Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Cộng đồng thế giới và sự cần thiết
cho trách nhiệm phổ quát
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Nguyên Tâm và Tâm Đăng chuyển ngữ

  

Cộng đồng thế giới

Thế kỷ 20 sắp chấm dứt, chúng ta thấy rằng thế giới trở thành nhỏ hơn và nhân loại trên khắp thế giới hầu như trở thành một cộng đồng. Nhiều liên minh chính trị và quân sự đã hình thành nhiều nhóm lớn mạnh gồm nhiều quốc gia, kỹ nghệ và mậu dịch quốc tế đã tạo ra nền kinh tế toàn cầu, và sự truyền thông trên khắp thế giới đã loại bỏ những chướng ngại xa xưa về khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc. Chúng ta cũng xích lại gần nhau hơn vì những vấn đề nghiêm trọng mà chúng ta phải cùng đối đầu: nạn nhân mãn, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, và sự khủng hoảng sinh môi đã đe dọa bầu không khí, nguồn nước, và rừng cây, cùng với vô số sinh thể kỳ diệu mà chính chúng là nền tảng cho sự hiện hữu của hành tinh nhỏ bé mà chúng ta đang sống.

Tôi tin rằng để đối phó được với những thách đố trong thời đại chúng ta, con người cần phải phát triển tình cảm rộng lớn về trách nhiệm phổ quát. Mỗi người chúng ta phải học làm việc không phải chỉ cho chính chúng ta, gia đình và quốc gia chúng ta, mà còn phải vì ích lợi chung của toàn nhân loại. Trách nhiệm phổ quát là chìa khóa đích thực để con người tồn tại. Đó là nền tảng tốt nhứt cho nền hòa bình thế giới, cho sự sử dụng hài hòa tài nguyên thiên nhiên, và cho sự quan tâm đến những thế hệ tương lai, sự chú ý đúng mức về sinh môi.

Từ lâu, tôi đã suy nghĩ về cách thức để tăng trưởng tình cảm của chúng ta về một trách nhiệm hỗ tương và động cơ tâm lý vị tha mà từ đó nảy sinh ra trách nhiệm. Tóm lại, tôi muốn đưa ra một vài suy nghĩ của tôi.

 

Một gia đình nhân loại

Cho dù chúng ta thích hay không, tất cả chúng ta đều đã được sinh ra trên quả địa cầu này như là một phần tử của một gia đình nhân loại vĩ đại. Giàu hay nghèo, học thức hay thất học, thuộc về quốc gia này hay quốc gia khác, tôn giáo này hay tôn giáo khác, theo chủ nghĩa này hay chủ nghĩa khác, nhưng trước hết, mỗi chúng ta cũng chỉ là một con người như mọi người khác: tất cả đều ước muốn có được hạnh phúc và không muốn đau khổ. Hơn nữa, mỗi chúng ta đều có quyền bình đẳng đạt đến mục tiêu này. Thế giới ngày nay đòi hỏi chúng ta chấp nhận sự hợp nhứt của cộng đồng nhân loại. Trong quá khứ, những cộng đồng riêng biệt có thể nghĩ đến một cộng đồng khác như hoàn toàn biệt lập và ngay đến có thể hiện hữu hoàn toàn cô lập. Tuy nhiên, giờ đây, biến cố xảy ra ở một nơi trên thế giới sẽ dần dần ảnh hưởng đến toàn hành tinh này. Vì thế chúng ta phải đối xử với từng vấn đề của địa phương như là mối ưu tư toàn cầu ngay từ lúc bắt đầu. Chúng ta không còn có thể đưa ra những tấm chắn về quốc gia, về chủng tộc, hay về ý thức hệ để chia cách chúng ta mà không chịu ảnh hưởng tiêu cực. Trong điều kiện của sự tương thuộc mới này, quan tâm đến lợi ích của kẻ khác rõ ràng là hình thức tối hảo cho lợi ích của chính mình.

Tôi coi điều này như là cội nguồn của hy vọng. Sự cần thiết phải hợp tác chỉ có thể làm vững mạnh cho tình nhân loại, bởi vì nó giúp chúng ta nhận rõ rằng nền tảng an toàn nhứt cho một trật tự thế giới mới không phải đơn giản là sự liên kết rộng lớn hơn về chính trị và kinh tế, mà chính là mỗi cá nhân phải thực tập lòng thương yêu và bi mẫn. Để có một tương lai tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, vững vàng hơn và văn minh hơn, mỗi chúng ta phải phát triển tình cảm chân thành, nồng nhiệt về tình huynh đệ.

 

Liều thuốc của lòng vị tha

- Tây Tạng, chúng tôi cho rằng có nhiều cơn bệnh có thể được chữa lành bằng tình thương và lòng bi mẫn. Những phẩm chất này là nguồn gốc tối hậu cho hạnh phúc con người, và sự cần thiết của chúng nằm ngay ở gốc r của sự hiện hữu của con người. Bất hạnh thay, tình thương và lòng bi mẫn, từ lâu, đã bị lãng quên trong nhiều trường hợp giao tế xã hội. Thường được coi như là chỉ giới hạn trong phạm vi đời sống gia đình, sự thực hiện lòng từ bi trong phạm vi đời sống công cộng thường được coi là thiếu thực tế, có khi còn bị coi là ấu trĩ nữa. Đây là điều bi thảm. Theo tôi, thực hiện lòng từ bi không phải là một hội chứng của chủ nghĩa lý tưởng không tưởng mà thực ra là một phương thức hiệu quả nhứt để giúp ích người khác cũng như cho chính mình. Chúng ta - như là một quốc gia, một nhóm hay một cá nhân - càng tùy thuộc vào người khác thì chính chúng ta lại càng muốn bảo đảm sự an toàn, tốt đẹp của người khác.

Thực sự sống với lòng vị tha là cội r đích thực của sự thỏa thuận và hợp tác - chỉ nhận thức sự cần thiết phải hòa hợp không thôi thì chưa đủ. Một tâm thức hướng tới lòng từ bi cũng giống như một dòng suối tuôn chảy - một suối nguồn tức khắc của năng lực, của quyết tâm, và lòng tử tế. Tâm thức nầy giống như một hạt giống - khi được tưới tẩm vun trồng, sẽ đưa tới những phẩm chất tốt đẹp khác, như sự tha thứ, lòng khoan dung, sức mạnh nội tâm, và lòng tự tin có thể thắng được nỗi sợ hãi và bất an. Tâm từ bi là một liều thuốc - nó có thể chuyển hóa những hoàn cảnh xấu trở thành tốt đẹp hơn. Vì thế chúng ta không nên giới hạn sự bày tỏ lòng từ bi chỉ trong phạm vi gia đình và bạn bè mà thôi. Và lòng từ bi cũng không phải chỉ là trách nhiệm của hàng giáo phẩm, những chuyên viên y tế, và những nhân viên xã hội. Nhưng đó là điều rất cần thiết trong mọi thành phần của cộng đồng nhân loại.

Cho dù xung đột trong lãnh vực chính trị, thương mại, hay tôn giáo, phương thức vị tha thường là phương tiện duy nhứt để giải quyết chúng. Đôi khi, ngay chính khái niệm mà chúng ta dùng để hòa giải xung đột thì tự nó lại là nguyên nhân tạo ra vấn đề. Những lúc như thế, khi mà một giải pháp hình như không thể nào có được, cả hai bên nên nghĩ tới bản chất nhân tính cơ bản đã kết hợp con người lại với nhau. Điều này sẽ giúp giải tỏa được bế tắc, và về lâu dài, sẽ giúp mọi người đạt được mục tiêu của họ d dàng hơn. Mặc dù không bên nào được hoàn toàn thỏa mãn, nếu cả hai cùng nhân nhượng, thì ít ra cũng tránh được nỗi nguy hiểm do sự xung đột nhiều hơn gây ra. Tất cả chúng ta đều biết giải pháp tương nhượng này là phương thức hiệu quả nhứt để giải quyết mọi vấn đề - vậy thì, tại sao chúng ta lại không sử dụng nó thường hơn?

