khó khăn hơn
nữa.
Con người muốn có cuộc sống an lạc và hạnh phúc, cần
phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện, van xin khấn
vái suông. Chỉ có phước báu mới có thể giúp đỡ con người được tai
qua nạn khỏi, được bình yên may mắn. Phước báu có được do những việc
làm phước thiện, tốt lành, lương thiện, chẳng hạn như: bố thí cúng dường,
đi chùa lễ Phật, ấn tống kinh sách, cứu người giúp đời, tụng kinh niệm
Phật, trì chú thiền quán, trì giới nhẫn nhịn.
Người có phương tiện tài chánh, có thể giúp đỡ người
khác bằng tiền bạc, cơm gạo, vật thực, áo quần, thuốc men, nhà cửa.
Người không có khả năng vật chất, có thể giúp đỡ người khác về phương
diện tinh thần, hay bằng chính công sức của mình, chẳng hạn như: làm
giúp công việc, chỉ dẫn đường sá, giới thiệu việc làm, chỉ dạy nghề
nghiệp. Người hiểu biết giáo lý, có thể giúp đỡ người khác, qua cơn
nhiệt não, tránh khỏi khổ đau, hết điều phiền lụy, tìm được an vui,
tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ giải thoát.
Hạnh nhẫn nhịn cũng là một việc thiện lành nên làm. Người
biết nhẫn nhịn sẽ có cuộc sống an vui, không tranh chấp cãi vã, không
thị phi hơn thua, đương nhiên tránh được nhiều chuyện phiền não khổ
đau trong cuộc đời. Người ta mắng mình một tiếng, mình trả lại một
miếng, thì dễ dàng quá. Người ta chửi mắng mình, hữu lý hoặc vô lý,
chủ ý hoặc vô ý, mình nhịn được mà không thấy nhục, mới thực là
việc khó làm. Người ta đưa lửa tới đốt, mình vẫn bình tĩnh thản nhiên,
không đưa thân tâm ra đón nhận, mọi việc chắc chắn sẽ bình yên. Người
ta chửi mãi, mõi miệng, chán nãn, rồi cũng im thôi! Người tu tâm dưỡng
tánh, nên biết nhẫn nhịn, để tránh những hậu quả phiền toái, nhất
là để giữ gìn bản tâm thanh tịnh. Đó mới chính là mục đích cứu
kính của đạo Phật.
Trì giới cũng là một việc thiện lành nên làm. Trì giới
nghĩa là giữ gìn năm giới cấm: sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Con người
không sát hại người khác, không sát hại sinh vật, để lợi mình hại người,
để được ăn ngon khoái khẩu, bởi vì chính mình không muốn bị ai hại,
không muốn bị thú dữ ăn thịt! Con người không lấy của người làm của
mình, bởi vì chính mình không muốn lấy của mình làm của người. Con
người không phá hoại hạnh phúc của người, bởi vì chính mình không muốn
người khác phá hoại hạnh phúc của mình. Con người không nói dối,
không gây chia rẽ, không tạo phiền não khổ đau cho người bằng lời nói,
bởi vì chính mình không muốn người khác gây phiền não khổ đau cho mình
bằng những lời nói độc ác, gian xảo. Con người không uống rượu hay các
chất say, một cách quá độ, bởi vì chính mình không muốn gây thù chuốc
oán, tạo tội tạo nghiệp, mà vẫn không hay, không biết gì cả.
Trên thế gian này, người nào thực hiện được hai điều:
"việc ác không làm" và "làm các việc thiện", đúng là mẫu
người lý tưởng trong xã hội, mà hầu hết các tôn giáo chân chánh đều
nhắm đến. Nói một cách khác, theo thế gian thông thường, đó là người
có lương tâm. Người có lương tâm, tạo tác được vô lượng phước báu.
Tại sao vậy? Bởi vì, người đó sẽ có cuộc sống bình yên, và góp phần
tạo sự bình yên cho những người chung quanh.
