- Tâm Lý Học Phật
Giáo
- Thích Viên Giác
A. Khái Quát Hệ Thống Tư Tưởng Phật
Học
Triết học Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ:
thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy,thời kỳ Bộ phái,thời kỳ Phát
triển Đại thừa.
Thời kỳ Nguyên thuỷ là thời kỳ Đức Phật còn
tại thế cho đến sau khi Đức Phật nhập Niết bàn 100 năm.Thời kỳ
Bộ phái là giai đoạn phân phái,ban đầu là hai phái chính : Thượng
tọa bộ và Đại chúng bộ.Về sau từ Thượng tọa bộ và Đại
chúng bộ phân chia thành khoảng 20 bộ phái khác nửa.Thời kỳ nầy
kéo dài cho đến thế kỷ I Ttl và Stl.Thời kỳ Phát triển Đại
thừa từ thế kỷ I cho đến thế kỷ 5,do các nhà tư tưởng Phật
học lớn như Mã Minh,Long Thọ,Thế Thân
hoàn tất công cuộc vận
động Đại thừa.
Tư tưởng triết học Phật giáo Nguyên thuỷ cơ bản
là giãi thích nguồn gốc của đau khổ,vạch ra con đường để giãi
thoát khổ.Đức Phật tuyên bố : "Nầy các Tỷ kheo,cũng như
nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn,giáo pháp của ta chỉ
có một vị là vị giãi thoát".Con đường giãi thoát được
biểu hiện rất rỏ qua giáo lý Tứ diệu đế.Trọng tâm triết học
của thời kỳ nầy là giáo lý Vô thường,Vô ngã,Duyên sinh.Con
người vì không nhận thức được sự chuyển biến vô thường của
vạn vật nên lầm chấp là vạn vật thường tại,có ngã tính;do tham
ái sinh khởi
mà tạo nên nghiệp chướng,chịu đau khổ luân hồi
trong lục đạo.Con đường để giaiõ thoát đau khổ là dứt bỏ
được vô minh tham ái.
Đức Phật không chú trọng giãi quyết các vấn đề
siêu hình,Đức Phật không truyền dạy tất cả những gì ngài
biết,mà ngài chỉ dạy nhữnh gì cần thiết cho con đường diệt
khổ.Có lần ở trong một khu rừng Đức Phật cầm một nắm lá trong
tay và dạy : "Nầy các Tỷ kheo,những điều mà Như Lai dạy,các
con có thể sánh với năm lá nầy,còn những d8iều Như Lai khôbg
dạy thì như tất cả lá ở trong rừng "
[Tương ưng].Đức Phật thường từ chối hoặc giử im
lặng đối với những vấn đề siêu hình,Malunkyaputta là một Tỷ kheo
đã thắc mắc về một số vấn đề siêu hình như :
"Thế giới thường còn hay không thường
còn
Như lai tồn tại hay không tồn tại sau khi chết
"(TBK
II).Đức Phật khuyên không nên lãng phí thì giờ và năng lực vào
những luận thuyết siêu hình.Những chuyện ngụ ngôn như Mũi tên
độc,người mù sờ voi
là để nói lên tinh thần thực tiển
của Đạo Phật.
Sau khi Đức Phật Niết bàn 100 năm,qua thời kỳ phân
phái,tư tưởng Nguyên thuỷ được các tông phái triển khai rộng
hơn,đi sâu hơn vào chi tiết của những tư tưởng mà Đức Phật
đã nói một cách khái quát;mỗi tông phái đều nhấn mạnh một
mặt nào đó,tuỳ theo điều kiện thực tế của mổi tông phái mà
có sáng tạo hoặc cải biên tư tưởng Phật học Nguyên thuỷ.Những
vấn đề được coi là siêu hình mà trước đây Đức Phật từ
chối trả lời,nay được đem ra bàn bạc triển khai : nền tảng của
vạn vật làgì ? Vũ trụ tồn tại như thế nào ?
Đây là những
vấn đề căn bản của triết học.
Để giãi quyết những vấn đề nầy và để đáp
ứng các yêu cầu tư tưởng mới,các
kinh điển mới xuất hiện,những bộ luận lớn ra
đời mang tính phê phán,các tông phái đều có những luận thuyết
dựa trên kinh điển nào đó để chứng minh cho giáo
nghĩa của mình .Phật giáo Đại thừa hình thành tư
trào tư tưởng mới qua các kinh điển như Bát nhã,Pháp hoa,Thập
địa,Hoa nghiêm,Di đà,Duy ma cật,Thủ lăng nghiêm
Thời kỳ Đại
thừa phát triển nổi bật nhất là ngài Mã Minh (Asvagosa)và
Long Thọ (Nagarjuna).
Giãi quyết vấn đề Bản thể luận,Đại thừa chủ
trương "Không luận" bản chất
của thế giới hiện hữu là Không.Mã Minh chủ trương
Chân Như là Bản thể tuyệt đối,còn Long Thọ thì chủ trương bản
thể là Chân không.Ngài trước tác bộ Đại trí
độ luận giãi thích Đại phẩm Bát nhã,ngài chủ
trương Thật tướng của các pháp là
Chân không vô tướng qua lý thuyết Bát bất trung
đạo :"Bất sinh,bất diệt,bất thường,bất đoạn,bất nhất,bất
dị,bất lai,bất khứ".Bên cạnh "Không luận",triết lý
"Ngã không pháp hửu" của Nhất thiết hửu
bộ cũng được phát triển.Thời kỳ nầy Phật giáo phát triển
mạnh mẽ,quá trình phân lập càng sâu sắc,nhữnh cuộc tranh luận về
triết ly nảy sinh những vấn đề triết học mơí như : mối quan hệ
giữa hiện tượng và bản thể,giữa tâm thức và tuyệt đối,làm
thế nào để đưa tâm thức đến trạng thái giác ngộ
Những
vấn đề nầy đòi hỏi các nhà tư tưởng Phật học phải giãi
quyết vấn đề cơ bản về nhận thức luận.