Khi tôi nghĩ tới sự thiếu sót của sự hợp tác trong xã hội loài người, tôi chỉ có thể kết luận rằng nó bắt nguồn từ sự vô minh về bản chất tương thuộc của chúng ta. Tôi thường xúc động bởi những kiểu mẫu sinh hoạt của loài côn trùng, như loài ong chẳng hạn. Quy luật thiên nhiên buộc loài ong phải cùng làm việc với nhau để sống còn. Kết quả là, chúng có một cảm tính bản năng về trách nhiệm xã hội. Chúng không có hiến pháp, luật lệ, cảnh sát, tôn giáo, hoặc rèn luyện đạo đức nào, thế nhưng, bởi vì bản tính của chúng, chúng làm việc với nhau một cách cật lực. Thỉnh thoảng chúng cũng có đánh nhau, nhưng nói chung cả tổ đã sống còn trên căn bản hợp tác. Ngược lại, loài người có hiến pháp, nhiều hệ thống luật lệ, và lực lượng cảnh sát; chúng ta có tôn giáo, trí óc thông minh đáng kể, và một quả tim có đầy khả năng yêu thương. Nhưng, cho dù với nhiều phẩm chất ưu việt như thế, trong thực tế chúng ta còn thua kém những côn trùng nhỏ bé đó. Một cách nào đó, tôi cảm thấy chúng ta còn nghèo nàn hơn loài ong.

Thí dụ như, hàng triệu người sống với nhau trong những thành phố lớn trên khắp thế giới, nhưng cho dù sống chung đụng gần gũi như thế, nhiều người vẫn cô đơn. Một số người đã không có đuợc một người nào để họ có thể chia sẻ những tình cảm sâu kín nhứt, và đã sống trong một tình trạng khủng hoảng thường xuyên. Thật là điều đáng buồn. Chúng ta không phải là những con vật cô độc và chỉ tìm nhau vì nhu cầu kết hợp lứa đôi. Vì nếu như thế, tại sao chúng ta lại xây dựng những thành phố, những tỉnh lyo lớn. Thế nhưng, cho dù chúng ta là những sinh vật xã hội buộc phải sống cùng nhau, chúng ta lại thiếu hẳn trách nhiệm đối với đồng loại. Có phải lỗi lầm này do ở nơi cơ cấu xã hội của chúng ta - cơ cấu nền tảng của gia đình và cộng đồng đã nuôi dưỡng xã hội chúng ta? Hay do ở những nguyên nhân bên ngoài - như máy móc, khoa học và kỹ thuật? Tôi không nghĩ như thế.

Tôi tin rằng cho dù những tiến bộ nhanh chóng bởi nền văn minh trong thế kỷ này, nguyên nhân trực tiếp nhất của những nghịch lý hiện tại của chúng ta là do chỉ quá nhấn mạnh đến sự phát triển vật chất. Chúng ta trở thành quá bận tâm về đời sống vật chất, ngay cả không còn biết rằng chúng ta đã coi thường việc nuôi dưỡng những nhu cầu nhân tính căn bản như tình thương, lòng tử tế, sự hợp tác, và sự chăm sóc lo lắng cho nhau. Nếu chúng ta không biết một người nào hay không tìm thấy một lý do nào khác để không cảm thấy liên đới với một cá nhân đặc biệt hay một nhóm nào đó, chúng ta cứ bỏ qua luôn. Thế nhưng, sự phát triển của xã hội loài người hoàn toàn dựa vào sự giúp đỡ của con người với nhau. Một khi chúng ta đã đánh mất cái nhân tính chủ yếu đã là nền tảng của chúng ta, vậy thì chỉ theo đuổi sự cải thiện vật chất để làm gì?

Với tôi, thật rõ ràng quá: một tình cảm đích thực về trách nhiệm chỉ có thể là kết quả của sự phát triển lòng từ bi. Chỉ có một tình cảm tự phát về sự thông cảm với người khác mới có thể thực sự thúc đẩy chúng ta hành động vì người khác. Tôi đã từng giải thích làm thế nào để nuôi dưỡng lòng từ bi ở nhiều bài khác. Phần còn lại cho bài tham luận ngắn này, tôi xin được bàn luận về điều: làm thế nào để tình trạng toàn cầu hiện tại có thể được cải thiện bởi những liên kết rộng lớn trên trách nhiệm phổ quát.

 

Trách nhiệm phổ quát

Trước hết, tôi cần lưu ý rằng tôi không tin tưởng vào việc phát động những phong trào hay khởi xướng những chủ thuyết. Tôi cũng không thích việc cố gắng thiết lập một tổ chức để đề xướng một ý kiến đặc thù nào, vì như vậy có nghĩa là tổ chức đó - chỉ gồm một nhóm người - sẽ chịu trách nhiệm trong việc hoàn thành mục tiêu đó, còn những người khác chỉ đứng bên ngoài. Trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, không có ai có thể cho rằng người khác sẽ giải quyết vấn đề của chúng ta; mỗi chúng ta phải dự phần vào một trách nhiệm phổ quát. Bằng cách này, khi mà số người có trách nhiệm và ưu tư gia tăng, hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn, và ngay cả đến hàng trăm ngàn người, thì sẽ cải thiện mạnh mẽ đến tình trạng chung. Những thay đổi tích cực sẽ không đến một cách nhanh chóng và đòi hỏi phải cố gắng mãi. Nếu chúng ta chán nản, thì chúng ta sẽ không đạt được một kết quả nào, dù đơn giản đi nữa. Với sự vận dụng dứt khoát và liên tục, chúng ta có thể hoàn thành ngay đến những mục tiêu khó khăn nhứt.

Chấp thuận một thái độ với trách nhiệm phổ quát hoàn toàn là một vấn đề cá nhân. Kiểm chứng đích thực của lòng từ bi không phải là những điều chúng ta nói trong những cuộc bàn thảo trừu tượng mà ở chỗ là chúng ta đã sống như thế nào trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, một vài quan điểm nền tảng là điều căn bản để thực tập lòng vị tha.

Mặc dù chưa có một hệ thống chính quyền nào là tuyệt hảo, chế độ dân chủ vẫn là điều gần gũi nhất với bản tính chủ yếu của con người. Thế nên, tất cả chúng ta, những người đang vui sống trong chế độ đó phải tiếp tục tranh đấu cho mọi người khác được quyền sống như thế. Hơn nữa, chế độ dân chủ là nền tảng vững chãi duy nhất mà dựa vào đó một cơ cấu chính trị toàn cầu có thể được xây dựng. Để làm việc thống nhất, chúng ta phải tôn trọng mọi người và mọi quốc gia để họ có quyền duy trì những giá trị và phẩm cách riêng biệt của họ.

Đặc biệt, cần phải cố gắng lớn lao để thể hiện lòng từ bi vào lãnh vực công tác quốc tế. Kinh tế không đồng đều, đặc biệt là giữa những nước đã phát triển và đang phát triển, vẫn là nguyên nhân lớn nhất cho nỗi đau khổ trên hành tinh này. Cho dù họ có thể lỗ lã trong một thời gian ngắn, nhưng các công ty liên quốc gia lớn sẽ chiếm giữ sự bóc lột các quốc gia nghèo. Bòn rút nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá và ít ỏi mà các quốc gia nghèo có được chỉ để nhằm cung ứng cho sự tiêu thụ hoang phí ở các quốc gia phát triển là một thảm họa, nếu điều này cứ được tiếp tục mà không kiểm soát được, thì dần dà tất cả chúng ta đều đau khổ. Đẩy mạnh việc phát triển các nền kinh tế yếu kém và đơn điệu là một chính sách khôn ngoan hơn để hướng tới sự ổn định cả về kinh tế và chính trị. Một cách lý tưởng, lòng vị tha, chứ không phải sự cạnh tranh và tham vọng làm giàu, nên là động cơ thúc đẩy trong thương mại.