Một vấn đề cần bàn qua, đó là: Lương tâm nghề nghiệp
khác với mánh lới nghề nghiệp như thế nào? Người có lương tâm nghề
nghiệp là người luôn luôn tìm cách thăng tiến nghề nghiệp, đem hết khả
năng chuyên môn của mình, để phục vụ nhân sinh, làm hết việc chứ
không phải chỉ làm hết giờ, tận tụy cứu người giúp đời, quan tâm
đến lợi ích của đối tượng phục vụ, việc kiếm tiền sinh sống không
phải vấn đề hàng đầu. Chẳng hạn như: Một vị bác sĩ có lương tâm,
thường tận tâm chăm sóc bệnh nhân, bất kể giờ giấc, coi trọng sinh mạng
con người, luôn luôn tâm niệm cố gắng chữa lành bệnh, đem lại an vui
cho bệnh nhân và gia đình của họ. Một vị luật sư có lương tâm, thường
tận tụy với nghiệp vụ, nghiên cứu hồ sơ kỹ lưỡng, cân nhắc các vụ
kiện, với tinh thần tôn trọng chân lý, góp phần giữ gìn sự bình đẳng,
công bằng trong xã hội. Trái lại, mánh lới nghề nghiệp là các mưu kế,
mưu mô, mưu chước, phương cách, phương kế, thủ đoạn, thường đem lại
lợi mình, bất chấp quyền lợi thân chủ, thậm chí đem bất lợi cho đối
tượng phục vụ.
3) Sống trên thế gian này, "giữ tâm thanh tịnh"
là điều khó khăn nhứt. Bản tâm thanh tịnh là tâm thể của mọi người,
khi đã dẹp sạch hết phiền não khổ đau, không còn dấy niệm hoặc khởi
bất cứ niệm nào, dù thiện hay bất thiện, dù trong giây phút, dù ở bất
cứ nơi đâu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Bản tâm thanh tịnh chính
là cảnh giới niết bàn hiện tiền, đó là mục đích cứu kính của đạo
Phật.
Người không biết sống với bản tâm thanh tịnh hằng
ngày, thời chỉ là người thế gian ở trên đời, dù là người có lương
tâm hiền thiện chăng nữa, cũng vẫn còn bị sanh tử luân hồi chi phối,
dĩ nhiên là cuộc sống còn phiền não khổ đau. Tại sao như vậy? Bởi vì,
tuy những người đó đã dẹp được tâm tham, tâm sân, tâm si thường tình
của người thế gian, nhưng họ vẫn còn tâm tham, tâm sân, tâm si, một
cách vi tế, ẩn tàng dưới hình thức tín ngưỡng. Chẳng hạn như họ không
còn tâm tham ngũ dục thế gian, gồm có: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng,
ăn uống và ngủ nghỉ, nhưng họ vẫn còn tham sự sung sướng ở cõi cực
lạc hay thiên đàng! Họ chịu bỏ những cái nhỏ nhoi ở thế gian hiện tại,
để mơ ước một đời sống sung sướng cực điểm ở đời kiếp sau, chứng
tỏ tâm tham vi tế vẫn chưa thực sự dứt bỏ hẳn. Làm được việc thiện
nào, họ cũng mong, cũng đòi, cũng nghĩ, cũng nói rằng: sẽ được trả công
bội hậu ở cõi thiên đàng! Hoặc: sẽ được tiêu diêu nơi miền cực lạc!
Còn tâm mong cầu, tức còn chấp ngã, phước báu vẫn có, nhưng rất hạn
chế, theo tâm nhỏ hẹp, chỉ nghĩ đến mình, không biết đến người!
Phước báu vô lượng, không thể nghĩ bàn, khi nào không còn: chấp ngã chấp
pháp.
Chẳng hạn như họ không còn tâm sân thường tình, tức
là không còn khởi niệm tức giận, vì những chuyện nhỏ mọn, vì những
lời nói khó nghe, vì những lời nhục mạ, vu khống, chửi bới, đối với
bản thân họ. Tuy nhiên, đối với tín ngưỡng hay tôn giáo họ đang đặt
niềm tin, nếu bị đụng chạm, họ sẵn sàng chiến đấu và tiêu diệt kẻ
thù, mà họ cho là kẻ xấu ác, kêu gọi thánh chiến, nhân danh công lý họ
đang theo! Nhiều người tu hành, muốn đạt thần thông, thành tựu phép lạ,
chịu mọi khổ hạnh, nhiều năm tháng dài, chẳng hạn như là: không ăn không
ngủ, nằm trên gai chông, chổng mông lên trời, treo chân lên cây, đứng trên
một giò, chỉ ăn muối tiêu, đủ thứ hình tướng, quái dị kỳ khôi, những
ai khuyên can, giải bày lý lẽ, họ chẳng chịu nghe, vì trái ý họ, họ liền
tức giận, mắng chửi thậm tệ. Đối với những tội phạm trong xã hội,
họ vẫn còn nổi sân hận, tâm vẫn còn xáo động, vẫn còn mong muốn những
kẻ xấu ác phải bị trừng trị thực nặng, chẳng khoan dung, chẳng khoan
hồng, chẳng tha thứ. Tâm như vậy chưa được thanh tịnh!