Ngài Thế Thân vào thế kỷ thứ 4 Stl,nhận thấy đây
là vấn đề nguyên tắc của bất cứ một hệ thống nào,ngaì là
một nhà tư tưởng Phật học lớn.Ngaì học hỏi tất cả truyền
thống tư tưởng Aán độ cổ đại,ban đầu ngaì theo truyền thống Hửu
bộ,
Sau theo truyền thống Đại thừa.Điểm qua tất cả lý
thuyết đương thời,ngài cho rằng giãi quyết vấn đề về nhận thức
luận,tức là hoàn chỉnh hệ thống triết lý về
"Con đường giãi thoát".Đứng trên lập
trường Đại thừa,ngài xây dựng học thuyết
Duy thức,mở rộng nội dung của bản thể tuyệt
đối,ngài đồng nhất nó với tâm thức
Ngài cho rằng sự vật hiện tượng đều do tâm thức
mà có;nếu không có tâm thức thì không có thế giới chủ quan và
khách quan.Tâm thức được tịnh hóa thì bản thể
Tuyệt đối chính là tâm thức.Đây chính là mục
đích tối hậu của một người Phật tử
C.G.Jung,một nhà Tâm lý Phương tây nổi tiếng,nghiên
cứu về Đạo Phật,phát biểu : "Cốt tuỷ giáo thuyết cưa Đức
Phật là sự giãi phóng khổ đau bằng sự phát triển tâm thức
đến mức cùng cực".Vậy con đường từ Long Thọ cho đến Thế
Thân cũng chỉ là con đường mà Phật giáo Nguyên thuỷ đã chủ
trương : ConĐường giãi thóat .
B. Tâm Lý Học Trong Giáo Lý Nguyên Thủy
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy
tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng
Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật
giáo không còn đất đứng. Đạo Phật chú trọng vào yếu tố tâm
thức của con người bởi lẻ: một là con người là chủ nhân của
chính nó, chứ nó không phải là sản phẩm sáng tạo của thượng
đế. Hai là tâm thức có tác dụng chi phối rất lớn đối với
đời sống con người và xã hội,vì tâm thức là động lực của
ngôn ngữ và hành vi .
Triết học phương Tây thường đưa ra những lập luận
như tâm có trước hay vật có trước, tinh thần là trên hết hay
vật chất là quyết định ..v..v.. Đó là những vấn đề của sự
tranh luận, mà Đạo Phật không màng đến. Chú trọng khảo sát tâm
lý, Đạo Phật nhận thức rằng tâm thức con người đóng vai trò
chính trong việc kiến tạo đời sống hạnh phúc hay khổ đau, như tronh
kinh Pháp Cú Đức Phật dạy :" Trong các pháp,tâm dẫn đầu,
tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm để nói
năng hay hành động thì quả báo đau khổ sẽ đi theo như bánh xe lăn
theo con vật kéo xe. Ngược lại nếu đem tâm thanh tịnh để nói năng
hay hành động thì quả tốt đẹp đi theo như bóng theo hình".
Nói tâm dẫn đầu, tâm làm chủ không có nghĩa là chủ trương tâm
có trước vật hay là tinh thần quyết định vật chất, như trong triết
học phương Tây quan niệm, Đức Phật muốn nói đến động cơ của
hiện tượng khổ đau hay hạnh phúc, tức là cái điều kiện chính
của hiện tượng khổ vui. Đây là một kinh nghiệm thực tiển chứ
không phải là một hệ thống triết lý .
Sự khác nhau của Tâm lý học Phật giáo và Tâm lý
học phương Tây ở chổ phương Tây phân tích các hiện tượng tâm
lý chứ không đi sâu vào bản chất của tâm lý, nhận thức giá
trị của tâm lý , củng cố phát triển chúng , mục đích là thỏa
mãn các nhu cầu tâm lý như là một phương thức thể hiện sự
hạnh phúc .
Tâm lý học Phật giáo cũng phân tích các hiện
tượng tâm lý nhưng đánh giá phân loại rồi định hướng chúng
và vấn đề quan trọng là chuyển hóa tâm lý trở thành trong sạch
để đạt đến mục đích hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc chân thật
ấy phải là từ bỏ các tâm lý ô nhiễm, vốn thuộc về bản năng
và gây đau khổ cho con người vàtha nhân . Như vậy Tâm lý học
Phật giáo không thuần tuý là vấn đề tâm lý mà còn là vấn
đề của luân lý học,đạo đức học và giải thoát học.
TÍNH THỰC TIỂN CỦA
TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO
Trong kinh Pháp Cú Phât dạy :
- " Đừng làm các điều ác
- Hãy làm các điều lành
- Giữ tâm ý trong sạch
- Là lời chư Phật dạy"
Lời Phật có 3 điều : một là không làm các
điều ác, tức là không thực hiện các hành động về thân thể
hay ngôn ngữ làm tổn hại đến mình và tha nhân, nghĩa là không
làm tổn thương về thân thể, về tâm lý hay tình cảm
của con
người . Mới nhìn qua ta thấy đây là vấn đề của luân lý nhưng
nếu nhìn sâu ta sẽ thấy đây là vấn đề cơ bản của giải thoát
.Làm điều ác xuất phát từ tâm lý ô nhiểm như tham,sân si
khi
đình chỉ được điều ác thì có nghiã là sự ô nhiểm của tâm
đã được kiểm soát.Chế ngự được tâm ác là bước đầu của
lộ trình thoát khổ .Hai làlàm các điều lành ,xuất phát từ tâm
lý tích cực và thanh tịnh,làm lành là vấn đề đạo đức, đạo
đức cũng là cơ sở của giải thoát hay của hạnh phúc.Điều ác
không được đoạn trừ,điều lành không được phát triển thì
vấn đề thanh lọc tâm thức không thể thành tựu.