Chúng ta cũng cần hâm nóng lại quyết tâm của chúng ta về những giá trị nhân bản trong lãnh vực khoa học hiện đại. Mặc dù mục đích chính của khoa học là thấu hiểu rõ hơn về thực tại, nhưng nó cũng có một mục đích khác là cải thiện phẩm chất của đời sống. Không có động cơ vị tha, khoa học không thể phân biệt giữa kỹ thuật phúc lợi và mánh khoé tự lợi. Sự tàn phá sinh môi là một thí dụ rõ ràng nhất do kết quả của sự lầm lẫn này, thế nhưng, một động cơ thích đáng có thể thích hợp hơn trong việc điều hành làm thế nào để chúng ta điều khiển được sự sắp xếp mới mẻ lạ thường của kỹ thuật sinh học mà qua đó giờ đây chúng ta có thể chi phối tới những cơ cấu tinh vi của chính đời sống. Nếu mỗi hành động của chúng ta không được dựa trên một nền tảng đạo đức, chúng ta sẽ gặp phải nỗi nguy hiểm là phải chịu đựng sự đau đớn ghê gớm về sự đan dệt mỏng manh của đời sống.

Các tôn giáo trên thế giới cũng không được min trừ về trách nhiệm này. Mục đích của tôn giáo không phải là để xây dựng những ngôi nhà thờ hay đền chùa xinh đẹp, nhưng là tưới tẩm những phẩm chất tích cực của con người như lòng khoan dung, sự rộng lượng, và lòng thương yêu. Mọi tôn giáo thế giới, cho dù quan điểm triết lý như thế nào đi nữa, một cách rốt ráo, phải được đặt nền trên điều luật rằng chúng ta phải giảm đi tính ích kỷ và phải phục vụ người khác. Buồn thay, nhiều khi chính tôn giáo là nguyên nhân gây tranh cãi nhiều hơn là giải quyết. Những tín đồ của những tôn giáo khác nhau cần nhận ra rằng mỗi truyền thống tôn giáo có một giá trị thực chất lớn lao và những phương tiện để giúp ích cho sức khoẻ tinh thần và tâm trí. Một tôn giáo, giống như một loại thực phẩm, không thể vừa ý mọi người. Tùy theo khuynh hướng tâm lý khác nhau, một số người được lợi lạc theo một đường lối giáo hóa này, nhóm người khác lại thích hợp với đường lối khác. Mỗi niềm tin có khả năng xây dựng con người thiện hảo tốt đẹp và cho dù họ tin theo những nền triết lý thường khi đối chọi nhau, mọi tôn giáo đều thành công trong việc xây dựng con người đó. Vì thế, không có lý do gì để gây ra sự mù quáng và bất khoan dung tôn giáo đầy chia rẽ, và ngược lại, có đủ lý do để kính ngưỡng và tôn trọng mọi dạng thức sinh hoạt tinh thần khác nhau.

Chắc chắn rằng, địa hạt quan trọng nhất để gieo trồng hạt giống vị tha là những liên lạc quốc tế. Trong vài năm gần đây, thế giới đã thay đổi một cách nhanh chóng. Tôi nghĩ rằng chúng ta đều đồng ý rằng sự chấm dứt Chiến Tranh Lạnh và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu và Liên Bang Sô Viết đã mở ra một thời kỳ lịch sử mới. Vào cuối thập niên 1990 hình như kinh nghiệm của con người trong thế kỷ 20 đã hoàn tất.

Đây là giai đoạn đau khổ nhất trong lịch sử nhân loại, thời đại mà, bởi vì sự tăng trưởng lớn lao sức mạnh tàn phá của vũ khí, nhiều người đã bị thương tích và sát hại hơn bất cứ lúc nào trước đây. Hơn nữa, chúng ta đã chứng kiến cuộc đụng độ chết người giữa những chủ nghĩa cực đoan đã luôn chia cắt cộng đồng nhân loại: một bên là bạo lực và quyền hành bất chính, và một bên là tự do, đa nguyên, quyền tự do cá nhân, và dân chủ. Tôi tin rằng kết quả của cuộc đấu tranh dữ dội này giờ đây đã rõ ràng. Mặc dù tinh thần nhân tính thiện lành về hòa bình, tự do và dân chủ còn phải đương đầu với nhiều bạo quyền và tội ác, nhưng dù sao đi nữa một điều chắc chắn là đa số con người đều muốn nó chiến thắng. Thế nên, thảm kịch của thời đại chúng ta không phải là hoàn toàn vô ích, và trong nhiều trường hợp nó chính là phương tiện để tâm trí con người được mở rộng. Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ điều này.

Mặc dù chủ nghĩa cộng sản đã có nhiều ý tưởng cao đẹp, bao gồm cả lòng vị tha nữa, nhưng nhiều lãnh tụ của nó đã cố gắng khống chế người khác theo quan điểm của họ đã cho thấy đó là điều khốc hại. Các chính phủ này đã có một thời gian dài kiểm soát toàn bộ nguồn thông tin trong xã hội và đã xây dựng một hệ thống giáo dục để mọi công dân của họ làm việc cho phúc lợi chung. Mặc dù một tổ chức chặt chẽ có thể là cần thiết lúc ban đầu để phá hủy chế độ đàn áp trước đó, một khi mục đích đã tựu thành, tổ chức đó đóng một vai trò nhỏ nhoi trong việc xây dựng một cộng đồng nhân loại hữu ích. Cộng sản đã hoàn toàn thất bại bởi vì nó đã dựa trên bạo lực để thiết lập niềm tin của nó. Sau hết, bản tính con người đã không thể chịu đựng được nỗi đau khổ do cộng sản gây ra.

Bạo lực, cho dù nó được sử dụng mạnh mẽ thế nào đi nữa, cũng không bao giờ khuất phục được uớc vọng nền tảng của con người là tự do. Hàng trăm ngàn người đã biểu tình tại các nước Đông Âu đã chứng minh điều này. Họ chỉ bày tỏ một cách đơn giản là con người cần có tự do và dân chủ. Đó là điều rất xúc động. Yêu cầu của họ không có liên quan gì đến một vài chủ thuyết mới mẻ, những người này chỉ giản dị nói lên những điều từ con tim của họ, muốn chia xẻ ước vọng tự do, muốn bày tỏ rằng nó được bắt nguồn từ cốt lõi của bản tính con người. Thật vậy, tự do chính là nguồn suối sáng tạo cho cả cá nhân và xã hội. Sẽ không đầy đủ cho con người, như hệ thống cộng sản thường chủ trương, nếu chỉ cung cấp cho con người thực phẩm, nhà cửa, và quần áo. Nếu chúng ta có tất cả những thứ đó nhưng lại thiếu cái không khí tự do quí giá để giữ vững bản tính sâu xa của chúng ta, chúng ta mới chỉ là con người một nửa; chúng ta giống như những con vật chỉ biết hả hê vui lòng với những nhu yếu vật chất.

Tôi nghĩ rằng, cuộc cách mạng ôn hòa tại Liên Bang Sô Viết và các nước Đông Âu đã cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Một trong những điều giá trị là sự thật. Con người không thích bị bắt nạt, bị lừa phỉnh, hoặc bị dối gạt bởi một người hay một hệ thống nào. Những việc như thế là phản lại với tinh thần nhân bản nền tảng. Vì thế, những người sử dụng thủ đoạn quỷ quyệt và bạo lực có thể thành tựu được một thành công nhất thời đáng kể, nhưng trước sau gì họ sẽ bị lật đổ.