Họ thường nghĩ rằng: ân đền oán trả là lẽ công bằng.
Họ nghĩ đến cảnh: mặt đất nứt nẻ, rẻ ra một đường, chôn sống
toàn thể, những kẻ xấu ác, hoặc cơn hồng thủy, biển máu cuồn cuộn,
cuốn trôi tất cả, những người gian ác, chỉ người như họ, cho là hiền
thiện, mới đáng sống đời! Họ không ngờ rằng: tâm địa như vậy,
cũng là tàn ác, không khác gì cả! Thí dụ như là: Một ông đạo tiên, tu
trên núi cao, có vẻ nhàn hạ, thanh thản thư thái, tiên phong đạo cốt,
nhưng khi nghe được, đệ tử của mình, bị người hiếp đáp, ở dưới
trần thế, nổi giận đùng đùng, xách kiếm xuống núi, trả thù lập tức!
Thí dụ như là: Thượng đế cõi trời, cũng có những lúc, nổi trận lôi
đình, gây nạn hồng thủy, bão tố lũ lụt, cuồng phong bệnh tật, tàn
sát nhân loại, chỉ vì loài người, không nghe lời dạy, không thờ thượng
đế! Thực ra đúng là: Loài người suy tâm mình ra tâm thượng đế! Tâm
như vậy chưa được thanh tịnh!
Chẳng hạn như họ không còn tâm si thường tình, không
còn u mê những chuyện thế gian, không còn mê muội coi bói xem tướng, xin
xăm gieo quẻ, không còn ngu si coi nước sông nước suối như nước thần
nước thánh, nhưng họ vẫn chưa hiểu biết được: Họ thực sự là ai, từ
đâu đến cõi này, hiện diện trên thế gian để làm gì, và sau kiếp này
họ sẽ đi về đâu? Họ vẫn sống trong cơn mê, như từ muôn thuở. Cho
nên, họ chỉ biết được cuộc sống đóng khung, trong một trăm năm kiếp
người mà thôi. Họ không hiểu được, kiếp sống này chỉ là một phần,
một đoạn ngắn trong chuổi dài sanh tử luân hồi, nhiều đời nhiều kiếp,
nếu họ không khéo tìm cách, tìm đường, tìm phương pháp thoát ly. Họ
không hiểu được rằng: ngoài lương tâm của người thế gian, họ còn
có tâm cao cả hơn, đó là Phật Tâm, tức là tâm tánh sáng suốt, không
bao giờ sanh diệt, bất cứ người nào cũng có. Khi đạt được Phật Tâm
thì phiền não khổ đau lập tức dứt sạch, con người thoát ly được
sanh tử luân hồi một cách mầu nhiệm vô cùng.
Nhiều người đã biết, bản tâm thanh tịnh, nhưng chưa hoàn
toàn, khi được khi không, khi lành khi dữ, khi thiện khi ác. Tại sao vậy?
Bởi vì, tập khí nhiều đời, chưa được dứt sạch, nghiệp chướng vẫn
còn. Đó là những người, còn đang tu tập, đang tập chăn trâu, con trâu
tâm ý, lăng xăng lộn xộn, chạy ngược chạy xuôi, chẳng lúc nào nguôi,
những thứ tạp niệm, nghĩ chuyện đàng đông, chạy sang đàng tây. Những
người quyết chí, tu tâm dưỡng tánh, áp dụng Chánh Pháp, vào trong cuộc
sống, hằng ngày hằng giờ, hằng phút hằng giây, cố gắng hết sức, tận
tâm tận tình, tận lực tận sức, cho đến ngày nào, giác ngộ giải
thoát. Những người như vậy, ở trong kinh sách, gọi là hành giả, đang
bước từng bước, trên đường tu tập, có khi vấp ngã, vẫn cố đứng lên,
tiếp tục đi tới, tinh tấn dũng mãnh, cho đến khi nào, hoàn toàn sống với,
bản tâm thanh tịnh. Lúc đó gọi là: đạt đạo chứng đạo, trọn thành
Phật đạo, cũng như chúng ta, thường hay phát nguyện, trong các thời
khóa, tụng kinh niệm Phật. Lúc đó, nghiệp chướng không còn, người trâu
đều mất, tâm thức rỗng lặng, tịch diệt vi lạc, bất khả tư nghì,
không thể nghĩ bàn. Nói một cách khác: Ngay giây phút đó, thành một vị
Phật, Phật Tâm hiển lộ, một cách hoàn toàn, một cách tròn đầy, một
cách viên mãn.
