- NỀN TẢNG THIẾT LẬP
GIỚI
- Thích Viên Giác
- LỜI NÓI ĐẦU
- CHƯƠNGI : Quá trình hình thành giới
- Giáo pháp là giới
- Ba pháp quy y là giới
- Giới kinh
- Ni giới
- Giới Bổn
-
- CHƯƠNG II : Giới luật cơ sở của
đạo đức
- Khái niệm về đạo đức
- Y' thức đạo đức
- Các quan niệm về đạo đức
- Mục tiêu của đạo đức
- Cơ sở xây dựng đạo đức
-
- CHƯƠNG III . Nền tảng của giới luật
- Trí tuệ – Nền tảng của giới
- Từ bi – Nền tảng của giới .
LỜI NÓI
ĐẦU
Con người khác với loài động vật
ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế
nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu ? Làm thế
nào để con người thể hiện hành vi của mình phù hợp với nhân tính ? Cần
có một mục tiêu, lý tưởng để hướng dẫn con người hành động, do đó,
triết học, tôn giáo, chủ nghĩa ra đời .
Đạo Phật chú trọng đến vấn đề
giải thoát con người ra khỏi những ràng buộc, những đau khổ thông thường
cho đến vượt thoát biển khổ trầm luân sinh tử, tử sinh, bằng cách
khai thác năng lực tính Phật tiềm ẩn nơi mỗi chúng sinh và bằng khả năng
tự lực của chính mình . Để bắt đầu, đạo Phật thiết lập giới luật
để ngăn ngừa hành vi bất thiện của dục vọng bản năng, tạo điều kiện
cho tính Phật xuất hiện, phát triển và hoàn thiện nhân cách đến chổ
giải thoát hoàn toàn .
Tác dụng của giới luật trước hết
là tạo nên con người có tính cách ổn định , hướng về điều thiện ,
tránh xa điều ác , biểu hiện ở chổ kiểm soát chính mình , đối xử với
mọi người và hoàn cảnh như thế nào để đem đến sự bình an và hạnh
phúc cho đời sống con người . Sau đó, trên cơ sở đạo đức ấy , tâm
lý được thanh lọc và đạt được trí tuệ , hội nhập thực tại vô
ngã giải thoát tối hậu .
Giới luật của đạo Phật không
xây dựng trên nền tảng tín điều và thiết lập giáo điều như các tôn
giáo khác thường làm để bắt buộc tín đồ phải tuân thủ , mà xây dựng
trên cơ sở thực tiển tâm lý và xã hội , trên cơ sở quy luật của hạnh
phúc hay đau khổ . Vì vậy, định nghĩa về giới luật (Sila) rất rõ là :
ngăn ngừa những điều bất thiện , đình chỉ các điều ác ( phòng phi chỉ
ác ) ; hoặc là đình chỉ các điều ác , thực hành các điều thiện ( chỉ
ác tác thiện ) giới luật còn gọi là Vinaya , tức là điều phục hành vi
, ngôn ngữ bất thiện trở nên thuần thiện ; hay còn gọi là Patimokha tức
là giải thoát từng phần , giữ giới nào thì giải thoát , tự do về giới
ấy . Điều này có nghiã là tránh được điều bất thiện nào thì điều
bất thiện đó không trói buộc , không làm hại được mình . Nói một
cách tổng quát thì giới luật là kim chỉ nam cho hành động , giúp con người
giải quyết những vấn đề bất ổn trong đời sống về mặt ứng xử ,
tâm lý và nhất là đối với lý tưởng giải thoát của người phật tử
.
- CHƯƠNG I
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH GIỚI LUẬT
Sau khi Đức Phật thành đạo
dưới cội Bồ đề, Ngài đến vườn Lộc Uyển ở Isipatana gần Beneres hoá
độ năm anh em Kiều Trần Như , năm người bạn đồng tu khổ hạnh với
ngài trước kia. Giáo pháp được Đức Phật truyền dạy là con đường
trung đạo tránh xa hai cực đoan : hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép
xác. Đồng thời Ngài cũng thuyết giảng hệ thống bốn chân lý : chân lý
về khổ ( Dukkha ), chân lý về nguồn gốc của khổ ( Samudaya)Chân lý về
khổ diệt ( Nirodha ), chân lý về con đường đưa đến khổ diệt (Magga ).
Năm Tôn giả lần lượt quán triệt bốn chân lý ấy và được Đức Phật
chấp thuận cho làm đệ tử xuất gia. Đây là năm vị Tỳ kheo đầu tiên
của Giáo hội. Từ đây ngôi Tam Bảo được hình thành : Đức Phật, giáo
pháp và chúng Tăng , chỉ trong vòng hai tháng sau khi Ngài thành đạo .
I. GIÁO PHÁP LÀ
GIỚI
Để trở thành Tỳ kheo, năm anh em
Kiều Trần Như chỉ giác ngộ chân lý, không cần có một thủ tục hay giới
điều nào cần phải tuân thủ. Về sau trường hợp này gọi là :" Kiến
đế đắc giới". Theo các tài liệu về sử học còn lưu lại thì buổi
ban đầu này Đức Phật chỉ nói một câu :" Đến đây, này các Tỳ
kheo, giáo pháp đã được khéo giảng, hãy sống đời phạm hạnh để đoạn
tận khổ đau" ( Đức Phật Lịch Sử. Tr 164 VNCPH ấn hành )
Thuở đầu thành lập Tăng đoàn,
việc thọ giới Tỳ kheo chỉ là sự hợp thức hoá bởi chính Đức Phật.
Khi Ngài thấy được người đệ tử ấy đã lãnh hội giáo pháp và phát
nguyện xuất gia. Chưa có một giới điều nào, chưa có ý niệm gì về sự
ràng buộc của quy chế,bởi lẻ giáo pháp chính là giới. Tính chân lý của
giáo pháp cùng với năng lực vĩ đại của Đức Phật ảnh hưởng trực
tiếp lên tâm trí của một người đã tạo nên tác dụng của giới là đình
chỉ các điều ác, thực hành các việc thiện. Giáo pháp ở đây nên hiểu
là bốn chân lý. Trong đó nguyên tắc hành trì để đạt được phạm hạnh
thanh tịnh là Bát chánh đạo, con đường đưa đến khổ diệt. Hành trì
Bát chánh đạo tự nó là giới, nếu phân biệt thì chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng là nội dung của giới. Nói một cách rộng rãi thì lãnh hội
giáo pháp là trí tuệ hiện hữu, đã có trí tuệ thì tội lỗi không sinh.
Do sự giác ngộ chân lý trực tiếp từ lời dạy và phong cách của Đức
Phật, Tăng già buổi ban đầu không cần phải có các giới điều hay quy
chế làm gì. Trong luật tạng thời kỳ này được gọi là :" Vô sự Tăng"
.
Ngoài năm anh em Kiều Trần Như, vài
tháng sau đó, Đức Phật độ cho Yasa, một thanh niên còn trẻ và giàu có
ở Benares, được xuất gia và chứng quả A La Hán. Chẳng bao lâu, 50 bằng
hữu của Yasa cũng gia nhập giáo đoàn và đều đắc A La Hán quả. Giáo
đoàn đã được 60 vị. Đức Phật và 60 Tỳ kheo an cư lần đầu tiên tại
vườn nai ở Isipatana.