Tính thực tiển của Tâm lý học Phật giáo rất rõ
qua phát biểu của điều thứ 3 là giữ tâm ý trong sạch, nguyên lý
thứ 3 là hệ quả của hai nguyên lý : đình chỉ các điều ác và
làm các điều lành. Không có hành vi ổn định con người không có
tâm lý ổn định, ngược lại tâm lý không ổn định thì hành vi
tiếp tục không ổn định. Như vậy Đức Phật không cho rằng tâm lý
là tất cả mà tâm lý là nhân tố chính trong quá trình xây dựng
hạnh phúc. Sự ức chế về mặt tâm lý là động lực sản sinh
khổ đau, ngược lại sự giải phóng áp lực của tâm là nguồn
sống vui tươi giải thoát. Giữ tâm ý trong sạch là kiểm soát các
động lực ô nhiễm đừng để chúng tự do tàn phá và gây rối
loạn và cũng là thiết lập một cơ chế cho hành vi và ngôn ngữ
được chuẩn mực. Một khi tâm lý được thanh tịnh hoàn toàn thì
mọi áp lực của tâm lý sẽ hoàn toàn bị triệt tiêu, đó là sự
giải thoát .Như vậy Tâm lý học Phật giáo không thuần lý,không
tách biệt với những kinh nghiệm sống của con người.
TÂM LÝ HỌC TRONG GIÁO LÝ CƠ BẢN
1 . Tứ Diệu Đế
Tâm lý học Phật giáo là Tâm lý học ứng dụng,
nhất là Tâm lý học được trình bày trong Kinh Tạng và qua các
giáo lý căn bản. Giáo lý Tứ diệu đế được coi là giáo lý
nền tảng của hệ thống tư tưởng Phật học, phân tích về tâm lý
đã nói lên tính hai mặt của tâm lý : Một là tính ô nhiễm. Hai
là tính thanh tịnh. Sau này các luận thư về tâm lý đều nêu bật hai
tính nhiễm và tịnh của tâm lý một cách chi tiết. Tâm lý ô nhiễm
là những hoạt động tâm lý đưa đến đau khổ phiền muộn, ngược
lại tâm lý thanh tịnh thì đưa dến đời sống hạnh phúc an vui.
Khổ là một thực trạng của đời sống nhưng nổi
khổ ấy không phải do tự nhiên mà có, không phải do ngẫu nhiên,
không phải do thượng đế áp đặt như là một sự trừng phạt con
người, mà khổ là kết quả của tâm lý ô nhiễm, nghĩa là sự
khổ do con người tạo nên và phải gánh lấy .Năng lực tâm lý ô
nhiễm được biểu hiện qua tâm lý tham lam, sân hận và si mê, sự
khổ hiện hữu do 3 loại tâm lý ô nhiễm này hiện hữu ; lập luận
kế tiếp là sự khổ sẽ không có mặt nếu 3 loại tâm lý này
không tồn tại. Vì vậy phân tích tâm lý qua giáo lý Tứ diệu đế
để đưa đến một thái độ : đoạn trừ các tâm lý bất thiện và
phát triển những tâm lý thiện. Ở đây cái không nên làm và
cái nên làm được nêu rõ : mười điều ác là không nên làm
và Bát chánh đạo là điều nên làm. Vậy Tâm lý học Phật giáo
có sắc thái đạo đức học và giãi thoát học.
Tính hai mặt của tâm lý, đối ứng với hai mặt khổ
đau và hạnh phúc của đời người, vì vậy Tứ diệu đế chú
trọng đến đoạn trừ tâm ô nhiễm, tịnh hoá tâm thức, không đi
sâu vào tâm lý mang tính trừu tượng như các luận thư về sau. Các
trạng thái tâm lý thiền định được khảo sát là những kinh
nghiệm thực tiển chứ không phải là các trạng thái tâm lý nằm
ngoài khả năng của con người .
2 . Thập Nhị Nhân Duyên
Tâm lý được phân tích qua giáo lý 12 nhân duyên,
nói đến quá trình tâm lý ô nhiễm, tức là khảo sát một cách
sâu hơn bản chất của tâm ô nhiễm và đưa đến nhận định rằng cơ
cấu của tâm thức con người là ô nhiễm, nhận thức của con
người phần lớn là sai lầm . Tâm lý được vận hành bởi động
lực là vô minh, một trạng thái mê muội bản năng, nó chi phối
mọi hoạt động của tâm lý ô nhiễm, nó như là nền tảng của
nhận thức, hay nói cách khác nhận thức là vô minh .
Khổ là một cảm giác, cảm giác ấy bao gồm nhiều
điều kiện, vô minh là một điều kiện trong những điều kiện. Vô
minh là điều kiện nguồn của dòng sông tâm lý. Nói Vô minh sinh ra
Hành là chưa đủ và dễ hiểu lầm rằng chu trình 12 nhân duyên chỉ
diễn ra theo chiều thời gian, chiều dọc. Về mặt tâm lý, cảm thọ
khổ không phải là kết quả của một quá trình tâm lý đơn giản
mà là một sự tổng hợp đồng thời của các điều kiện khác
nhau. Do vậy, Tâm lý trong 12 nhân duyên phải được phân tích theo
chiều ngang, là chiều của không gian. Vô minh là điều kiện của
Hành. Hành là lực vận động của tâm lý và vật lý ( thân hành,
khẩu hành, ý hành ) nếu không có động lực thì không có sự
tồn tại, động lực tồn tại của chúng sinh được coi là Vô minh.
Hành là biểu hiện của Vô minh, Vô minh nuôi dưỡng Hành và Hành
làm cho Vô minh tăng sức mạnh. Tâm lý tồn tại nhờ có động
lực mà động lực ấy là động lực ô nhiễm, cho nên dòng sông
tâm lý là ô nhiễm.
Thức là khả năng phản ánh thế giới hiện tượng,
là khả năng phân biệt, là cái biết, và cái biết ấy cũng là
biểu hiện của Vô minh. Cho nên các luận thư về sau đồng nhất Thức
với Vô minh, và khi đề cập đến cái biết không bị Vô minh tác
động thì dùng từ Trí ( Trí tuệ ) như nói :" Chuyển thức thành
Trí" ( Chuyển 8 thức thành 4 trí ). Bản chất của thức là Vô
minh và lực vận động của Hành làm cho Thức trở thành mê lầm.