Phật Tâm chỉ hiển lộ khi nào tâm trí của con người hoàn
toàn thanh tịnh, không chất chứa bất cứ hình ảnh nào của chúng sanh
trong ba cõi sáu đường, hoàn toàn trống rỗng, tĩnh lặng tịch tịnh, không
còn tham lam, không còn sân hận, không còn si mê, dù là thường tình, hay
là vi tế. Mặt biển thanh bình, phẳng lặng trong sáng, bao la bát ngát,
không nổi sóng to, khi có gió lớn, không gợn sóng nhỏ, khi gió thổi nhẹ,
được ví như là: bản tâm thanh tịnh, luôn luôn bình tĩnh, tự tại thản
nhiên, trước mọi thăng trầm, ở trên thế gian, tức là vượt qua, sóng
gió cuộc đời, dù nhiều hay ít, dù nặng hay nhẹ, ở trong kinh sách, gọi
là bát phong.
Thí dụ như là: Mặt gương trong sáng, không dính bụi trần,
có ông đi qua, có bà đi lại, có vật trước gương, đều hiện hình ảnh,
rõ ràng trong gương, không hề phân biệt, nam nữ giàu nghèo, xấu đẹp mập
ốm, không hề kỳ thị, bất cứ điều gì, hoặc phương diện nào. Tuy
nhiên, khi người hay vật, đã đi qua rồi, hình ảnh hoàn toàn, không còn
trong gương. Tấm gương trở lại, trạng thái bình thường, như tự thuở
nào, trước khi hình ảnh, hiện ra trong gương, không hề thay đổi. Cũng ví
như là, bản tâm thanh tịnh, luôn luôn trống trơn, hoàn toàn tĩnh lặng, không
hề chất chứa, bất cứ hình ảnh, do tâm thương ghét, do tâm lăng xăng,
lao xao lộn xộn, thường ngày ghi lại, kinh sách gọi là: cái tâm phan
duyên, tức là duyên theo, các cảnh trần đời, luôn luôn khởi niệm: hỉ
nộ ái ố, vui buồn thương ghét. bản tâm thanh tịnh, đó là Phật tâm .
* * *
Tóm lại, chúng ta đã hiểu biết: thế nào là lương tâm,
thế nào là Phật Tâm. Trong mọi hoàn cảnh trên thế gian này, con người sống
có lương tâm, thời thiên đàng là đây. Nhưng nếu tiến được thêm bước
nữa, không chấp thiện không chấp ác, không khởi bất cứ niệm nào trong
tâm, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào: thịnh hay suy, được hay thua, sướng
hay khổ, vui hay buồn, khen hay chê, tức là con người vượt qua được bát
phong, sống được với Phật Tâm bất sanh bất diệt, thời niết bàn là
đây, thoát ly sanh tử luân hồi, hiện đời an lạc hạnh phúc, giác ngộ
giải thoát. Người ngộ Phật Tâm, làm bất cứ việc gì cũng được cảm
ứng của mọi người. Trong kinh sách có câu: Đạo cảm ứng giao nan tư nghì,
tức là người đạt đạo, tạo được sự cảm ứng, sự cảm thông một
cách mầu nhiệm, không thể nghĩ, không thể bàn. Cũng ví như người đời
làm việc gì, nếu để hết tâm trí vào việc đó, sẽ tạo được sự cảm
thông của mọi người. Một bài viết, một bản nhạc được viết nên,
hoặc được trình bày bởi những người có tâm hồn, sẽ tạo được sự
rung động, cảm thông trong tâm của độc giả hoặc khán thính giả.