Pháp và luật mà Đức Phật luôn
luôn giảng dạy, nhắc nhở là đoạn trừ ác nghiệp những lầm lỗi ở nơi
thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Như vậy, dù chưa chế giới nhưng
nền tảng của giới cũng đã thiết lập bao gồm Đạo đức luận và giải
thoát luận .
II. BA PHÁP QUY Y
LÀ GIỚI
Sau mùa an cư đầu tiên, Đức Phật
quyết định truyền bá con đường giải thoát một cách rộng rãi ; Ngài tập
trung 60 vị Tỳ kheo và dạy :" Này các Tỳ kheo hãy đi khắp nơi vì an
lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì
lợi lạc và hạnh phúc của trời và người. Chớ đi hai người cùng chung
đường với nhau. Này các Tỳ kheo, hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng
ở lúc đầu,cao thượng ở lúc giữa, cao thưọng ở lúc cuối, trong tâm
trí và trong ngôn từ. Hãy rao giảng sự viên mãn, đời sống thanh tịnh của
trạng thái cao cả. Có những kẻ mà trí óc chỉ bị che mờ bởi đôi
chút bụi bặm, nếu không nghe giảng pháp thì họ không thể đạt được
giải thoát ; những kẻ ấy sẽ hiểu pháp". ( Mahavagga I.12 )
Thọ lãnh những huấn thị ấy của
Đức Thế Tôn, các Tỳ kheo lên đường hoằng hóa, tiếp độ chúng nhân
ngày càng đông. Từ đó nảy sinh ra một điều bất tiện là khi có người
xin xuất gia, các vị Tôn giả đều phải giới thiệu hoặc đưa ngưòi ấy
về Isipatana để xin Đức Phật cho thọ giới. Vì thuở đó Đức Phật
chưa cho phép các vị Tỳ kheo tự ý truyền giới xuất gia. Sự bất tiện
nữa là Đức Phật không thể ở yên một trú xứ chờ đợi các đệ tử
đưa người về ; bản thân của Ngài cũng vân du đây đó để hoá độ chúng
sinh. Để giải quyết vấn đề, Ngài triệu tập Tăng đoàn hội ý. Sau khi
thảo luận, Đức Phật dạy :" Này các Tỳ kheo, ta cho phép chư vị khi
ở trong những xứ sở, thôn làng xa xôi có quyền truyền tiểu giới xuất
gia ( pabbajà, sadi ) và đại giới xuất gia ( Upasampadà, Tỳ kheo ).Việc ấy
phải thực hiện theo cách này : Trước tiên hãy cho giới tử cạo sạch
râu tóc, đắp các y vàng và phủ ra bên trái với thượng y ; hãy cho phép
vị ấy quỳ xuống cung kính nghiêng mình trước giới sư với hai tay chắp
lại. Sau đó vị ấy phải được dạy bảo lặp lại câu :" Đệ tử
xin quy y Phật ; đệ tử xin quy y pháp ; đệ tử xin quy y tăng." Câu
này phải được lặp lại ba lần ." Này chư Tỳ kheo, ta cho phép chư vị
truyền tiểu giới và đại giới xuất gia của một tân thọ Tỳ kheo bằng
cách nhận tam quy này" ( ĐP LS ). Từ đó, phương pháp truyền giới và
thọ giới được thành lập. Nội dung của giới được truyền chỉ đơn
giản là ba pháp quy y ;mặc dù có phân biệt tiểu giới và đại giới,
nhưng không có phân biệt về nội dung giới pháp. Đây là trường hợp mà
trong luật tạng gọi là :" Tam ngữ đắc giới"
Sau này, khi giới luật phát triển
đầy đủ, ba pháp quy y không còn đóng vai trò quan trọng và lớn lao như vậy
nữa. Có người cho rằng, ba pháp quy y không phải là giới ; nhưng trên thực
tế, ba pháp quy y vẫn phát sinh tác dụng của giới. Nghĩa là ngăn ngừa
điều ác, những điều kiện bất thiện phát sinh. Ngài Thánh Nghiêm ở
Trung Hoa viết trong tác phẩm Giới Luật Học Cương Yếu rằng :" Thật
ra Tam quy cũng là giới." Bởi vì, nghĩa của giới là cấm ngăn. Sau khi
quy y cũng có ba thứ cấm ngăn :" Quy y Phật suốt đời không quy y
thiên ma ngoại đạo ; Quy y pháp suốt đời chẳng quy y tà thuyết ngoại đạo
; Quy y Tăng suốt đời chẳng quy y đồ chúng ngoại đạo. Vì thế, bản
thân của quy y Tam Bảolà có bao hàm đặc chất của một loại giới."
( Tuệ Đăng dịch ).
Như vậy, sự phát triển giáo đoàn
đã thúc đẩy hình thành một quy chế truyền giới ; tuy đơn giản nhưng
đó vẫn là một phương thức mang tính cách quy chế. Đối với hàng ngũ
cư sĩ tại gia, khi muốn trở thành một tín đồ Phật giáo, phương thức
nhập đạo cũng chỉ là phát nguyện Tam quy. Các cư sĩ thường tác bạch
:" Bạch Đức Thế Tôn, nay đệ tử xin quy y Thế Tôn, quy y pháp ; quy y
Tăng ; ước mong Thế Tôn nhận đệ tử làm cư sĩ tại gia từ nay cho đến
trọn đời" ( Trường Bộ Kinh ). Không thấy truyền thọ 5 giới, có lẻ
5 giới được mặc nhiên hành trì ; vì đó là những nguyên tắc đạo đức
phổ quát đương thời được Đức Phật hệ thống lại về sau. Phương
thức truyền giới và thọ giới bằng cách đọc Tam quy chỉ dành cho các Tỳ
kheo sử dụng. Riêng Đức Phật, Ngài rất ít khi sử dụng. Ngài thương dùng
câu ;" Thiện lai Tỳ kheo"," Hãy đến đây, Tỳ kheo" ( Ehi,
Bhikka) là một sự vị thiện nam tử trở thành một người xuất gia thực
thụ. Cách truyền giới này chỉ có Đức Phật sử dụng mà thôi .
III. GIỚI KINH
Trong kinh có đề cập đến sự tập
trung Tăng chúng vào những ngày trăng tròn và không trăng để đọc tụng
giới kinh. Như vậy, dù chưa hình thành rõ nét giới bổn, nhưng chắc chắn
đã có những bài kinh gọi là giới kinh để nhắc nhở Tăng chúng thúc liễm
thân tâm và để thanh lọc thân khẩu ý.