Vì vậy dưới sự biểu hiện của thức trở thành 2, đó là thế
giới của chủ thể và đối tượng, diễn tiến tâm lý bao giờ
cũng phải có chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, do
vậy thế giới hiện tượng là thế giới của tâm lý chứ không
là thế giới khách quan. Chủ thể ở đây là Danh ( tinh thần ). Đối
tượng ở đây là Sắc ( vật chất ), tinh thần và vật chất là
biểu hiện của thức.Luận thư Duy Thức về sau dựa trên cơ sở này
mà xây dựng học thuyết Duy Thức của mình. Cơ sở của chủ thể
và đối tượng sinh khởi là 6 giác quan ( lục nhập ) tiếp xúc với
đối tượng của chúng (xúc ), sự tiếp xúc giữa giác quan và
đối tượng mới nhìn như là một sự tiếp xúc thuần vật lý,
nhưng thực ra đây còn là một kích thích của tâm lý nữa.
Thọ là cảm giác, đây là một yếu tố tâm lý quan
trọng vì cảm giác là sự biểu hiện rõ nét của tiến trình tâm
lý mà ai cũng tự cảm nhận được. Thọ được trình bày trong Kinh
Tạng có 3 loại : cảm thọ khó chịu, cảm thọ dễ chịu, và cảm thọ
trung tính.Tuy nhiên Thọ trong tiến trình 12 nhân duyên nghiêng về khía
cạnh dễ chịu ( lạc thọ, hỷ thọ ) có lẽ muốn nói đến bản năng
hưởng thụ hay bản năng hướng đến hạnh phúc của đời sống con
người. Hạnh phúc là nhu cầu tối hậu của con người, hạnh phúc
mà con người tìm kiếm là sự cảm xúc dễ chịu của tâm lý thọ.
Như đã nói, sự vận động của dòng sông tâm thức xuất phát
từ động lực Vô minh nên mọi diễn biến đều nhuộm màu đen tối,
ước vọng hạnh phúc hay cái được coi là hạnh phúc thực chất
là mặt khác của khổ đau. Tiếp theo sau cảm giác vui sướng là sự
hài lòng, sự thỏa mãn gọi là ái. Đối với tiến trình tâm lý
thì ái là tâm lý biểu hiện mạnh mẽ và kết thúc chu trình của
tâm thức, nó trở thành một năng lực tổng hợp để tạo thành
một tác dụng trong tâm thức hay trong hành động của con người và
tất nhiên Vô minh được biểu hiện trong ái là mạnh nhất .Trong 12
nhân duyên Aùi được coi là then chốt cho vòng tròn sinh tử .
Thủ là sự vướng mắc, sự nắm bắt, sự giữ gìn
bảo thủ hay sự ghi nhận một kinh nghiệm, tâm lý này chỉ là một
hệ quả của Aùi mà thôi . Phân tích các yếu tố tâm lý trong 12
nhân duyên có vẻ như là một diễn biến tâm lý theo thứ tự và
có thời gian nhưng trên thực tế thì chúng diễn ra rất nhanh gần như
đồng thời, có thể nói trong một ý niệm là có đủ 12 nhân duyên
. Tâm lý chấp thủ là sự biểu hiện của Aùi hay là của sự thỏa
mãn, đây là yếu tố tâm lý mang tính ích kỷ mà về sau luận thư
Duy Thức phân tích sâu hơn căn nguyên của chúng và thức Mạt na
là cội nguồn của sự chấp thủ này. Sự chấp thủ, về mặt nổi
là hệ quả của Aùi nhưng nó cũng là biểu hiện của động lực Vô
minh, nó hình thành một bản năng sinh tồn và bản năng hưởng thụ,
bảo vệ cái hạnh phúc từ chối cái khổ đau.
Tóm lại, xuất phát từ sự không thấy, không biết
rõ ( Vô minh ) về chính mình, về tha nhân và về thế giới mà trong
đó mình sống .Trên cơ sở không thấy rõ, và thái độ tự vệ con
người nhận thức thế giới chung quanh như là đối tượng tách
rời với chính mình. Do tự vệ con người xô đẩy các đối tượng
bất lợi, không vừa ý càng xa càng tốt và nắm bắt các đối
tượng có lợi và vừa ý càng chặt càng hay. Do vậy con người
liên tục xô đẩy và nắm bắt suốt cuộc đời của mình một cách
khốn khổ, thế giới như vậy như là một biển khổ mênh mông.Khi
thương một người thì bạn luôn cố gắng tạo mọi điều kiện để
tiếp cận người ấy, dụ dỗ và chinh phục người ấy. Vì bạn cho
rằng đây là đối tượng đem đến cho mình niềm vui và hạnh phúc,
bạn không muốn ai chia xẻ tình thương của người ấy, người ấy là
của bạn, bạn phải giữ gìn bảo vệ cái của bạn. Như vậy có hai
vấn đề xảy ra: Một là bạn phải đấu tranh, xô đẩy những ai và
những gì có khả năng cướp mất đối tượng của bạn,do vậy bạn
có thể chống cả thế giới. Hai là bạn phải đấu tranh với tính
khí của người ấy vốn luôn luôn muốn thoát ra ngoài sự trói
buộc của bạn. Ba là bạn phải đấu tranh với chính bản thân của
mình, nghiã là về tâm lý bạn vẫn bị những cảm giác mất mác,
chán chường làm cho niềm vui của bạn bị pha loảng , chúng ta sẽ
phải tiếp tục chịu đựng sự rối loạn bất an còn niềm hạnh phúc
thì vẫn chập chờn phía trước, như vậy tâm lý luôn bị khủng
hoảng, luôn bị áp lực. Sự giãi phóng áp lực tâm lý là điều
kiện của hạnh phúc hoàn toàn, là mục tiêu của mọi đường lối
tu tập.