Các tôn giáo khác, thường hay cho rằng: thiên đàng địa
ngục, hai nơi khác biệt, một cách rõ ràng, người thờ thượng đế, được
lên thiên đàng, không tin thượng đế, phải đọa địa ngục, đời đời
kiếp kiếp, không chuyển đổi được. Trái lại, theo quan điểm của đạo
Phật, thiên đàng hay địa ngục, mặc dù là hai cảnh giới khác nhau, nhưng
đều chỉ là tình trạng nhứt thời của tâm thức mà thôi. Ví như biển
động hay biển lặng đều chỉ là tình trạng nhứt thời của mặt biển
mà thôi. Cũng ví như là có ảnh hiện ra hay không, đều chỉ là tình trạng
nhứt thời của tấm gương mà thôi. Khi con người hành động, nói năng,
suy nghĩ theo bốn tâm lượng rộng lớn: từ, bi, hỷ, xả, còn gọi là tứ
vô lượng tâm, thì tâm thức ở trong cảnh giới thiên đàng. Khi con người
hành động, nói năng, suy nghĩ theo ba tâm phiền não: tham, sân, si, còn gọi
là tam độc, thì tâm thức ở trong cảnh giới địa ngục. Bởi vậy cho nên,
con người sống được với lương tâm, cảnh giới thiên đàng hiện tiền,
không cần chờ kiếp sau! Con người sống được với Phật Tâm, cảnh giới
niết bàn hiện tiền, không nghi, không cần đợi vãng sanh cực lạc quốc!
Tuy nhiên, người có lương tâm, làm các việc thiện, chẳng
hạn như là: nuôi trẻ mồ côi, săn sóc người già, bệnh hoạn tật nguyền,
thậm chí truyền nhiễm, khi gặp trở ngại, gặp sự chống đối, phỉ báng
chửi mắng, ganh tị đố kỵ, gặp kẻ vô ơn, cũng sanh phiền não, cũng dễ
nãn lòng, thoái chí bỏ cuộc. Trong thời Đức Phật, còn tại thế gian,
có lần đi đến, nơi một xứ kia, dân đó nghe lời, các người cầm đầu,
chống đối gây rối, vì sợ dân chúng, quy y với Phật. Tôn giả A Nan, thỉnh
cầu đi đến, giáo hóa nơi khác. Đức Phật mỉm cười, từ tốn giải thích:
Các người bệnh nặng, mới cần thầy thuốc, thầy thuốc lương tâm,
không khi nào nói, chỉ trị bệnh nhẹ, từ chối bệnh nặng. Người còn
phiền não khổ đau, tức là chưa được giác ngộ, là người có tâm bệnh,
cần đến sự giáo hóa, cần phải nên tu học, để chuyển đổi tâm
tánh, từ bất lương thành hiền lương, từ hiền lương lương thiện, tức
là có lương tâm, chuyển biến thêm bước nữa, phát hiện và sống được
với Phật Tâm, tức nhiên thoát ly được phiền não khổ đau.
Cũng trong thời Đức Phật còn tại thế, có vị đệ tử
xin phép đi đến xứ kia để giáo hóa. Đức Phật cho biết dân ở xứ đó
hung hăng lắm, họ có thể chửi mắng nhục mạ. Vị đệ tử đáp: Bạch
Đức Thế Tôn, như vậy họ cũng còn hiền thiện. Đức Phật nói: Nếu họ
đánh đập ông thì sao? Vị đệ tử đáp: Bạch Đức Thế Tôn, như vậy họ
cũng vẫn còn hiền thiện. Đức Phật nói: Nếu họ giết hại ông thì
sao? Vị đệ tử đáp: Bạch Đức Thế Tôn, như vậy họ cũng vẫn còn hiền
thiện, bởi vì họ giúp con giải thoát khỏi thân tứ đại này mà thôi.
Đó là tấm gương của vị đại đệ tử, thuyết pháp bậc nhứt, tên là
Phú Lâu Na, người đã giác ngộ Phật Tâm, không còn thoái chuyển trên bước
đường hoằng pháp lợi sanh.
Sách có câu:
- "Chánh nhân thuyết tà pháp, tà qui chánh.
- Tà nhân thuyết chánh pháp, chánh qui tà".