Trong giới bổn Tỳ kheo có 7 bài kệ
của 7 Đức Phật kể từ Đức Phật Tỳ Bà Thi cho đến Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni được gọi là giới kinh. Hình thức của bài kệ ngắn gọn, dễ
thuộc, nội dung khích lệ tu tập để làm trong sạch thân khẩu ý. Giới bản
Tỳ kheo nói rõ rằng : " Đây là giới căn bản ứng dụng cho chư Tăng
Vô sự" thuở ban đầu. Sau này, giới luật phát triển cũng chỉ làm
phong phú thêm mà thôi ; có thể trích dẫn 1 trong 7 bài giới kinh như sau :
Giới kinh do Đức Thích Ca Mâu Ni dạy :
- " Khéo léo mà giữ
- Miệng lưỡi lời tiếng
- Tự mình làm sạch
- Tâm trí của mình
- Và thân thể nữa
- Cũng đừng làm ác
- Đó là đường sạch
- Của cả ba nghiệp
- Khả năng đạt được
- Đường sạch như vậy
- Chính là đường đi
- Của Bậc Đại Tiên".
" Bài tụng này là giới kinh của
Thích Ca Mâu Ni đấng Như Lai, đấng Vô Trước, đấng Chánh Biến Tri thuyết
ra cho chư Tăng không có mọi sự tội lỗi trong 12 năm đầu. Từ đó về
sau, chỉ là phân tích phong phú giới kinh này." (Tỳ kheo giới. Trí
Quang dịch 1974)
Qua bài tụng giới kinh tiêu biểu
trên, chúng ta có thể thấy rằng, thanh lọc thân khẩu ý là mục tiêu của
sự hành trì giới và mục tiêu của đời sống phạm hạnh .
Qua năm thứ ba sau ngày Đức Phật
thành đạo, giáo đoàn đã lên đến con số 1250 vị gồm 1000 đệ tử của
ba anh em Kassapa, 250đệ tử của Sàriputta và Mogallàna. Với số lượng
Tăng chúng đông đảo như vậy, để có sự ổn định, ngoài các bài tụng
giới kinh, chắc chắn Đức Phật có chế ra một ít giới luật để ngăn
ngừa những sự rắc rối xảy ra trong đời sống tập thể và đối với
quần chúng xã hội. HW Schuman, trong tác phẩm Đức Phật Lịch Sử của
ông có đề cập vấn đề này :" Bậc đạo sư đưa ra một loạt huấn
thị để dạy chư vị Tỳ kheo biết giữ phép xã giao nhã nhặn, phải đắp
y đúng luật Sa môn, cư xử khiêm tốn trước các thí chủ và thọ thực
trong im lặng.
Những trường hợp bất kính đối
với các vị thầy giáo huấn lớp tân Tỳ kheo cũng khiến Ngài ban hành
các giới luật về vấn đề này. Ngài truyền lệnh các Tỳ kheo phải
vâng lời của các giáo thọ, phải chăm sóc y phục của các giáo thọ, phải
rửa sạch bình bát và lau chùi sàng tọa của thầy mình". (Trần Phương
Lan dịch. Tr 232 ).
IV.NI GIỚI
Năm 504 BC, sau khi Đức Phật thành
đạo 5 năm, trong dịp Ngài về thăm phụ vương đang bệnh nặng và sau đó
ông qua đời, đây là lần thứ 2 Ngài về hoàng cung, bà Mahapajapati- di mẫu
của Đức Phật cầu xin xuất gia. Mặc dù Đức Phật 3 lần từ chối bà
đã tự cạo đầu, khoác áo cà sa cùng với một số cung phi trong hoàng tộc
đi từ Kapilavatthu đến thành Vaisali gặp Ngài xin xuất gia. Dù vậy, Đức
Phật vẫn từ chối. Tôn giả Ananda, đã không cầm lòng được và lên tiếng
cầu xin giúp. Cuối cùng, Đức Phật dạy :" Này Ananda, nếu mẫu hậu
Mahapajapati cam kết tuân theo tám trọng giới này thì hãy xem đây là lễ thọ
giới của bà." Bà Mahapajapati chấp nhận mọi diều kiện và trở
thành vị Tỳ kheo ni đầu tiên .
ội dung của Bát kỉnh pháp là đề
cao vai trò của Tăng chúng, Tỳ kheo ni phải phục tùng và kính trọng Tăng
chúng. Bát kỉnh pháp quy định một Tỳ kheo ni dù đã 100 tuổi hạ cũng phải
cung kính đảnh lễ vị Tỳ kheo 1 hạ … Lý do Đức Phật thiết lập Bát
kỉnh pháp là để phòng ngừa sự quá đáng của ni giới đối với chư
Tăng về mọi mặt. Như trong kinh Tăng Chi Phật dạy :" Này Ananda, cũng
như một người vì nghĩ đến tương lai mà lo xây đập ngăn hồ nước lớn
không cho nước chảy qua. Cũng vậy, này Ananda vì nghĩ đến tương lai ta mới
ban hành Bát kỉnh pháp này cho các Tỳ kheo ni để họ trọn đời không vượt
qua" .
Như vậy, ngoài những nguyên tắc
đơn giản là truyền Tam quy, Ni chúng còn được truyền Bát kỉnh pháp để
trở thành Tỳ kheo ni. Về sau, giới luật của Tỳ kheo ni cũng nhiều hơn
giới luật của Tỳ kheo ; đơn giản, là vì người nữ về mặt sinh lý,
tâm lý, xã hội… đều phức tạp hơn nam giới .
Qua quá trình ở trên, chúng ta nhận
thấy giới luật của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni thời kỳ này chủ yếu là coi
trọng giới thể chứ chưa đặt nặng giới tướng. Vì vậy, khi một Tỳ
kheo hay một Tỳ kheo ni được thọ giới hoặc đắc giới có nghĩa là giới
thể vô biểu phát khởi trong thân tâm của người thọ. Đó là nột loại
ấn tượng có thể tạo ra năng lực chi phối các hoạt động của thân khẩu
ý. Năng lực ấy tuy không thấy được bằng mắt nhưng tác dụng rất rõ.
Đó là ngăn ngừa được sự bất thiện của thân, khẩu, ý.Đây chính là
cốt lõi của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới.
Giới Tỳ kheo được gọi là giới
Cụ túc, tiếng phạn là Upasampàda, dịch là Cận viên, nghĩa là gần với
sự viên mãn ; hay nói cách khác là gần với quả vị cao thượng của A La
Hán. Đời sống của một vị A La Hán có 4 sự thanh tịnh :
- Biệt giải thoát luật nghi
- Căn luật nghi
- Mạng luật nghi
- Chánh niệm tỉnh giác .
Đầy đủ 4 sự thanh tịnh này gọi
là Cụ túc giới. Tổng kết các trường hợp đắc giới Cụ túc, Luật tạng
nêu ra 10 trường hợp :
- Tự nhiên đắc giới
: Đây là trường hợp
của Đức Phật hay Độc Giác Phật, do tự mình chứng ngộ, không có ai
truyền .
- Kiến đế đắc giới
: Như trường hợp của
năm anh em Kiều Trần Như, thấy được 4 chân lý bước vào thánh đạo mà
đắc giới .
- Thiện lai Tỳ kheo
: được Đức Phật gọi là
Thiện lai Tỳ kheo mà đắc giới .