3 . Ngũ Uẩn
Phân tích tâm lý theo giáo lý 5 uẩn, chúng ta nhận
thấy con người được phân tích thành năm lĩnh vực, hay nói cách
khác con người là hợp thể của 5 yếu tố : yếu tố vật lý và
yếu tố tâm lý. Yếu tố tâm lý có 4 khía cạnh : cảm giác, tri
giác, ý chí và nhận thức. Có nhiều cách phân tích về 4 yếu tố
tâm lý này, tuỳ theo cái nhìn của các trường phái tư tưởng
Phật giáo, có nơi phân tích tâm lý theo chiều dọc thời gian như
cảm giác đến trước rồi tri giác, rồi các xử lý của ý chí,
rồi đến sự ghi nhận và giữ gìn trong tâm thức chiều sâu. Có
nơi phân tích theo chiều không gian cảm giác phần cạn, tri giác sâu
hơn ý chí và thức đi vào vi tế sâu sắc hơn nó ẩn kín bên trong .
Trước hết chúng ta thấy rằng tâm lý và vật lý
là mối quan hệ bất khả phân, điều này xuyên suốt lịch sử Tâm
lý học Phật giáo bất cứ thời kỳ và trường phái nào, sắc
pháp bao giờ cũng hiện hữu bên cạnh tâm pháp. Sắc uẩn bao gồm
mọi yếu tố vật lý thân thể và môi trường sống. Diễn biến tâm
lý được phân tích là những nhóm tâm lý cùng tính chất : nhóm
cảm giác bao gồm những cảm xúc bởi thế giới bên ngoài và thế
giới bên trong, nếu nhìn riêng lẽ thì cảm giác thuần tuý không
đưa đến một tác dụng tích cực nào, chỉ đơn giản là một phản
ứng có điều kiện, nhưng nếu nhìn cảm giác trong mối quan hệ chung
thì trong cảm giác có đầy đủ 4 yếu tố vật lý, tri giác, ý chí,
và nhận thức. Nếu như vậy thì cảm giác có một tác dụng tích
cực đối với dòng sông tâm thức con người, thậm chí nó đóng
vai trò chủ yếu trong đời sống con người, vì con người sống với
mục đích hướng đến cảm giác hạnh phúc.
Nhóm Tri giác bao gồm những nhận biết các đối
tượng bên ngoài hay bên trong chính là những kinh nghiệm, nếu không
có kinh nghiệm con người sẽ không nhận ra được cái gì cả. Nhận
biết là sự đối chiếu những tướng trạng đã có với cái đang
có, nếu đặt Tri giác trong mối quan hệ chung thì có lúc Tri giác có
mặt trước cảm giác, và có lúc thì sau cảm giác. Ví dụ, như khi
thấy ấm nước bốc hơi biết là nước sôi một cảm giác hài lòng
vì sẽ có tách trà nóng, đó gọi là Tri giác đến trước ; còn
nếu như ta sờ tay ấm nước cảm giác nóng và động của ấm nước
làm ta khó chịu và ta biết nước sắp sôi, đây là trường hợp
cảm giác có trước. Nếu chỉ là tri giác thuần tuý thì chúng không
đưa đến một tác dụng tích cực nào, nếu chúng liên hệ với các
yếu tố tâm lý khác thì mới đủ khả năng tạo nên một tác dụng
( tạo nghiệp ).
Trong Tâm lý học phổ thông cảm giác và tri giác
được gọi là nhận thức cảm tính và cho rằng Tri giác là nhận
thức cao hơn cảm giác. Giáo lý 5 uẩn cho rằng trong mối quan hệ của
chúng, cảm giác và tri giác dựa vào nhau tuỳ theo điều kiện cụ
thể mà chúng có tác dụng mạnh hay yếu .
Yếu tố tâm lý thứ 3 là Hành, tức là hoạt động
của tư duy, bao gồm các hoạt động tâm lý mạnh mẽ, xác định,có
tính chủ ý,tính quyết định như các tâm lý ham muốn, giận dữ,
thương yêu, ghét bỏ... những tâm lý này có năng lực để tạo ra
hậu quả, tức là tạo nghiệp. Hành là loại tâm lý có tác dụng
thúc đẩy tạo nên hành vi và ngôn ngữ, do vậy trong kinh Phật dạy
Hành có tâm hành, khẩu hành, và thân hành. Nếu nói một cách dễ
hiểu thì hành là những tâm lý tính toán, quyết định có tính cách
ý chí, nghĩa là vẫn ở phạm vi mặt nổi của tâm lý. Tuy nhiên nếu
nói một cách tế nhị thì Hành là động lực sâu kín, là sự vận
động của hệ thống tâm thức theo xu hướng và tính chất đã
được tích luỹ. Do sự vận động của tâm Hành sâu kín mà ta có
những biểu hiện nằm ngoài kiểm soát của ý thức, chúng thuộc
bản năng và tự phát. Tuỳ thuộc vào tính chất của Hành mà con
người có những biểu hiện khác nhau ; mỗi người là mỗi thế
giới, chúng ta rất khó phán đoán động cơ của hành vi con người,
ví dụ như một người có một nghĩa cử cao đẹp như cứu giúp một
người khốn khổ động cơ mà anh ta làm điều tốt ấy đôi khi chỉ
là do xúc động bởi một ánh mắt của đối tượng. Tại sao có
sự xúc động ấy ? Đó là tác dụng sâu kín của Hành .
Yếu tố tâm lý thứ 4 là thức. Thúc là khả năng
phản ánh mọi đối tượng bên ngoài hay bên trong, chức năng của
thức là nhận ra sự có mặt của đối tượn, là nền tảng chung cho
mọi hoạt động tâm lý. Những tâm lý thuộc về cảm giác, tri
giác, ý chí đều nương vào nền tảng là thức. Nói cách khác
Thúc là bản thể tâm lý còn cảm giác , tri giác, ý chí ... là
hiện tượng tâm lý . Sau này các luận thư tâm lý học Phật giáo
gọi thức là Tâm vương và các hiện tượng tâm lý là tâm sở .
Thức phải có mặt thì các tâm lý khác mới có cở hoạt động,
mối quan hệ giữa thức và những hiện tượng tâm lý khác là
bất khả phân ly. Chức năng của thức tương tự như một tấm kiếng
phản ánh tất cả những đối tượng đi ngang qua nó, tuy vậy không
nên hiểu thức là một thực thể cứng đơ như tấm kiếng, mà
thức thì rất sinh động vì mối tương tác giữa các diễn biến tâm
lý .