Mặt khác, ai cũng biết rõ giá trị của sự thật, và lòng tôn trọng sự thật luôn có trong huyết quản của chúng ta. Sự thật là điều bảo đảm nhất và cũng là nền tảng chân thật nhất cho tự do và dân chủ. Cho dù bạn yếu hay mạnh, cho dù nguyên nhân hành động của bạn có nhiều hay ít liên hệ chấp trước, sự thật rồi sẽ thắng thế. Sự kiện các phong trào tranh đấu cho tự do thành công năm 1989 và sau đó, đã dựa trên sự phát biểu chân thực của tình cảm căn bản nhất của con người là một nhắc nhở giá trị, rằng sự thật tự nó vẫn còn thiếu vắng trầm trọng trong đsống chính trị của chúng ta. Đặc biệt trong lãnh vực bang giao quốc tế, chúng ta rất ít tôn trọng sự thật. Rõ ràng là, những quốc gia yếu hơn bị ảnh hưởng và bị đàn áp bởi các quốc gia mạnh hơn, cũng như những nhóm yếu kém của nhiều xã hội đã bị đau khổ gây ra bởi những nhóm người có ảnh hưởng và quyền lực hơn. Mặc dù trong quá khứ phát biểu sự thật đã luôn bị bỏ qua như là điều thiếu thực tế, nhưng trong vài năm qua, nó đã cho thấy rằng đó là một sức mạnh lớn lao trong tâm thức con người, và kết quả là, đã tạo ảnh hưởng đến lịch sử.

Bài học quan trọng thứ hai từ các nước Đông Âu là sự thay đổi trong ôn hòa. Trong quá khứ, những người nô lệ thường phải dùng đến phương tiện bạo động để tranh đấu cho tự do. Giờ đây, theo dấu chân của Mahatma Gandhi và Martin Luther King, Jr., những cuộc cách mạng ôn hòa này đã cho các thế hệ tương lai một thí dụ tuyệt vời về một cách mạng bất bạo động và đã thành công. Trong tương lai, khi những thay đổi quan trọng trong xã hội vẫn còn cần thiết, con em chúng ta có thể nhìn lại thời hiện tại như một khuôn mẫu tranh đấu hòa bình, một biến cố thành công thực sự chưa từng có trước đây, liên hệ đến hơn một chục quốc gia và mấy trăm triệu người. Hơn nữa, nhiều biến cố gần đây cho thấy là ước vọng hòa bình và tự do nằm trong tận nền tảng của bản tính con người, và bạo động chính là phản đề của nó.

Trước khi xét đến dạng thức trật tự thế giới nào là tốt nhất cho chúng ta trong thời hậu Chiến Tranh Lạnh, tôi nghĩ rằng rất cần thiết nói về vấn đề bạo động mà sự chấm dứt của nó trong từng mức độ là một nền tảng thiết yếu cho nền hòa bình thế giới và mục đích tối hậu của bất cứ trật tự quốc tế nào.

 

Bất bạo động và trật tự quốc tế

Hằng ngày, hệ thống truyền thông báo cáo nhiều tin tức về khủng bố, tội ác, và gây hấn, xâm lăng. Tôi chưa từng đến một quốc gia nào mà những câu chuyện bi thảm về chết chóc, tàn sát đẫm máu đã không tràn ngập báo chí và truyền thanh, truyền hình. Những báo cáo như thế đã trở thành một thói nghiện ngập cho các thông tín viên cũng như thính giả nữa. Nhưng tuyệt đại đa số loài người không có thái độ tiêu cực, phá hoại - rất ít trong số 5 tỷ người trên hành tinh nầy thực sự bạo động. Hầu hết chúng ta luôn muốn được hòa bình.

Một cách căn bản, chúng ta yêu chuộng sự thanh bình yên tĩnh, ngay cả đến những người đã từng bạo động. Thí dụ như, khi mùa xuân đến, ngày dài hơn, ánh nắng chan hòa, cây cỏ bừng sống, và mọi vật đều tươi mát. Con người cảm thấy hạnh phúc. Vào mùa thu, một chiếc lá rơi, rồi chiếc khác rơi, rồi bông hoa úa tàn cho đến khi chung quanh chúng ta chỉ còn cây cành trơ trụi. Chúng ta cảm thấy không vui thích lắm. Tại sao vậy? Bởi vì trong tận đáy lòng, chúng ta ước muốn sự trưởng thành tốt đẹp, có kết quả và không thích những sự vật bị suy tàn, chết chóc, hay bị tàn phá. Mọi hành động tàn phá đều đi ngược lại bản tính căn bản của chúng ta; xây dựng là lối sống của con người.

Tôi chắc rằng mọi người đều đồng ý rằng chúng ta phải vượt qua bạo động, nhưng nếu chúng ta muốn hủy bỏ nó hoàn toàn, thì trước hết chúng ta cũng cần phân tích xem nó có một giá trị gì chăng.

Nếu chúng ta nói đến câu hỏi nầy một cách rất cụ thể, thì chúng ta thấy rằng trong một vài trường hợp, thật ra bạo động có vẻ như hữu ích. Người ta có thể giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng bằng bạo lực. Tuy nhiên, cùng một lúc, thành tích đó được tạo ra bởi những thiệt thòi về quyền lực và phúc lợi của người khác. Kết quả là, cho dù một vấn đề được giải quyết, thì mầm mống của một vấn đề khác đã được phát sinh.

Mặt khác, nếu nguyên nhân hành động của một ai đó có đầy đủ lý do vững chắc, thì không lý gì phải dùng đến bạo lực. Chỉ có những ai không có động cơ nào khác hơn là tham vọng vị kỷ và không thể đạt được mục đích bằng cách lý luận hợp lý mới sử dụng đến bạo lực. Ngay đến khi trong gia đình và thân hữu bất đồng ý kiến, những ai có lý do vững chắc họ sẽ viện dẫn chúng và sẽ bàn luận từng điểm một, còn những ai không có đầy đủ chứng lý thì sẽ d dàng trở thành nạn nhân của cơn thịnh nộ. Vì thế, nổi giận không phải là dấu hiệu của dũng mãnh mà là dấu hiệu của sự yếu đuối.

Sau cùng, cũng rất quan trọng cần phải thẩm định ý hướng của một người cũng như của đối thủ của người đó. Có nhiều loại bạo động và bất bạo động, nhưng người ta không thể phân biệt chúng chỉ từ những yếu tố bên ngoài. Nếu ý hướng của một người là tiêu cực, thì hành động sẽ là bạo động - trong ý nghĩa sâu xa nhất - cho dù nó có thể din ra một cách nhẹ nhàng êm thắm. Ngược lại, nếu ý hướng của một người là tích cực và thành thực nhưng hoàn cảnh đòi hỏi một thái độ dữ dằn, một cách căn bản người đó đã bất bạo động. Cho dù trường hợp nào đi nữa, sự quan tâm lo lắng đến lợi ích của người khác - chứ không phải chỉ cho mình - là một chứng lý vững chắc cho việc sử dụng bạo lực.

Một cách nào đó, việc thực thi đích thực tính bất bạo động vẫn còn là một thử nghiệm trên hành tinh của chúng ta, nhưng sự theo đuổi nó, dựa trên lòng thương yêu và sự hiểu biết, là điều thiêng liêng. Nếu kinh nghiệm này thành tựu, nó có thể mở ra một con đường dẫn đến một thế giới hòa bình hơn trong thế kỷ tới.