- Do xác nhận Phật là thầy
: Đây là trường
hợp của Tôn giả Ca Diếp khi gặp Đức Phật liền tuyên bố :" Đây
là bậc đạo sư của tôi" mà đắc giới Cụ túc .
- Do kheó trả lời
: Đây là trường hợp của
Tô Đà Di mới 7 tuổi đã trả lời một cách khéo léo câu hỏi của Phật
rằng :" Nhà con ở đâu ?". Đáp :" Ba cõi không đâu là
nhà" Đức Phật cho thọ giới Cụ túc .
- Do thọ Bát kỉnh pháp
: Đây là trường hợp
bà Mahapajapati, di mẫu của Đức Thế Tôn, chấp nhân 8 phép tôn trọng đối
với Tăng mà đắc Cụ túc giới .
- Do gởi đại diện
: Đây là trường hợp
của ni cô Pháp Thọ ; do có sắc đẹp nổi tiếng nên khi hay tin nàng xuất
gia thọ giới, nhiều thanh niên tổ chức đón đường bắt cóc. Phật cho
phép nàng gởi người đại diện đến giữa Tăng mà thọ, sau đó về truyền
lại .
- Do người thứ 5 là người trì luật
: Trường
hợp ở biên cương không đủ túc số 10 Tăng, được cho phép chỉ đủ 5
người, nhưng 1 trong 5 người phải biết pháp yết ma truyền giới .
- Thọ giới đủ 10 Tỳ kheo truyền
: Đây
là trường hợp thông thường bắt buộc đối với vùng đô thị và nơi
đủ túc số Tăng .
- Tam ngữ đắc giới
: Đây là trường hợp
thọ Cụ túc giới bằng cách đọc 3 lần :" Quy y Phật ; quy y pháp ;
quy y Tăng"
Cách này là cách truyền giới thuở
ban đầu thành lập Tăng đoàn .
Tóm lại, giới luật trong thời kỳ
ban đầu của giáo đoàn đặt trọng tâm vào giáo pháp và đời sống phạm
hạnh . Những giới luật của người xuất gia chưa cần phải thiết lập.
Nghi thức truyền thọ Cụ túc giới cũng rất đơn giản, ngắn gọn . Do tình
hình sinh hoạt thực tế của giáo đoàn, Đức Phật dần dần thiết lập
giới. Theo Luật tạng thì cho đến năm thứ 12 sau ngày Phật thành đạo giới
luật mới chính thức được thành lập. Năm thứ 5 sau ngày Phật thành đạo,
Tôn giả Ưupali xuất gia, vì là ngưòi có năng khiếu về phân tích giới
luật, nên Đức Phật thường giao cho Tôn giả nhiệm vụ nghiên cứu giới
luật để hình thành luật tạng .sự hình thành giới bổn kéo dài cho đến
khi Đức Phật nhập Niết bàn mới chấm dứt .
V. GIỚI BỔN
1. Giới của
người cư sĩ tại gia
Theo nguyên tắc, người cư sĩ tại
gia phải có đủ 2 điều kiện để trở thành một phật tử chân chính.
Đó là thọ nhận 3 pháp quy y và hành trì 5 giới cấm, 5 giới cũng được
truyền và thọ đúng nguyên tắc. Tuy nhiên, thời kỳ đầu của giáo đoàn,
người cư sĩ không cần phải thọ giới hay được truyền 5 giới mà chỉ
cần phát nguyện thọ Tam quy theo nghi thức rất đơn giản là lặp lại 3 lần
Tam quy .
Người cư sĩ tại gia đầu tiên của
Đức Phật là hai thương gia Tapassu và Bhallika, hai thương gia này trên đường
về quê gặp được Đức Phật vừa mới đắc đạo chưa đi hoằng hoá.
Trước phong cách đặc biệt của một vị giác ngộ, hai thương gia dừng lại
thăm hỏi đảnh lễ và cúng dường một ít mật và bột. Sau đó họ quỳ
xuống và bạch rằng :" Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin quy y Phật ,
quy y pháp, xin Ngài thâu nhận chúng con làm thiện tín kể từ nay cho đến
ngày cuối cùng đời chúng con". Đó là 2 vị thiện tín đầu tiên quy
y nhị bảo . ( Đức Phật và Phật pháp. Tr 78 Narada ).
Trong thời gian đầu tiên này, Đức
Phật cũng nhận nữ thiện tín đầu tiên quy y nhị bảo. Đó là nàng
Sunjata, người dâng bát sữa đầu tiên khi Đức Phật từ bỏ con đường
tu khổ hạnh .
Người cư sĩ đầu tiên quy y Tam bảo
là thân phụ của Yasa. Yasa là một thanh niên giàu có, con một, của một
thương gia. Do chán đời sống gia đình xa hoa vô nghĩa, một hôm anh ta đến
vườn nai ở Isipatana gặp được Đức Phật, nghe thuyết pháp ; cuối cùng
Yasa giác ngộ chân lý và muốn xuất gia theo Đức Phật. Thân phụ của
Yasa đi tìm con ; ông ta đến vườn Nai hỏi thăm Đức Phật. Đức Phật bảo
ông ta ngồi xuống và thuyết pháp cho ông nghe. Nghe xong, ông hoan hỷ xin quy
y Tam bảo. Từ đó những cư sĩ muốn trở thành đệ tử của Đức Phật
thường đọc 3 lần quy y Tam bảo .
Năm giới cấm của người phật tử
tại gia do Đức Phật chế và trở thành giới điều thực sự có lẻ khoảng
năm thứ 12 sau ngày thành đạo trở lên ; nghĩa là hình thành cùng khoảng
thời gian hình thành giới bổn của người xuất gia .
Thật ra, như chúng ta thấy, dù nói
5 giới là của người phật tử tại gia nhưng lại là giới nền tảng, căn
bản cho cả người xuất gia. Năm giới Đức Phật dạy được ghi chép lại
trong kinh Trung A Hàm 128 là bài kinh Ưu-bà- tắc ( bản kinh do Sanghadeva dịch
ra chữ hán ), tương đương với kinh gia chủ trong Anguttava Nikàya. Kinh này
Đức Phật dạy cho cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với 500 cư sĩ bằng hữu của
Cấo Cô Độc tại tịnh xá Kỳ Hoàn thuộc nước xá vệ ( Savatthi ).
Nội dung 5 giới được trình bày rất
rõ ràng và đầy đủ cả hai mặt Chỉ trì và Tác trì, nghĩa là rất tích
cực. Ví dụ, giới thứ nhất xa lià sát sinh, Phật dạy :" Bạch y
thánh đệ tử xa lià sát sinh , vứt bỏ khí giới, có tâm hổ thẹn, có
tâm từ bi thường thực hành hạnh lợi ích cho tất cả, cho đến loài
côn trùng ( phóng sinh, bảo vệ sinh vật ). Đấy là pháp thứ nhất mà bạch
y thánh đệ tử giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo".
Căn cứ vào bài kinh trên trên
chúng ta có thể rút ra vài nhận định như sau . Đối tượng mà Đức Phật
thuyết giảng 5 giới là cư sĩ hết sức ủng hộ và sùng kính Đức Phật
cũng như giáo đoàn. Đây là lần đầu tiên Đức Phật thuyết
về 5 giới như là những tiêu chuẩn
đạo đức cho người cư sĩ tại gia .