Phần tâm lý được phân tích thành 4 phần là một
cách chia để dễ khảo sát, rất gượng ép và dễ hiểu lầm rằng
mỗi phần có một ranh giới riêng. Thực ra khi một đối tượng
được nhận thức thì mọi tâm lý đều sinh khởi, tuỳ theo sự kích
thích của đối tượng mạnh hay yếu và tuỳ theo sự nhạy cảm của
các quan năng mà nhận thức là nhận thức thuần tuý hay là nhận
thức có tác dụng thúc đẩy hành vi .
Phân tích tâm lý của con người dựa trên nền tảng,
một năng lực Thức phổ quát, là một phát hiện độc đáo trong
lịch sử tâm lý học, đó là cơ sở để các luận thư tâm lý
học Phật giáo về sau phát triển và giải quyết các vấn đề nhu
yếu của tâm thức.
Tóm lại phân tích tâm lý qua giáo lý 5 uẩn cho thấy
2 mặt của tâm lý : bản thể và hiện tượng. Thấy rõ các mối quan
hệ bất khả phân của các hiện tượng tâm lý. Mặt khác sự bất
khả phân giữa tâm lý và vật lý, nội dung hoạt động tâm lý
không có một chủ thể độc lập, cố định, giá trị riêng tư nào. Do
vậy con người là một tổng hợp vủa các hiện tượng tâm lý ,
vật lý. Không phải tồn tại như một đối tượng của tư duy, khái
niệm mà là của thực tại vô thường , khổ, vô ngã.
KẾT LUẬN
Tâm lý học Phật giáo qua giáo lý Nguyên thuỷ là
tâm lý học ứng dụng vào thực tiển của đời sống chứ không
phải là những lý luận khô khan,siêu hình, mục đích là :
- Cung cấp phương pháp nhận thức về con người chính
mình.
- Tìm cách thay đổi tình trạng đau khổ do rối loạn
tâm lý .
- Giúp con người định hướng tư duy và hành động
để đem đến sự chân thiện cho đời sống .
- Giúp con người đi sâu vào đời sống nội tâm để
giãi phóng những ức chế tâm lý, những kết tụ của các năng
lượng khổ đau và vô minh .
- C. KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC PHẬT
GIÁO
- QUA CÁC LUẬN THƯ TIÊU BIỂU
Trên cơ sở lý duyên sinh ,
năm uẩn , tâm lý học Phật giáo về sau hình thành một hệ thống
tâm lý học rất phức tạp và tinh vi qua sự xuất hiện các luận
thư của các bộ phái , các luận thư tâm lý học tiêu biểu và phổ
biến là Thắng pháp tập Yếu luận ( Abhidhammatthasangaha ) thuộc thượng
toạ bộ . Câu xá luận ( Abhidhammakosa ) thuộc về Nhất thiết hữu bộ
, do Thế Thân viết và Duy thức học ( Vijũnanaphivada ) cũng ở Thế
Thân viết thuộc Phật giáo đại thừa .
I. THẮNG PHÁP :
Thắng pháp là tạng thứ 3 trong tam tạng ( Kinh, luật,
luận ) gọi là tạng luận ( AbhidhammaPitaka ) Trung hoa dịch là A Tỳ Đàm
hay A tỳ đạt ma , thường gọi là Vi diệu pháp . Dựa trên cơ sở
những lời dạy của Đức Phật và thể tính của các pháp , Thắng
pháp đề cập đến cả những vấn đề siêu hình về bản thể , về
giải thoát . Bộ Thắng pháp này có nơi coi là của Ngài Xá Lợi
Phất .
Định nghiã về luận thì Nguyên thuỷ hay Đại thừa
đều giống nhau . Theo Nhiếp đại thừa luận thì Luận có nghiã :
1. Đối pháp : Có 2 nghiã :
- Đối hướng : Tức là đối diện với Niết bàn , hướng đến
Niết bàn .
- Đối quán : là đối diện với các pháp hiện tượng đã quan sát
, phân tích .
2. Số : trình bày giải thích những danh từ ,
những thuật ngữ , pháp số một cách rõ ràng và thứ tự .
3. Phục : Dùng để khuất phục các tà
thuyết của ngoại đạo .
4. Thông : Giải thích thông suốt nghiã lý sâu
kín ở trong kinh tạng , nghiã làgiải thích lời Phật dạy một cách
rộng rãi .
Luận Đại Trí Độ giải thích :" Đối với các
câu hỏi mà đáp , hoàn toàn là hình thức luận cứu , nêu ra
nhiều mặt để phân biệt , như nói 18 giới thì phân biệt cái nào
là sắc , cái nào không phải sắc , cái nào có thể thấy , cái
nào không thể thấy , cái nào là hữu lậu , cái nào làvô lậu ,
cái nào là thiện , cái nào là bất thiện ..v..v.. như thế gọi là
Luận" .
Thắng pháp lập luận dựa trên nguyên tắc :
- Không có gì sinh ra mà không có nguyên nhân .
- Không có gì sinh ra mà chỉ do một nguyên nhân .
- Không có gì sinh ra mà không có tác dụng .
- Không có gì tồn tại hơn một sát na .
Mọi sự vật mọi pháp trên đời được chia làm 4
lĩnh vực chính :
- Sắc pháp : ( Rupa ) Thế giới vật lý , có thể gọi là thế giới
khách quan .
- Tâm vương : ( Citta ) Khả năng nhận thức,là Tâm thể
- Tâm sở : ( Cetasika ) là những hoạt động tâm lý , có thể gọi
là thế giới chủ quan .
- Niết bàn ( Nirvana ) là pháp siêu thế giới , pháp vô điều kiện
và không biến hoại .
Sắc pháp là pháp vô tri và luôn biến đổi chia
thành 2 nhóm :
- Tứ đại chủng : Đất , nước , gió , lửa .
- Tứ đại sở tạo : ( do tứ đại mà sinh ) có 24 loại
Tứ đại gồm Đất là đặt tính cứng ; Nước là
đặt tính lỏng ; Lửa là đặt tính nhiệt độ ; Gió là đặt tính
động .