Tôi cũng có nghe một vài người Tây phương cho rằng đấu tranh dài lâu theo kiểu của Gandhi chỉ dùng đến sức phản kháng thụ động và bất bạo động thì không thích hợp cho mọi người và những hành động như thế chỉ xảy ra nhiều ở Đông phương. Bởi vì người Tây phương rất năng động, họ mưu tìm những kết quả tức khắc trong mọi trường hợp, cho dù phải hy sinh mạng sống của họ. Tôi tin rằng, phương thức này không phải luôn luôn là ích lợi. Nhưng chắc rằng phương thức bất bạo động sẽ thích hợp cho tất cả chúng ta. Nó d dàng dẫn tới sự quyết định. Cho dù phong trào tranh đấu đòi tự do ở Đông Âu đã đạt được mục đích một cách nhanh chóng, trong chính bản chất của đấu tranh bất bạo động luôn đòi hỏi sự kiên nhẫn.

Với ý hướng đó, tôi mong rằng mặc dù bị đàn áp khốc liệt và những khó khăn mà họ phải đương đầu, những người tham dự vào phong trào đấu tranh dân chủ ở Trung Hoa sẽ luôn giữ phương thức ôn hòa. Tôi vững tin họ sẽ như thế. Mặc dù phần lớn những sinh viên trẻ tham dự đấu tranh ở Trung Hoa đã sinh ra và lớn lên dưới chế độ cộng sản sắt máu, nhưng trong mùa xuân 1989, họ đã tự động vận dụng phương thức đấu tranh bất bạo động của thánh Gandhi. Đây là điều nổi bật và cho thấy rõ ràng rằng, một cách rốt ráo, mọi người đều muốn theo đuổi con đường hòa bình, cho dù họ đã bị uốn nắn thế nào đi nữa.

 

Thực tại chiến tranh

Dĩ nhiên, chiến tranh và những thiết chế quân sự khổng lồ là những cội nguồn lớn nhất của bạo lực trên thế giới. Cho dù mục đích của chúng là để tự vệ hay tấn công, những tổ chức đầy sức mạnh nầy hiện hữu chỉ nhằm để giết người. Chúng ta nên suy nghĩ kỹ càng về thực tế của chiến tranh. Hầu hết chúng ta đã từng có lúc xem chiến đấu quân sự như một điều hấp dẫn và quyến rũ - một cơ hội cho con người chứng tỏ sự chiến đấu hào hùng và can đảm của mình. Bởi vì quân đội được thiết lập hợp pháp, nên chúng ta có cảm tưởng rằng chiến tranh là điều chấp nhận được; nói chung, con người không thấy chiến tranh là tội ác, và cũng không cảm thấy rằng chấp nhận chiến tranh là một thái độ có tội. Thật vậy, chúng ta đã bị tẩy não. Chiến tranh không phải là điều quyến rũ hay hấp dẫn. Đó là điều phản tự nhiên. Ngay chính bản tính của nó đã là điều bi thảm và đau khổ.

Chiến tranh ví như một đám cháy của cộng đồng nhân loại, mà chất đốt là chính con người. Tôi thấy rằng thí dụ nầy rất thích hợp và hữu ích. Chiến tranh hiện đại din ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuy nhiên chúng ta đã bị điều kiện hóa để thấy rằng chiến tranh rất hứng thú khi chúng ta nói về nhiều loại vũ khí như là một sản phẩm nổi bật của kỹ thuật mà không nhớ rằng nếu sử dụng nó, nó sẽ đốt cháy con người. Chiến tranh cũng rất giống với ngọn lửa với cách lan rộng của nó. Nếu một vùng nào bị yếu, thì vị tư lệnh sẽ gởi lực lượng tiếp viện đến. Điều nầy cũng giống như ném con người vào lửa. Thế nhưng, chúng ta đã bị tẩy não để nghĩ như vậy, mà không để ý đến nỗi đau khổ của từng cá nhân người lính. Không có người lính nào muốn bị thương hay bị giết, hoặc bị tàn tật suốt đời, và ít ra cũng có 5 hoặc 10 người khác - bà con và bạn bè của họ - cũng bị khổ lây. Tất cả chúng ta cần phải cảnh giác về thảm cảnh nầy, nhưng chúng ta đã quá thờ ơ.

Thành thật mà nói, hồi còn bé, tôi đã rất ham thích quân đội. Bộ quân phục trông rất đẹp và thông minh quá. Thế nhưng, đó chính là khởi điểm của sự cám dỗ. Trẻ con bắt đầu chơi những trò chơi mà một ngày kia chúng sẽ gặp rắc rối. Có nhiều trò chơi rất hấp dẫn và những bộ quần áo đẹp mà không dựa trên những hành vi giết người. Một lần nữa, nếu những người lớn chúng ta không bị chiến tranh mê hoặc, chúng ta cần phải thấy rõ rằng nếu chúng ta để cho trẻ con làm quen với những trò chơi chiến tranh thì đó là một điều bất hạnh. Một vài cựu chiến binh đã kể với tôi rằng, khi họ bắn người đầu tiên thì họ cảm thấy bất an, nhưng khi họ cứ tiếp tục bắn giết thì sự việc trở thành khá bình thường. Với thời gian, chúng ta có thể trở thành quen thuộc với bất cứ việc gì.

Không phải chỉ trong thời gian chiến tranh mà những thiết chế quân sự mới cần phải được giải tán. Bởi ngay chính ý hướng thành lập của chúng, chúng đã là những kẻ vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất, và chính các quân nhân là những người tiếp tục gánh chịu nỗi khổ đau do chính họ gây ra. Sau khi vị tư lệnh đưa ra những giải thích đẹp đẽ về sự quan trọng của quân đội, tính kỷ luật, và sự cần thiết phải chiến thắng quân thù thì nhân quyền của phần lớn quân nhân đã hầu như bị tước đoạt hoàn toàn. Lúc đó, họ bị buộc phải dẹp đi những ước vọng riêng tư của họ, và cuối cùng là họ hy sinh mạng sống. Hơn nữa, khi mà quân đội đã trở thành một lực lượng đầy quyền lực, thì có cơ nguy là họ sẽ phá hủy sự hạnh phúc của chính đất nước họ.

Trong bất cứ xã hội nào cũng đều có những người tiêu cực, và khát vọng muốn chiếm giữ quyền chỉ huy để có thể thoả mãn những tham vọng của họ có thể trở nên cuồng nhiệt. Nhưng cho dù họ quỷ quyệt và độc ác thế nào đi nữa, những nhà độc tài sát nhân hiện đang đàn áp nhân dân họ và gây ra những vấn đề quốc tế, cũng không thể tiếp tục gây thương tổn cho kẻ khác hay hủy diệt vô số mạng người nếu như họ không có một tổ chức quân đội được xã hội chấp nhận và dung thứ. Bao lâu mà có những quân đội đầy quyền lực, thì luôn có cơ nguy của chế độ độc tài. Nếu chúng ta thực sự tin rằng chế độ độc tài là một chế độ đáng khinh và là một dạng thức chính quyền tiêu cực, thì chúng ta phải nhận rằng sự hiện hữu của những thiết chế quân sự đầy quyền lực là một trong những nguyên nhân chính.

Chủ nghĩa quân phiệt cũng rất tốn kém. Theo đuổi hòa bình qua sức mạnh quân sự sẽ đặt một gánh nặng tiêu phí khổng lồ trên xã hội. Chính phủ phải chi những số tiền lớn để gia tăng những vũ khí phức tạp khi mà, thực ra, không ai thực lòng muốn sử dụng chúng. Không phải chỉ có tiền mà ngay đến những năng lực giá trị và sự thông minh của loài người cũng bị hoang phí, tất cả chỉ để tăng thêm nỗi sợ hãi.