Người có lương tâm, còn được gọi là chánh nhân, tức
là người chân chánh, dù có dùng bất cứ phương tiện nào chăng nữa,
cũng chỉ nhằm mục đích cứu kính là: đưa con người trở về với chánh
đạo. Chẳng hạn như là: các bậc chân tu, đạo cao đức trọng, người có
lương tâm, tỏ ngộ Phật Tâm, nhận thấy chúng sanh, phiền não khổ đau,
mê tín dị đoan, thích xem đồng bóng, hay xem bói toán, cúng sao giải hạn,
tiêu tai khỏi nạn, coi ngày xem tướng, xin xăm gieo quẻ, cho nên chư Tổ, dùng
phương tiện đó, để đưa con người, trở về với chùa, tìm nơi yên tịnh,
rồi nhân cơ hội, thuyết pháp độ sanh, khai mở tâm trí, giảng luật
nhân quả, dạy thuyết vô ngã, làm sao gặt quả, vô sanh pháp nhẫn, giúp
đỡ con người, sống được cuộc đời, an lạc hạnh phúc, giác ngộ
chân lý, giải thoát sanh tử, chấm dứt luân hồi.
Còn người bất chánh, gọi là tà nhân, muốn sướng tấm
thân, lười biếng làm việc, trốn lánh cuộc đời, biến đổi hình tướng,
kiếm cơm qua ngày, dùng mọi phương tiện, dụ dẫn con người, trở về với
chùa, về hùa với mình, rồi nhân cơ hội, kêu gọi quyên góp, chuyện này
chuyện nọ, lăng xăng lộn xộn, lẫn lộn đạo đời, vọng tâm sai khiến,
dù thuyết Chánh Pháp, cũng quá sai lầm, xa lìa chánh đạo, tạo nhiều thành
kiến, khiến người u mê, lạc vào ngoại đạo. Ngoại đạo nghĩa là:
ngoài tâm cầu Phật, qua các hình tướng, qua các âm thanh, không giúp được
ai, tỏ ngộ chân lý, bởi vì tu mù, chẳng học giáo lý, lấy gì giảng dạy,
cho hàng Phật Tử, cho nên Chánh Pháp, cũng biến thành tà, chính nghĩa đó
vậy!
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
- "Nhược dĩ sắc kiến ngã.
- Dĩ âm thanh cầu ngã.
- Thị nhân hành tà đạo.
- Bất năng kiến Như Lai".
Nghĩa là: Người nào muốn tìm Phật qua hình tướng, hay
qua âm thanh, đó chính là người lạc đường lạc nẽo, là hành tà đạo,
xa rời chân lý, làm sao có thể, gặp được Như Lai, tức là gặp Phật?
Khi nào ánh sáng chân lý soi rọi, tâm trí bừng sáng, con người vượt qua
cơn mê, mới được gọi là: hành đúng Chánh Pháp, đi đúng Chánh Đạo. Bằng
không, dù mang bất cứ hình tướng nào, tại gia hoặc tại chùa, dù tu
hành bao nhiêu năm, người đó cũng vẫn chưa tỏ ngộ Phật Tâm, vẫn đang
trôi lăn trong sanh tử luân hồi, tức nhiên cuộc sống vẫn còn nhiều phiền
não khổ đau.
Chúng ta cần nên ghi nhớ rằng: Đức Thích Ca thành Phật
ngay trên thế giới ta bà này, chư vị Tổ Sư tu tập theo lời Đức Phật
dạy, ngộ đạo và chứng đạo cũng ngay trên thế giới ta bà này, chư Hiền
Thánh thực hành các pháp môn cũng sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc
ngay trên thế gian này. Tại sao chúng ta không noi gương các Ngài, tự thắp
đuốc lên mà đi, để khỏi uổng phí cuộc đời hiện tại, với những mộng
tưởng nơi cõi thiên đàng hay cực lạc? Không tự đi thì không thể tới
đâu được cả! Không thể nào cầu nguyện thành công, khi mình thực sự
không xứng đáng! Không chịu tu học thì không thể sáng đạo được! Không
chịu tu tập, thực hành, áp dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày,
thì không thể nào chứng đạo được! Ai ai cũng đều biết rằng: Không
chịu ăn thì không thể nào no được!
Đó chính là những chân lý bất di bất dịch, đáng để
cho tất cả mọi người chúng ta suy ngẫm, không phân biệt tôn giáo, quốc
gia, xuất xứ, giàu nghèo, sang hèn, giai cấp, học lực, kiến thức, nam phụ
lão ấu, tại gia xuất gia, tín đồ tu sĩ. Không phân biệt kỳ thị gì cả
mới gọi là chánh đạo, mới thực sự là bình đẳng, mới thực sự là
chí công vô tư đó vậy.
http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/005-luongtam.htm