Tứ đại sở tạo có 24 : 5 tịnh sắc , 4 hành cảnh
sắc , 2 bản tánh sắc , 1 tâm sở y sắc , 1 mạng sắc , 1 thực sắc ,
1 hạn giới sắc , 2 biểu sắc , 3 biến hoá sắc và 4 tướng sắc .
Tâm vương và tâm sở là những hoạt động tâm lý
cả 2 mặt thể tính và hiện tượng .
So sánh với giáo lý 12 nhân duyên và 5 uẩn ta nhận
thấy rằng Danh sắc trong 12 nhân duyên thì Danh ( mana ) chính là tâm và
tâm sở . Đối với 5 uẩn thì yéu tố Thọ, Tưởng , Hành là tâm
sở , còn Thức là Tâm vương .
Tâm vương gọi là Citta , ngữ căn Cit nghiã là suy
nghĩ , Tâm vương là khả năng nhận thức sự có mặt của một đối
tượng ( theo Thắng pháp các từ ngữ như tâm , tâm sở, Danh , ý
thức là một ). Tâm vương nhận thức sự hiện hữu của một đối
tượng là cái biết sinh khởi trong một thời gian rất ngắn ( 1 sát
na ). Tâm vương không suy nghĩ trên đối tượng . Việc suy nghĩ về
đối tượng là chức năng của Tâm sở .
Tâm sở gọi là Cetasika , là những hoạt động tâm
lý , những yếu tố tâm lý , Tâm vương chỉ là một sự tổng hợp
của những tâm sở , Tâm sở là những phần tử tạo thành tâm
thức và sống trong tâm thức , giống như một dòng sông ( tâm vương
) là những giọt nước của dòng sông ( tâm sở ). Một bên là
thể tính , một bên là hiện tượng .
Khái niệm về tâm vương và tâm sở là một khái
niệm đặc biệt chỉ có Tâm lýhọc Phật giáo mới có .
Mối quan hệ giữa Tâm vương và Tâm sở có 4 yếu
tố :
- Đồng sinh .
- Đồng diệt .
- Đồng đối tượng .
- Đồng giác quan .
Điều này muốn nói rằng sự hoạt động của Tâm
vương và Tâm sở là bất khả phân , chúng là một cái này , là
cái kia
phân biệt chỉ để quan sát và thấy được quy luật vận
động của tâm lý .
Tâm vương có 89 tâm chia làm 4 loại :
- Dục giới tâm : là tâm lý thông thường đủ thất tình lục dục
.
- Sắc giới tâm và
- Vô sắc giới tâm : là tâm của thiền định .
- Siêu thế giới tâm : là tâm của bậc giác ngộ an trú Niết bàn .
Về tính chất tâm vương có 4 lãnh vực :
- Tâm thiện .
- Bất thiện tâm .
- Dị thục tâm .
- Duy tác tâm .
( Dị thục tâm là tâm kết quả , có sẵn do đời
trước đưa đến và mặc định như thế . Duy tác là tâm không đưa
đến kết quả gì đó là tâm của bậc thánh ).
Tâm sở có 52 tâm chia làm 4 nhóm :
- Tâm sở biền hành có 7 : là những tâm lý có mặt khắp mọi
hoạt động của tâm
- Tâm sở biệt cảnh có 6 : là những tâm lý chỉ có mặt theo từng
đối tượng tương ứng .
- Tâm sở bất thiện có 14 : là những tâm lý ô nhiễm rối loạn
và tạo khổ đau .
- Tâm sở thiện có 25 : là những tâm lý tốt đẹp phù hợp với
an lạc và giải thoát .
Niết bàn là những pháp không mang tính vô thường
và đau khổ , là pháp không tuỳ thuộc vào các điều kiện . Tự
tính an tịnh , vắng lặng . Có 2 loại :
- Hữu dư y Niết bàn : Là Niết bàn khi còn thể xác .
- Vô dư y Niết bàn : là Niết bàn khi đã viên tịch , thể xác không
còn .
II. CÂU XÁ LUẬN : ( Abhidharma- Kosa )
Câu xá luận do Ngài Thế Thân ( Vasubhandhu ) soạn vào
đầu thế kỷ thứ 5 , khá trễ so với Thắng pháp . Câu xá luận là
bộ luận đúc kết tư tưởng của các luận thư thuộc bộ phái Nhất
thiết hữu bộ , một bộ phái có ảnh hưởng lớn đối với nền
văn học Phật giáo .
Dựa trên giáo lý Tứ Đế , năm uẩn , mười hai
xứ , mười tám giới , Câu xá luận thiết lập hệ thống luận lý
cuả mình :" Ngã không pháp hữu".
Các pháp được phân biệt theo Câu xá luận thành 5
lãnh vực : Sắc pháp, tâm vương , tâm sở, tâm bất tương ưng và
vô vi pháp .
- Sắc pháp có 11 : gồm 5 giác quan , 5 đối tượng của giác quan , và
vô biểu sắc .
- Tâm vương : là khả năng nhận thức , chỉ có một ( bao gồm cả 6
thức ) .
- Tâm sở : các hiện tượng tâm lý gồm 46 pháp .
- Tâm bất tương ưng hành có 14 : là những pháp tạo tác từ sắc
và tâm .
- Vô vi pháp có 3 : là những pháp không có điều kiện , gồm Trạch
diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi , và Hư không vô vi .
Như vậy nói vắn tắc các pháp có 2 : Một là hữu vi
. Hai là vô vi . Năm uẩn bao hàm hết 72 pháp hữu vi : Sắc 11 , Thọ 1
, Tưởng 1 , Hành 58 , Thức 1 ( tâm vương ) .
Về mặt tính chất cũng phân chia tâm lý theo các lãnh
vực khác nhau :
- Đại địa pháp có 10 : tương đương với biến hành tâm sở .
- Đại thiện địa pháp có 10 : tức là các tâm lý tốt đẹp , hiền
thiện .
- Đại phiền não có 6 : tương đương với các căn bản phiền não
trong Duy thức và bất thiện tâm sở của Thắng pháp .
- Đại bất thiện có 2 : tâm lý bất thiện phổ biến như vô tàm ,
vô quý .