Tuy nhiên, tôi muốn nói rõ rằng mặc dù tôi chống chiến tranh một cách mạnh mẽ, tôi không phải là người bênh vực cho những thỏa hiệp vô nguyên tắc. Nhiều khi cần phải cứng rắn chống lại cuộc xâm lăng bất bình đẳng. Thí dụ như, thật d dàng cho chúng ta nhận thấy rằng Thế Chiến II là một cuộc chiến hoàn toàn được chính đáng. Nó đã "cứu vớt nền văn minh" khỏi bạo quyền Đức Quốc xã, như Winston Churchill đã phát biểu một cách thích đáng. Theo tôi, chiến tranh Triều Tiên cũng là một cuộc chiến thích đáng, vì nó đã cho Nam Hàn cơ hội từ từ phát triển thể chế dân chủ. Nhưng chúng ta chỉ có thể phán đoán rằng một cuộc xung đột có chính đáng hay không dựa trên những nền tảng đạo đức khi mọi việc đã xảy ra. Thí dụ như, giờ đây chúng ta có thể thấy rằng trong thời kỳ chiến tranh lạnh, nguyên tắc giảm trừ vũ khí nguyên tử đã có một giá trị nào đó. Tuy nhiên, rất khó thẩm định các dữ kiện đó một cách chính xác. Chiến tranh là bạo lực và bạo lực thì không thể tiên đoán được. Vì thế, sẽ tốt đẹp hơn biết bao nếu có thể tránh được chiến tranh, và đừng bao giờ đoán rằng chúng ta biết trước hậu quả của cuộc chiến tranh nào đó sẽ có lợi hay không.

Thí dụ như, trong trường hợp của cuộc Chiến Tranh Lạnh, mặc dù sự giảm trừ vũ khí có thể đã giúp cho tình hình ổn định, nhưng nó đã không tạo được một nền hòa bình thực sự. Trong 40 năm qua ở châu Âu hầu như vắng bóng chiến tranh, nhưng đó không phải là nền hòa bình thực sự mà chỉ là tình trạng tương tự nhưng đặt nền trên sự sợ hãi. Tốt nhất, xây dựng quân đội để gìn giữ hòa bình chỉ nên coi như là một giải pháp ngắn hạn. Khi mà các đối thủ không còn tin tưởng lẫn nhau, thì bất cứ yếu tố nào cũng có thể làm nghiêng lệch cán cân quyền lực. Một nền hòa bình bền vững chỉ có thể được bảo đảm trên căn bản của sự tin tưởng thực sự.

 

Giải trừ vũ khí

Qua lịch sử, con người đã theo đuổi hòa bình bằng cách nầy hay cách khác. Sẽ quá lạc quan nếu nghĩ rằng nền hòa bình thế giới cuối cùng đã ở trong vòng tay của chúng ta. Tôi không tin rằng số người mang lòng hận thù đã gia tăng, chỉ vì con người có khả năng chế tạo những vũ khí phá hoại mạnh mẽ. Mặt khác, chứng kiến thảm cảnh của những cuộc tàn sát tập thể gây ra bởi những vũ khí như thế trong thế kỷ nầy đã cho chúng ta một cơ hội để kiểm soát chiến tranh. Để được như thế, rõ ràng là chúng ta phải giải trừ vũ khí.

Giải trừ vũ khí chỉ có thể xảy ra trong khuôn khổ của những mối tương quan kinh tế và chính trị mới. Trước khi xem xét vấn đề nầy một cách chi tiết, chúng ta nên nghĩ tới một tiến trình hòa bình mà từ đó chúng ta có thể đạt nhiều ích lợi nhất. Đây là điều khá hiển nhiên. Trước hết, chúng ta nên giải trừ vũ khí nguyên tử, kế đến, là vũ khí hóa học và sinh học, rồi đến vũ khí tấn công, và sau cùng là vũ khí tự vệ. Đồng thời, để bảo vệ nền hòa bình, chúng ta nên bắt đầu phát triển tại một hay nhiều vùng trên thế giới một lực lượng cảnh sát quốc tế hình thành bởi sự đóng góp đồng đều từ mỗi quốc gia và được đặt dưới sự chỉ huy của một Bộ chỉ huy tập thể. Lần hồi, lực lượng nầy sẽ chịu trách nhiệm trên toàn thế giới.

Bởi vì tiến trình song hành của việc giải trừ vũ khí cùng lúc với phát triển một lực lượng liên hiệp phải có tính đa phương và dân chủ, nên nhiều quốc gia có quyền phê bình và ngay đến can thiệp vào nội bộ của một quốc gia nếu quốc gia nầy vi phạm những quyền căn bản, và quyền nầy cần được bảo đảm. Hơn nữa, với sự giải tán của mọi quân đội, cũng như mọi xung đột như những tranh chấp về ranh giới đã được kiểm soát bởi Lực lượng Liên hiệp quốc tế, thì các quốc gia lớn và nhỏ sẽ được thực sự bình đẳng. Một cuộc cải cách như thế sẽ dẫn đến một tình hình quốc tế ổn định.

Dĩ nhiên, khối lượng tài chánh khổng lồ tạo được do sự cắt giảm sản xuất vũ khí cũng sẽ là nguồn tài trợ hữu hiệu cho việc phát triển thế giới. Ngày nay, các quốc gia trên thế giới hàng năm đã phải chi tiêu hàng ức (một ngàn tỉ) đô-la cho việc bảo trì quân đội. Bạn hãy tưởng tượng với số tiền ấy chúng ta sẽ xây dựng được biết bao nhà thương, trường học và gia cư. Hơn nữa, như tôi đã nói trước đây, với một đội ngũ lớn lao dành cho việc phát triển quân đội, không những đã ngăn chận sự giảm trừ nghèo đói, ngu dốt và bệnh tật, mà còn đòi hỏi sự hy sinh chất xám quý giá của nhân loại. Các nhà khoa học của chúng ta rất tài giỏi. Tại sao lại để tài ba của họ hoang phí vào những nỗ lực giết người như thế trong khi đáng lẽ được hướng đến công trình phát triển thế giới tốt đẹp.

Những vùng sa mạc bao la của thế giới như vùng Sahara và Gobi có thể được trồng cấy để gia tăng sản lượng thực phẩm và làm giảm gánh lo nhân mãn. Nhiều nước đang phải đương đầu với nạn hạn hán trong nhiều năm. Chúng ta có thể phát triển một phương pháp khử muối mới và ít tốn kém nhằm giúp cho con người tiêu dùng được nước biển hay dùng nó cho các công việc khác. Có nhiều vấn đề cấp bách trong lãnh vực năng lượng và y tế mà các nhà khoa học có thể chú ý tới một cách ích lợi hơn. Bởi vì nền kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng nhanh chóng hơn nhờ nỗ lực của các nhà khoa học, họ sẽ được đền bù nhiều hơn. Hành tinh này đã may mắn có một nguồn tài nguyên bao la. Nếu chúng ta sử dụng nó một cách thích đáng, khởi đầu bằng việc giảm trừ quân đội và chiến tranh, thì mỗi con người sẽ có thể sống một đời sống an toàn và giàu có.

Dĩ nhiên, nền hòa bình toàn cầu không thể din ra cho mọi người trong cùng một lúc. Vì tình hình trên thế giới rất khác biệt nên nền hòa bình phải được lan dần ra. Thế nhưng, không có lý do gì nó không được bắt đầu ở một vùng rồi lan dần từ lục địa nầy đến lục địa khác.