Thời gian thuyết kinh này khoảng từ
năm thứ 10 đến thứ 12 sau ngày thành đạo. Cấp Cô Độc có duyên gặp
Phật rất sớm vào năm thứ 3 sau ngày thành đạo và ông đã dâng cúng tịnh
xá Kỳ Hoàn ở Xá Vệ ( Savatthi ) năm sau đó, tức khoảng 526-527 BC. Nhưng
Đức Phật không ở Kỳ Hoàn cho đến 515 ( hơn 10 năm sau ) Ngài mới an cư
lần đầu tiên tại đây. Từ đó cho đến cuối đời, phần lớn các mùa
an cư Đức Phật đều ngụ tại tịnh xá Kỳ Hoàn, theo sử ghi lại khoảng
19 lần Ngài an cư tại nơi này. Ngài Narada viết trong tác phẩm Đức Phật
và Phật pháp rằng :" Đức Phật an cư 19 lần ở jetavana. Đa số các
bài pháp liên quan đến hàng cư sĩ là do Đức Phật giảng cho Cấp Cô Độc".
Trong phần duyên khởi của kinh nói
Cấp Cô Độc đến thăm ngài Xá Lợi Phất chuyển hoá các cư sĩ chưa hiểu
đạo này. Điều cần nói thêm ở đây là mối giao tình giữa ngài Xá Lợi
Phất và Cấp Cô Độc rất đặc biệt.Ngài Xá Lợi Phất dẫn dắt 500 cư
sĩ đến trình diện Đức Thế Tôn với thâm ý là Đức Thế Tôn trực tiếp
giảng dạy họ. Đức Phật nhận thấy rằng, đây là cơ hội để chính
thức dạy cho hàng ngũ cư sĩ thực hành 5 giới như là những nguyên tắc cơ
bản của một cư sĩ theo Phật. Việc Cấp Cô Độc dẫn dắt số lượng
cư sĩ đã khá mạnh, nhu cầu tu học đã cao. Điều đó cũng nói lên sự bắt
rễ vững chắc của giáo đoàn ở Savatthi .
Thời gian đầu của Đức Phật ở
tại Savatthi, ngoài sự hộ trì của cư sĩ Cấp Cô Độc, Đức Phật và
giáo đoàn còn được sự hộ trì của một nữ cư sĩ nổi tiếng là
Visàkhà. Cô là con gái triệu phú Dhanàrjaya, lúc lên 7 tuổi, cô đã có cơ
duyên gặp Phật nhân dịp Ngài du hành đến Bhaddiya, quê hương của cô.
Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, cô trở thành một phật tử thuần
thành. ( Sách ghi là cô chứng quả Tu Đà Hoàn ) khoảng năm 17 tuổi cô lấy
chồng, cũng con một triệu phú, tên là Punnavadhana. Về nhà chồng ở
Savatthi, được gần gủi Đức Phật và chư Tăng, cô rất vui mừng và hết
lòng ủng hộ Phật pháp. Cô đã chuyển hóa cha chồng từ một đệ tử đắc
lực của giáo phái Nigantha trở thành đệ tử của Đức Phật. Bà đã
cúng dường Đức Phật và chúng Tăng đầy đủ đến suốt đời theo tâm
nguyện của mình. Đặc biệt, Visàkhà dâng cúng Đức Phật một tịnh xá
tên là Pubbàràma(Đông Viên Trùng Các ) cách tịnh xá Jetavana không xa.
Đức Phật đã an cư tại đây 6
mùa mưa. Bà là người nữ cư sĩđược Đức Phật dạy rất nhiều bài
kinh liên quan đến đời sống của người cư sĩ, đặc biệt là pháp Bát
Quan Trai Giới .
Bát Quan Trai Giới mà các phật tử
ngày nay thọ trì tu tập khởi nguyên là Đức Phật dạy cho Visàkha. Nội
dung Bát Quan Trai được ghi chép lại trong kinh A Hàm IV, kinh Trì Trai 202. Từ
bài kinh này ta có thể rút ra một vài nhận định sau :
Bát Quan Trai Giới đã được Đức
Phật thuyết lần đầu cho Visakha tại Đông Viên Trùng Các, vào dịp an cư
mùa mưa. Có lẽ là sau thời gian thuyết 5 giới cho Cấp Cô Độc .Visàkhà
thường đến tịnh xá để hầu thăm Đức Phật vào những ngày trăng tròn.
Nàng phát nguyện trì trai trọn ngày ; nhân đó Đức Phật dạy cho Visàkhà
về phương pháp trì trai chân chính gọi là Tám Chi Thánh Trai .
Nội dung tám giới, 5 giới đầu
tương tự 5 giới của người cư sĩ mà Đức Phật dạy cho Cấp Cô Độc,
trừ giới thứ 3 thêm là không dâm dục. Những giới còn lại là không nằm
giường cao rộng lớn, xa lìa trang sức, ca vũ nhạc và không ăn phi thời.
Ba giới sau tương đương với giới của sa di, nghĩa là giới của người
xuất gia. Chứng tỏ giới sa di cũng được thiết lập hoàn chỉnh. Mục đích
của Bát Quan Trai là tạo cơ hội cho hàng ngũ cư sĩ có diều kiện tu tập
giải thoát, nâng cao đời sống tâm linh và trí tuệ, ít nhất là thực
hành hạnh xuất gia. Trong kinh Trì Trai Đức Phật coi Tám Thánh Trai này tương
đương với phẩm hạnh của một vị A La Hán ; có thể lấy một giới để
ví dụ, như giới thứ ba :" Này nữ cư sĩ, Đa văn thánh đệ tử khi
trì trai tư duy như vầy :" A La Hán cân nhân rọn đời xa lià phi pham hạnh,
đoạn trừ phi phạm hạnh, tu hành phạm hạnh, chí tâm thanh tịnh, sống
không xú uế, ly dục, đoạn dâm. Đối với phi phạm hạnh, nay tôi tịnh
trừ tâm ấy". Ta coi chi này như của A La Hán ngang nhau không khác, do đó
gọi là trai (Kinh Trì Trai tương đương Tăng Chi III. Phẩm Ngày Trai Giới )
.
Như vậy tuy gọi là 5 giới hay 8 giới
của người cư sĩ tại gia nhưng vẫn là giới luật nền tảng của người
xuất gia. Bởi lẻ mục tiêu giải thoát là một và con đường đi đến giải
thoát cũng là một .
Qua trình bày trên, chúng ta có thể
tạm kết luận quá trình hình thành giới của người phật tử tại gia đến
khi hoàn chỉnh ở vào thời điểm giáo đoàn hưng thịnh hàng ngũ cư sĩ đông
đảo đã có nhu cầu tu học cao ; tức là thời gian từ năm thứ 12 cho đến
thứ 15 sau ngày thành đạo. Hai vị cư sĩ nổi bật là Cấp Cô Độc và
Visàkhà được xem như là khởi nguyên giới luật của người phật tử tại
gia. Nội dung của các giới điều ấy rất cụ thể, mang tính tích cực
và phù
hợp với đời sống con người
xã hội và lý tưởng giải thoát .