- Tiểu phiền não có 10 : tương đương với Tuỳ phiền não .
- Bất định pháp có 8 : là những tâm lý không định rõ là thiện
hay ác .
III. DUY THỨC HỌC :
Hệ thống Duy thức thuộc Đại thừa , nhưng do Ngài
Thế Thân phát triển và hoàn chỉnh nên phân tích tâm lý vẫn dựa
trên cơ sở Câu xá luận , chỉ có sự khác biệt là sáng tạo
thêm 2 thức là thức thứ 7 ( Mạt na ) và thức thứ 8 ( A lại da ).
Duy thức coi thức A lại da là thức căn bản .
Các pháp được phân thành 5 lãnh vực giống như
Câu xá , gồm có :
- Sắc pháp có 11 .
- Tâm vương có 8 .
- Tâm sở có 51 .
- Tâm bật tương ưng hành có 24 .
- Vô vi pháp có 6 .
Tính chất khác nhau của hiện tượng tâm lý được
chia ra 5 nhóm :
- Biến hành có 5 .
- Biệt cảnh có 5 .
- Thiện tâm có 11 .
- Căn bản bất thiện có 6 .
- Tuỳ phiền não có 20 .
- Bất định có 4 .
So sánh với Thắng pháp và Câu xá , Duy thức có
những điểm tương đồng và dị biệt như sau :
- Tâm vương : Duy thức có 8 , Câu xá có 1 ( bao gồm 6 thức ) Thắng
pháp có 89 ( hay 121 ) Câu xá cho là một vì nhìn về tâm vương một
cách tổng quát , còn Thắng pháp thì nhìn một cách chi tiết . Riêng
đối với Duy thức tăng thêm 2 tâm vương Mạt na và A lại da , bởi
lẽ ;
1. Mạt na : Ý thức hoạt động mặt nổi với
các đối tượng bên ngoài hay bên trong, và có lúc Ý thức không
hoạt động như trường hợp ngũ say , chết giấc . Vậy phải có
thức tồn tại liên tục làm nền tảng cho Ý thức hoạt động khi
đủ điều kiện ( như thức dậy ) . Thứ đến thức làm nền tảng
ấy phải có những tính chất gần gũi với Ý thức và ít nhất
cũng phải có những dấu hiệu để nói lên sự có mặt của nó .
Thức Mạt na sẽ giải quyết 2 vấn đề trên . Đối
với vấn đề làm chổ dựa cho Ý thức thì Mạt na còn có cái tên
khác là Ýùcăn ( căn cứ của ý thức ) , Từ ngữ Ý là dịch
từ Manar mà ra . Luận Câu xá đã giải quyết vấn đề chổ dựa
củaÝ thức là Ý căn , gọi Ý căn là tâm vương . Ý căn không
chỉ làchổ dựa của Ý thức mà còn là chổ dựa của 5 thức cảm
giác ( nhãn thức
) Ý căn có 2 khả năng : Một là làm nối
tiếp sinh mạng . Hai là tự tại vận hành dẫn dắt chúng sinh đi vào
lục đạo . Khái niệm về ý căn là phát triển rộng hơn từ khái
niệm Hữu phần thức ( Bhavanga ) của Thắng pháp , đến Duy thức thì
Ý căn được chuyển mình thêm một bước thành Mạt na , nó mang
thêm chức năng mới , đó là năng lực chấp ngã .
Chấp ngã hay là bản năng tự vệ nằm sâu trong tiềm
thức của con người nhưng nó cũng biểu hiện rõ nơi các hiện
tượng tâm lý : Tính cố chấp , ngã mạn , bảo thủ , vướng mắc
chấp ngã là dấu hiệu của thức Mạt na , và chấp ngã là
cái tồn tại liên tục và tức thời .
2. A lại da :
Nếu Ý thức là hoạt động tâm lý mặt nổi và Mạt
na là căn cứ của ý thức với tính chất chấp ngã . Vậy có cái
ngã nào cho Mạt na chấp thủ và có cái gì lưu trữ toàn bộ hoạt
động của thân , khẩu , ý và sự vận động của nhân quả , nghiệp
báo như thế nào ? Thức A lại da là một năng lực bảo tồn tất
cả mọi năng lực của sự tồn tại . A lại da là thức tổng thể
và rất khó nhận thức . Thành lập thức thứ 8 Duy thức mở ra
được lối thoát cho hệ thống tâm lý học Phật giáo .
- Vấn đề Niết bàn vô vi :
Thắng pháp đưa ra 2 pháp Niết bàn là Hữu dư y Niết
bàn và Vô dư y Niết bàn . Câu xá luận thì chia thành 3 pháp vô vi
: Hư không vô vi , Trạch diệt vô vi , và Phi trạch diệt vô vi .
Hư không vô vi : Hư không , gọi là vô ngại , tính
không chướng ngại vật khác và không có vật nào chướng ngại
mình , hư không vô vi là thể tánh của mọi vật phi nhân duyên .
Trạch diệt vô vi : Trí tuệ giản trạch đoạn trừ lậu
hoặc thành tựu Niết bàn . Niết bàn ấy phi nhân duyên .
Phi trạch diệt vô vi : các pháp không đủ duyên nên
không tồn tại , không tồn tại nên không huỷ diệt . Nó không
được trí tuệ giản trạch nên gọi là phi trạch diệt .
Như vậy Câu xá đưa vào hư không và phi trạch diệt ,
còn trạch diệt vô vi tương đương với Niết bàn .
Duy thức tăng thêm 3 pháp vô vi là : Bất động diệt
vô vi , là trạng thái bất động của thiền thứ tư . Thọ tưởng
diệt vô vi , là định diệt thọ tưởng của vị A La Hán , và chân
như vô vi là pháp chân thật , là Niết bàn .
Tuỳ theo quan điểm mà pháp vô vi tăng hay giảm nhưng
điều chung nhất đều coi Niết bàn là pháp vô vi .
Các sự khác biệt không phải là đối kháng , ngoài ra Sắc pháp
và Tâm sở không khác nhau mấy , phần lớn là tương đồng.
http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/019-thichviengiac-tamlyhoc.htm