Tôi muốn đề nghị rằng những cộng đồng khu vực như Cộng đồng Âu châu sẽ đóng một vai trò chủ yếu cho một thế giới hòa bình hơn mà chúng ta muốn xây dựng. Quan sát tình hình thế giới hậu chiến tranh lạnh một cách khách quan, thì rõ ràng là những cộng đồng như thế là những thành tố tự nhiên nhất và đầy hy vọng cho một trật tự thế giới mới. Như chúng ta thấy, hầu hết lực hút của nền độc lập đang trưởng thành đòi hỏi chúng ta phải có những cơ cấu mới, nhiều hợp tác hơn. Cộng đồng châu Âu đã đi đầu trong nỗ lực nầy, đã thương thuyết để đạt tới một sự quân bình khéo léo giữa một bên là sự liên minh về kinh tế, quân sự và chính trị và một bên là quyền lợi riêng tư của các nước thành viên. Tôi rất là cảm kích về việc nầy. Tôi cũng tin rằng Khối thịnh vượng chung của các quốc gia độc lập cũng đang đương đầu với những vấn đề tương tự và hạt giống của một cộng đồng như thế đã có mặt trong tâm trí của nhiều thể chế cộng hòa. Trong chiều hướng nầy, tôi xin nói vài lời về tương lai của hai quốc gia, quê hương tôi - Tây Tạng - và Trung Hoa.

Như Liên Xô trước đây, Cộng sản Trung Hoa là một quốc gia đa chủng tộc, được hình thành một cách cưỡng ép dưới sự thúc đẩy của chủ nghĩa bành trướng, và cho tới hôm nay, được cai trị theo kiểu tthực dân. Một tương lai hòa bình, thịnh vượng và trước hết ổn định chính trị của Trung Quốc tùy thuộc vào sự thực hiện thành công một thể chế dân chủ cởi mở hơn không những là ước vọng của chính dân tộc họ mà còn của 80 triệu người "dân tộc thiểu số", những người muốn giành lại nền tự do cho họ. Để có niềm hạnh phúc trở về với trái tim của châu Á - quê hương của một phần năm nhân loại - một cộng đồng hợp tác hỗ tương, dân chủ, đa nguyên phải thay thế cho chính quyền hiện hữu được gọi là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Dĩ nhiên, một cộng đồng như thế không chỉ giới hạn vào những cộng đồng hiện đang bị cai trị bởi Cộng sản Trung Hoa, như là Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương. Dân chúng Hồng Kông, những người đang tìm kiếm nền độc lập cho Đài Loan, và ngay cả những người đang đau khổ dưới các chính quyền cộng sản khác ở Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Lào và Cambodia cũng có thể góp phần xây dựng cộng đồng Á châu. Tuy nhiên, điều đặc biệt khẩn cấp là những người đang bị Trung Cộng cai trị phải quan tâm đến việc xây dựng cộng đồng nầy. Nếu được theo đuổi một cách đúng mức, có thể giúp vào việc ngăn chận Trung Cộng dùng bạo lực giải tán, chia vùng, hay trở lại tình trạng hỗn loạn đã từng gây đau khổ cho đất nước vĩ đại nầy trong suốt thế kỷ 20. Hiện tại, đời sống chính trị Trung Hoa rất phân cực đến nỗi có đầy đủ lý do để lo sợ về một cuộc thảm sát hay thảm kịch xảy ra. Mỗi người chúng ta - mỗi thành viên của cộng đồng thế giới - phải có trách nhiệm đạo đức giúp vào việc ngăn chận nỗi đau khổ khốc liệt mà những cuộc xung đột dân sự có thể mang đến cho dân tộc Trung Hoa quá đông đảo đó.

Tôi tin tưởng rằng chính qua quá trình thương thuyết, hòa giải và tương nhượng trong việc xây dựng một cộng đồng gồm các nước Á châu sẽ chính là niềm hy vọng thực sự cho một din tiến hòa bình hướng tới một trật tự mới ở Trung Hoa. Ngay từ lúc khởi đầu, các nước thành viên của cộng đồng phải cùng nhau quyết định các chính sách về quốc phòng và bang giao quốc tế. Sẽ có nhiều cơ hội để hợp tác. Điểm mấu chốt là chúng ta tìm được một cách thức hòa bình, bất bạo động để các lực lượng tự do, dân chủ và hòa giải có cơ thành công trong khung cảnh chính trị đầy bất công, đàn áp hiện tại.

 

Các vùng hòa bình

Tôi thấy rằng vai trò của Tây Tạng trong một Cộng đồng Á châu như điều mà trước đây tôi đã gọi là "vùng hòa bình": một khu vực phi quân sự, trung lập nơi mà vũ khí bị cấm đoán và con nguoời sống hòa điệu với thiên nhiên. Đây không phải chỉ là một giấc mộng - vì đó chính là cách mà dân Tây Tạng đã cố gắng sống trong hơn một ngàn năm trước khi đất nước chúng tôi bị xâm lược. Như mọi người đều biết, ở Tây Tạng, mọi dạng thức của đời sống đều được bảo vệ nghiêm túc theo những giới luật của đạo Phật. Cũng vậy, ít ra trong khoảng 300 năm qua, chúng tôi không có một quân đội tương xứng. Tây Tạng đã dẹp bỏ việc sử dụng chiến tranh như là một chính sách quốc gia vào thế kỷ thứ 6 và thứ 7, sau khoảng thời gian cai trị bởi 3 vì Pháp vương vĩ đại của chúng tôi.

Trở về mối liên hệ giữa việc phát triển những cộng đồng khu vực và nhiệm vụ giải trừ vũ khí, tôi muốn đề nghị rằng, "trung tâm" của mỗi cộng đồng là một hay vài quốc gia đã quyết định trở thành "vùng hòa bình", khu vực mà lực lượng quân sự bị cấm đoán. Một lần nữa, điều này không phải là một giấc mộng. Bốn thập niên trước đây, vào tháng 12-1948, Costa Rica dã giải tán quân đội. Gần đây, 37 phần trăm dân chúng Thụy sĩ biểu quyết giải tán quân đội. Tân chánh phủ của Tiệp Khắc đã quyết định ngưng sản xuất và xuất cảng mọi vũ khí. Nếu dân chúng đã quyết định như thế, thì quốc gia đó có thể bước một bước căn bản trong việc thay đổi chính bản tính của nó.

Những vùng hòa bình trong những cộng đồng khu vực sẽ là những cái nôi cho sự ổn định. Trong khi đóng góp công bình vào chi phí cho các lực lượng tập thể xây dựng bởi cộng đồng, các vùng hòa bình nầy sẽ là người tiên phong, dẫn đường cho một thế giới hoàn toàn hòa bình và sẽ đứng ngoài tất cả mọi xung đột. Nếu các cộng đồng khu vực được xây dựng ở Á châu, Nam Mỹ, và Phi châu, và việc giải trừ binh bị được tiến hành sao cho lực lượng quốc tế từ mọi vùng được xây dựng, những vùng hòa bình nầy sẽ được mở rộng, lan dần một cách êm thắm.

Chúng ta không cần phải nghĩ rằng chúng ta đang hoạch định cho một tương lai quá xa xôi khi chúng ta xem xét điều nầy hoặc bất cứ dự án nào khác để xây dựng một thế giới mới, hợp tác với nhau hơn về chính trị, kinh tế, và quân sự. Thí dụ như, Hội đồng An ninh và Hợp tác Âu châu gồm 48 thành viên vừa mới thành lập đã đặt ra nền tảng cho một liên minh không những giữa các quốc gia Đông Âu và Tây Âu mà còn giữa các nước trong khối Thịnh Vượng Chung và Hoa Kỳ nữa. Những biến cố đáng ghi nhớ nầy đã giúp làm giảm đi nguy cơ chiến tranh giữa các siêu cường nầy.