- Giới của người xuất gia
:
Như chúng ta đã biết, buổi ban sơ
của giáo đoàn chưa thiết lập giới. Chúng Tỳ kheo dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của Đức Phật rất thanh tịnh. Theo luật tạng, thời gian này
kéo dài 12 năm. Tuy nhiên, khoảng năm thứ 6 trở đi những huấn thị của
Đức Phật về những điều nên làm thuộc về phép xả giao, sự khiêm tốn,
đối xử với các thầy giáo thọ phải săn sóc và lễ độ … đã được
hình thành .
Đối với người xuất gia, giới
nhỏ nhất là sa di giới gồm có 10 giới. Người được coi là vị sa di đầu
tiên của giáo hội là La Hầu La, Ngài theo Phật từ lúc Đức Phật về
thăm hoàng cung lần đầu tiên kể từ khi bỏ thành ra đi, khoảng năm 526
BC. Bấy giờ, La Hầu La đã được 9 tuổi. Đức Phật giao La Hầu La cho Tôn
giả Xá Lợi Phất dạy dỗ. Tôn giả Xá Lợi Phất chỉ hướng dẫn La Hầu
La những đức hạnh căn bản của người xuất gia và phương pháp luyện
tâm đơn giản, tuân thủ lý tưởng tu tập bản thân như một vị tỳ kheo
; chưa có gì khác biệt chỉ ở chổ tuổi tác, chưa đủ 20 tuổi thì chưa
thành Tỳ kheo được .
Mười giới sa di chưa hình thành
vào thời kỳ này, lúc khoảng 15 tuổi, La Hầu La vi phạm lỗi nói dối, Đức
Phật đích thân dạy La Hầu La phương pháp kiểm soát, kiềm chế thân khẩu
ý ( Xem kinh Giáo Giới La Hầu La, Trung Bộ Kinh II" ; không thấy Đức Phật
đề cập đến lỗi nói dối như là đã vi phạm giới thứ tư của người
sa di. Ngay cả giới không được uống rượu cho đến 520 BC mới được
quy định, tức năm thứ 8 sau ngày thành đạo .
Khi ấy, Đức Phật đến xứ
Kosambi, hành vi củc các Tỳ kheo ở đây thường bị chỉ trích . Nổi bật
là tỳ kheo Sagata, sau khi uống rượu say nằm trước cổng thành Kosambi,
các Tỳ kheo khác phải khiêng về, Nhân đó, Đức Phật ban hành luật cấm
Tăng chúng uống rượu và ra điều luật nếu sa di uống rượu sẽ bị bát
bỏ quyền thọ cụ túc giới ( sđd T.28) .
Aùp lực hình thành giới luật
ngày càng mạnh, vì Tăng chúng ngày mỗi đông, những thành phần phức tạp
xen lẫn vào Tăng đoàn nên phải bổ sung những điều giới phù hợp bảo
đảm sự thanh tịnh của giáo đoàn. Những diều giới của người xuất
gia được hình thành sớm hơn của người tại gia, ban đầu gồm 10 giới
( Sau gọi là giới sa di ) :
- Không sát sinh hại mạng .
- Không lấy của không cho .
- Không dâm dục .
- Không nói dối .
- Không uống rượu .
- Không thọ thực sau giờ ngọ .
- Không tham dự các buổi ca vũ nhạc kịch .
- Không dùng trành hoa hương liệu, son phấn vàng ngọc
trang sức .
- Không dùng sàng toạ cao sang rộng lớn .
- Không nhận tiền , vàng, bạc …
ười giới trên là giới của người
xuất gia, sa di hay tỳ kheo cũng phải giữ như vậy ; mục đích là giữ sự
thanh tịnh của Tăng đoàn, tránh xa các hành vi phù phiếm thế tục để dễ
dàng tu tập chánh niệm. Giới bổn quy định rõ 10 giới trên là của sa
di, có lẽ từ năm thứ 12 khi mà giới luật Tỳ kheo được thành lập .
Quá trình hình thành giới Tỳ kheo
trải qua thời gian khá dài. Đức Phật không chủ trương thiết lập hệ
thống giới luật để kiềm chế chúng Tăng, do tình hình thực tế và thuận
theo nhu cầu của Tăng mà thiết lập giới. Khi một Tỳ kheo phạm vào một
bất thiện pháp nào, Đức Phật họp tăng và chế giới ấy. Sự tình chế
giới có lẽ vào năm thứ 5 kéo dài đến cuối đời Ngài. Luật tạng thực
sự được thành lập phải là thời kỳ kết tập thứ nhất sau khi Phật
diệt độ 3 tháng. Luật tăng Kỳ ghi lại sự kiện Tôn giả Xá Lợi Phất
thấy sự cần thiết phải có khung giới luật hoàn chỉnh, nên yêu cầu Đức
Phật chế giới đầy đủ. Đức Phật từ chối, ngài dạy :" này Xá
Lợi Phất, trong chúng của ta chưa từng có pháp hữu lậu. Trong chúng này
của ta, người nhỏ nhất cũng đắc quả Tu Đà Hoàn. Các Đức Phật Như
Lai không vì chưa có pháp hữu lậu mà kết giới cho các đệ tử" . Vậy
cho thấy, giới luật của Đức Phật khôngmang tính cưỡng chế .
rường hợp chế giới Tỳ kheo,
theo luật tăng kỳ thì giới đầu tiên là giới bất dâm, được thiết lập
vào năm thứ 5 sau ngày thành đến năm thứ 12 thì giới tỳ kheo đã lên đến
120 điều. Luật chép :" Đức Thế Tôn ở thành Tỳ Xá Ly, sau khi thành
đạo được 5 năm, nữa tháng thứ 5 của mùa đông, ngày 12 sau khi thọ
trai xong bóng mặt trời ngã về hướng tây một người rưỡi, Đức Phật
chế giới này cho con trai của một trương giả Da xá ca lan Đà" . Giới
thứ hai là giới trộm cắp, Phật chế ở thành vương xá vào năm thứ sáu,
chế cho người thợ gốm tên là Đạt Ni Ca. Điều thứ ba là giới sát
sinh, Đức Thế Tôn ở thành Tỳ Xá Ly vào năm thứ sáu, nhân các Tỳ kheo
tu bất tịnh quán, nhàm chán xác thân nên nhờ Lộc Trượng giết, Lộc
Trượng ( Migalandika ) là một tỳ kheo, trước kia là ngoại đạo trà trộn
vào chúng Tỳ kheo, có biện tài chặt đứt đầu một cách nhanh chóng những
người muốn tự sát, bấy giờ ngài liền chế giới này. Giới thứ tư là
Đại Vọng Ngữ, Đức Thế Tôn ở tại Xá Vệ, năm thứ sáu, nhiều Tỳ
kheo đi vàolàng xưng là A La Hán. Như vậy, các trọng giới của Tỳ kheo đã
được chế trong vòng 2 năm. Đó là theo quan điểm của luật Tăng Kỳ. Vấn
đề lịch sử về quá trình hình thành giới luật rất phức tạp, khó mà
chính xác được .
Luật tạng gồm các bộ luật ghi
chép các giới điều ngăn cấm và phương cách xử lý khi có ai vi phạm giới
tướng của Tỳ kheo giới có 250 điều, Tỳ kheo ni có 348 điều. Sau khi Đức
Phật diệt độ, lần kết tập thứ nhất Tôn giả Ưu Ba Ly đã đọc tụng
80 lần mới hoàn thành, nên gọi là :" Bát Thập Tụng Luật". Sau
này thời kỳ phân phái luật tạng chia ra nhiều bộ nữa. Luật tạng được
hình thành không theo hệ thống mà dựa theo các sự kiện thực tế. Ngài
Ưu Ba Ly sắp xếp theo mức độ nặng nhẹ tuần tự 8 phần như sau
- Baladi ( Paràjika ) có 4 tội : Hành dâm, đạo tặc,
sát nhân và đại vọng ngữ. Gọi là Baladi nghiã là thất bại, sẽ bị tẩn
xuất ra khỏi giáo hội ( Ni có 8 tội ) .
- Tăng già bà thi sa ( Sanghàdisesa ) : nghiã là yêu cầu
hội họp tănh chúng . Giới này Tăng có 13, Ni có 17 . Vị nào phạm các giới
này, người có tội phải thú nhận trước cuộc họp tăng chúng .
- Bất định ( Aniyatà ) : Những sự vi phạm giới
này là trường hợp cần phải diều tra để quyết định xem chúng thuộc
một hay hai. Cách xử phạt sẽ khác nhau tuỳ theo trường hợp. Có 2 giới
bất địng cho Tỳ kheo .
- Ni tát kỳ ba dật đề ( Nissaggaya- Pàcittiya ) :
Nghĩa là :" Xả đoạ" người phạm phải đem tài vật ấy xả cho
tăng rồi đến trước Tăng sám hối. Có 30 giới cho tăng và Ni .
- Ba dật đề ( pàcittiya ) nghĩa là cần phải chuộc
tội . Đây là giới luật nếu vi phạm là không thanh tịnh cần phải chuộc
tội bằng cách thú nhận trước chúng Tăng hay trước vị Tỳ kheo. Có 90
giới cho Tỳ kheo và 166 giới cho tỳ kheo ni .
- Ba la đề xá ni ( Pàtidesaniya ) nghĩa là cần phải
thú nhận sám hối trước một vị tăng . Có 4 giới cho Tăng và 8 giới cho
Ni .
- Pháp chúng học ( Sekhiya ) là những nguyên tắc xử
thế , những phép cư xử lịch sử của Tăng ni về y phục , thái độ lúc
đi khất thực , vệ sinh cá nhân . Không có hình phạt chính thức nào dành
cho vi phạm .Có 100 pháp cho Tăng và Ni .
- Pháp diệt tránh ( Adhikarama ) nghĩa là ổn định
thanh chấp , là các giới lu\iên hệ đến phương cách ổn định các mối
tranh chấp và loại trừ các sự sai biệt về ý kiến . Có 7 phương pháp (
tham khảo Đức Phật lịch sử – VNCPPHVN ấn hành).
Luật bát Thập Tụng được truyền
trì nghiêm cẩn qua 5 Tôn giả : Ca Diếp (Mahakassapa ), Anan ( Ananda ), Mạc Diền
Địa ( Mad- hyàntika ), Thương Na Hoà Tu ( Sànavàsa ), Ưu Ba Cúc Đa ( Upagupta
), Tạng luật vãn không có gì thay đổi . Nhưng Ưu Ba Cúc Đa có 5 đệ tử
, mỗi người đều có dị kiến về luật mà chia thành 5 bộ . Về sau kiến
giải về luật tạng còn phong phú hơn . Nhưng nhìn chung , nội dung của giới
điều mà Đức Phật đã dạy từ thời nguyên thuỷ vẫn nguyên vẹn , những
dị biệt chỉ là tiểu tiết .
- CHƯƠNG II
- GIỚI LUẬT- CƠ SỞ CỦA ĐẠO
ĐỨC
I. KHÁI NIỆM VỀ
ĐẠO ĐỨC
" Đạo đức là một trong
những hình thài ý thức xã hội , một chế định xã hội thực hiện chức
năng điều chỉnh hành vi của con người tronh mọi lãnh vực của đời sống
xã hội" ( Từ điển triết học ) . Vậy, đạo đức là vấn đề liên
hệ đến giá trị tốt xấu ,thiện ác của đời sống con người . Dựa vào
các quan niệm , các nguyên tắc đạo đức , con người có thể điều chỉnh
hành vi của mình phù hợp với đạo lý xã hội . Điều đó được biểu
hiện qua những hình thức khác nhau như lương tâm , trách nhiệm , bổn phận
…
Đạo đức được hình thành tự
phát bởi nhu cầu và lợi ích xã hội được mọi người chấp nhận . Đạo
đức khác với pháp luật ở chổ người có thực hiện đạo đức được
mọi người xung quanh kiểm định là một con người có thực hiện đạo
đức không gắn liền với một quyền hạn thực sự nào .
Đạo đức có đặt tính thực tiển
, gắn liền với sinh hoạt của con người , đặt ra những nguyên tắc ứng
xử , những quan niệm về các mối quan hệ xã hội như đối với bản thân
, gia đình , dòng họ, xã hội và thiên nhiên . Vì vậy , tính thiết yếu của
đạo đức khá mạnh mẽ ; nó tác động thuận hay nghịch vào quá trình
xây dựng hạnh phúc và phát triển của xã hội . Giải quyết vấn đề đạo
đức , con người thường dựa vào phong tục , tập quán , tôn giáo triết
học … để chọn cho mình một lối sống , một cách ứng xử tốt đẹp
nhất .
II. Y' THỨC ĐẠO
ĐỨC
Y' thức đạo đức chính là tiến
nói lương tri của con người, là những hoạt động tâm lý liên hệ dến
giá trị tốt , xấu , nên hay không nên làm của ngôn ngữ hành vi và cả tư
duy . Biểu hiện của ý thức đạo đức gồm có 3 lãnh vực .
- Lãnh vực nhận thức
:
Khả năng tri thức nhận biết những
giá trị cao thượng của đời sống như nhận thức về chân lý, biết
cái đúng cái sai … nó giúp con người thẩm định giá trị và chọn lựa
một hành ộng hợp đạo lý .
2. Lãnh vực tình cảm :
Y' thức đạo đức được biểu lộ
qua tình cảm của con người . Như khi ta làm một điều thiện , trong lònh
vui vẻ , thanh thản ; khi làm một điều xấu ác , cảm thấy lòng xấu hổ
, nặng nề , tâm lý tàm quý , ân hận , sợ hãi tội lỗi … hoặc tỏ ra
không hài lòng , không kính trọng một người vì hành vi của họ và ngược
lại . Đó là biểu hiện tình cảm của đạo đức .