Tôi đã không nhắc đến Liên Hiệp Quốc trong bài tham luận nầy vì vai trò quan trọng của nó trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn cũng như tiềm năng lớn lao của nó trong việc thực hiện đó đã quá rõ ràng. Liên Hiệp Quốc phải giữ vai trò trung tâm trong mọi thay đổi quan trọng. Tuy nhiên, có thể cần phải thay đổi cơ cấu tổ chức của nó trong tương lai. Tôi luôn đặt kỳ vọng tốt đẹp vào Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, và với ý hướng xây dựng, tôi chỉ muốn trình bày rằng khung cảnh Hậu Thế chiến II - mà qua đó Liên Hiệp Quốc được thành lập - đã thay đổi. Và với sự thay đổi đó đã dẫn đến cơ hội dân chủ hóa hơn tổ chức nầy, đặc biệt là đối với Hội Đồng Bảo An với 5 hội viên thường trực, mà đáng lẽ ra cần có nhiều đại biểu hơn.

 

Kết luận

Tôi muốn kết luận rằng, một cách tổng quát, tôi cảm thấy lạc quan về tương lai. Vài hướng phát triển gần đây cho thấy tiềm năng lớn lao của chúng ta cho một thế giới tốt đẹp hơn. Trong khoảng thập niên 50 và 60, người ta vẫn còn tin rằng chiến tranh là điều không thể tránh khỏi cho nhân loại. Đặc biệt, Chiến tranh Lạnh đã hỗ trợ cho ý niệm rằng những hệ thống chính trị đối lập chỉ có thể dẫn đến xung đột, chứ không thể nào cạnh tranh hay hợp tác. Giờ đây, không còn mấy người giữ ý kiến nầy. Hiện tại, con người trên khắp hành tinh nầy đều quan tâm mạnh mẽ về nền hòa bình thế giới. Họ không còn quan tâm mấy về ý thức hệ nhưng lại rất quan tâm về việc cùng sống chung. Đây là những phát triển rất tích cực.

Cũng thế, trong hàng ngàn năm người ta tin rằng chỉ có những tổ chức chuyên chế sử dụng những phương pháp kỷ luật chặt chẽ mới có thể cai trị xã hội loài người. Tuy nhiên, con người có một ước vọng bẩm sinh về tự do và dân chủ, và hai sức mạnh nầy đã đối nghịch nhau. Giờ đây, đã quá rõ ràng điều gì đã thắng. Sự xuất hiện của phong trào "sức mạnh nhân dân" bất bạo động đã cho thấy rõ rằng con người không thể chịu đựng được cũng như không thể hoạt động thích đáng dưới sự cai trị của bạo quyền. Nhận xét nầy là một tiến bộ đáng kể.

Một sự phát triển đầy hi vọng khác là sự phát triển đồng bộ giữa khoa học và tôn giáo. Suốt thế kỷ 19 và hầu hết thế kỷ 20, con người rất bối rối bởi những xung đột giữa những thế giới quan đối nghịch nhau. Hiện nay, vật lý học, sinh vật học và tâm lý học đã đạt đến trình độ sâu sắc đến nỗi nhiều nhà nghiên cứu đã bắt đầu đặt những câu hỏi rất nền tảng về bản tính tối hậu của vũ trụ và đời sống, cũng cùng một số câu hỏi đã từng là mối quan tâm cơ bản của tôn giáo. Vì thế, có một tiềm năng thực sự dẫn đến một quan điểm thống nhất hơn. Đặc biệt là, hình như có một khái niệm mới về tâm và vật đã khởi phát. Phương Đông đã quan tâm nhiều đến việc tìm hiểu về tâm thức, phương Tây tìm hiểu về vật chất. Giờ đây, họ đã gặp gỡ, nhân sinh quan duy tâm và duy vật có thể hài hòa hơn.

Sự thay đổi nhanh chóng của thái độ chúng ta đối với quả địa cầu cũng là một cội nguồn hi vọng. Cách đây chỉ khoảng mười hay mười lăm năm, chúng ta tiêu phí tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, như thể là chúng không bao giờ cạn. Giờ đây, không những nhiều cá nhân mà còn nhiều chính phủ đang tìm kiếm một trật tự sinh thái mới. Tôi thường nói đùa rằng mặt trăng và các vì tinh tú trông rất đẹp, nhưng nếu bất cứ ai trong chúng ta sống trên đó, thì quả là điều bất hạnh. Chúng ta biết là hành tinh xanh của chúng ta là một nơi cư trú kỳ diệu. Đời sống của nó là đời sống của chúng ta; tương lai của nó là tương lai của chúng ta. Và mặc dù tôi không tin trái đất là một chúng sinh hữu tình, nhưng nó đã thực sự là bà mẹ của chúng ta, và như những đứa con, chúng ta lệ thuộc vào nó. Bây giờ, bà mẹ thiên nhiên đã kêu gọi chúng ta phải hợp tác. Đứng trước những vấn đề của thế giới như hiệu quả nhà kính và sự xoáy mòn của tầng "ozone", thì những tổ chức cá nhân và những quốc gia riêng lẻ cũng không giúp ích được gì. Trừ khi tất cả chúng ta cùng hợp tác với nhau, sẽ không có một giải pháp nào. Bà mẹ của chúng ta đã dạy chúng ta bài học về trách nhiệm phổ quát.

Tôi nghĩ chúng ta có thể nói rằng, vì chính những bài học chúng ta vừa học được, thế kỷ tới sẽ thân thiện hơn, hài hòa hơn, và ít tàn hại hơn. Từ bi, hạt giống của hòa bình, sẽ có thể nở hoa. Tôi rất hi vọng. Đồng thời, tôi tin rằng mỗi cá nhân đều có trách nhiệm hướng dẫn "gia đình toàn cầu" đi đúng hướng. Chỉ thiện ý không thôi sẽ không đủ; chúng ta phải nhận trách nhiệm. Những phong trào lớn mạnh được khởi nguồn từ những sáng kiến cá nhân. Nếu bạn cảm thấy rằng bạn không thể tạo được ảnh hưởng gì nhiều, người kế tiếp có thể trở thành chán nản và chúng ta đã mất đi một cơ hội tốt. Ngược lại, mỗi chúng ta có thể tạo hứng khởi cho người khác một cách rất giản dị bằng cách cố gắng làm việc để phát triển động cơ vị tha của mình.

Tôi chắc rằng có rất nhiều người thành thực, thiện tâm trên khắp thế giới đã có cùng quan điểm với tôi như tôi đang trình bày ở đây. Buồn thay, không có ai lắng nghe họ. Mặc dù, tiếng nói của tôi cũng có thể rơi vào quên lãng, tôi nghĩ tôi phải cố gắng nói lên tiếng nói của họ. Dĩ nhiên, nhiều người có thể nghĩ rằng thật là quá tự phụ cho một vị Đạt Lai Lạt Ma nói như vậy. Nhưng, vì tôi đã nhận giải Nobel Hòa bình, tôi cảm thấy tôi phải có trách nhiệm làm điều nầy. Nếu tôi chỉ nhận số tiền từ giải Nobel rồi tiêu phí thế nào tùy thích, thì hóa ra lý do duy nhất mà tôi nói những điều tốt dẹp trước đây chỉ để nhận được giải nầy. Tuy nhiên, giờ đây, tôi đã nhận lãnh nó rồi, tôi phải được danh dự tiếp tục phát biểu những quan điểm mà trước đây tôi luôn nói tới.

Tôi là người thực sự tin tưởng rằng cá nhân có thể làm thay đổi xã hội. Bởi vì những thời kỳ có những thay đổi lớn lao như thời kỳ hiện tại thường ít khi đến trong lịch sử nhân loại, vậy thì, mỗi người trong chúng ta phải cố gắng hết sức mình để xây dựng một thế giới hạnh phúc hơn.

http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/016-congdong.htm

 


Cập nhật: 1-2-2001

Trở về mục "Đạo đức-Tâm lý học Phật giáo"

Đầu trang