3. Lãnh vực hành vi :
Một biểu hiện khác của ý thức
đạo đức là hành vi . Hành động thể hiện ý chí đoạn trừ điều ác
thực hành các điều thiện . Khi ý thức đạo đức mạnh mẽ thì hành vi
được hướng dẫn để đi đúng hướng .
Tóm lại , ý thức đạo đức là sự
nhận biết một tâm niệm , một quyết định , một hành vi là tốt hay xấu
để chọn lựa thái độ phù hợp với giá trị đạo đức .
- III. CÁC QUAN NIỆM ĐẠO ĐỨC
QUA CÁC TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC
ĐÔNG TÂY
1. Nho giáo : Nho giáo do Khổng
Tử sáng lập . Đạo đức luân lý Nho giáo là thuyết Trung dung , hoạt động
của con người tuỳ thuận theo Thiên mệnh hay Thiên lý , có thể hiểu là
những quy luật khách quan của vũ trụ nhân sinh . Từ chổ hiểu được Thiên
mệnh , người nquân tử xây dựng lòng nhân , thương người và hoà hợp với
trời đất . Từ nhân , các đức tính nghiã, lễ, trí, tín … được thiết
lập . Chữ nhân của Khổng Tử rất bao quát , có thể hiểu là hiếu để
hay lòng nhân ái . Trong luận ngữ , Khổng Tử nói :" Người có đức
nhân là bản thân mình muốn đứng vững trong cuộc sống , bản thân mình
muốn thành đạt thì cũng nên giúp người khác thành đạt . Mọi việc đều
có thể từ mình mà nghĩ đến nghĩ người khác có thể nói đó là biện
pháp thực hiện đạo nhân".
Muốn đạt được nhân từ thì phải
tu nhân , muốn tu thân thì phải chánh tâm . Muốn chánh tâm thì phải nhờ
vào Lễ và Nhạc . Nhờ lễ mà định chính được lòng người giữ đạo
Trung Dung . Lễ ký viết :" Lễ là định thân sơ , quyết sự hiềm nghi
, phân biệt cái giống nhau khác nhau , làm rõ cái phải trái". Nhạc có
thể cảm hoá được lòng người , lòng người xúc động mà thành nhạc ,
lòng vui thì nhạc vui , lòng buồn thì nhạc buồn . Ngược lại, nhạc vui
thì lòng vui , nhạc buồn thì lòng buồn . Nên tác dụng của nhạc là cảm
hoá được lòng người . Khổng Tử nói :" Xét cho cùng thì cái lẽ về
nhạc là làm lòmg người trở nên từ ái , thành tín , giản dị , chánh trực
, tự nhiên … ( Nhạc ký ) Lễ và Nhạc có mục đích chung là cùng sửa đổi
tâm tính con người cho được trung chính , bồi dưỡng tình cảm con người
cho được nhân hậu . Nhạc tác động bên trong , Lễ tác động bên ngoài
; nhờ vậy mà có sự hoà thuận".
2. Lão giáo : Lão giáo do
Lão Tử sáng lập . Tư tưởng của Lão Tử nằm trong tác phẩm Đạo Đức
Kinh . Vạn vật sinh ra và biến đổi nhờ có .
"Đạo" – Con người sống thuận theo tính
tự nhiên là hợp với đạo , nghiã là sống vô dục mới nhận được chổ
huyền diệu của đạo . Đạo đức kinh viết :" Thường vô dục dĩ
quan kỳ diệu , thường hữu dục dĩ quan kỳ hiếu" ( nghiã là thường
sống không tư dục mới nhân được chổ huyền diệu của đạo , thường
sống với tư dục nên chỉ thấy chổ chia lìa của đạo ). Sống không tư
dục cũng có nghiã là sống tri túc , tri chỉ , như nói :
- "Thậm ái tức thậm phí
- Đa tàng tất hậu vong
- Tri túc bất nhục
- Tri chỉ bất đãi
- Khả dĩ trường cửu
- ( Thương nhiềi thì tổn nhiều
- Chứa nhiều tất mất nhiều )
- Biết đỉ tức không nhục
- Biết dừng tức không nguy
- Như vậy mới tồn tại lâu dài"
Trên cơ sở ấy , cách xử sự của
ngưòi biết đạo là dùng :" Vô vi" mà xử sự , dùng vô ngôn mà dạy
dỗ ( Xử vô vi chi sự hành vô ngôn chi giáo – Đạo đức kinh ) biểu hiện
hành động cụ thể trong cuộc sống là :" Hậu kỳ thân nhi thân tiên
, ngoại kỳ thân nhi thân tồn"
( Để thân ra sau mà thân ở trước
để thân ra ngoài mà thân đặng còn ).
Tóm lại, đạo lý của Lão Tử nằm
ở chổ vô dục vô tranh , như Đạo Đức kinh viết :" Phù vi vô tranh cố
vô vưu", ôi vì không tranh nên không sao lầm lỗi !
3.Cơ Đốc Giáo : Cơ Đốc
Giáo được khai sáng bởi Jesus . Đạo đức cơ đốc giáo , căn bản là
lòng bác ái ,đầy tính nhân đạo . Jesus đặc biệt quan tâm đến tầng lớp
nghèo khổ , ghét kẻ tâm địa giả dối và cậy quyền thế của giới thượng
lưu . Nguyên tắc :" mến chúa yêu người" là nền tảng của đạo
đức cơ đốc . Người có lòng yêu chúa mà không yêu yêu người là kẻ
gian dối . Thánh Jean nói một câu rất hay là :" Cái thấy được mà
còn chưa yêu thì làm sao yêu được cái mình không thấy". Theo Jesus
thì thượng đế là cha của nhân loại ; vì vậy cha yêu thương con là
thiên tính , nên con phải tin tưởng vào cha của mình . Jesus rao giảng những
nguyên tắc đạo đức như đừng ghét , đừng giận , đừng dâm loạn , đừng
làm chứng dối , đừng tham của cải người khác , phải nhu hoà yêu thương
, khiêm tốn , thành thật , và bao dung tha thứ … Những quy phạm đạo đức
của Cơ Đốc Giáo mang tính phổ quát . Tuy nhiên, sự giới hạn của đạo
đức của con người khó vượt qua là tôị tổ tông . Con người muốn đạt
được đạo đức cao thượng phải có niềm tin tuyệt đối vào Thượng
đế và được sự mặc khải của thượng đế , chỉ Thượng đế mới có
đạo đức utyệt đối .Phẩm hạnh đạo đức cao nhất của con người là
niền tin và niềm hy vọng vô điều kiện và sự ban ơn của chúa trời .
4. Phật giáo : Đạo đức
Phật giáo không chỉ là những nguyên tắc đạo đức đáp ứng nhu cầu
xây dựng hạnh phúc ổn định cho cá nhân và thượng siêu việt và giải
thoát ;hay nói cách khác là đưa con người ta ra khỏi con ngươi để vươn
tới lý tưởng giải thoát . Nguyên tắc đạo đức Phật giáo được gói
gọn trong Bát Chánh Đạo ,là Đạo đế trong Tứ Diệu Đế . Bát Chánh Đạo
gồm có : Chánh kiến ( hiểu biết chính xác ), Chánh tư duy ( suy nghĩ đúng
đắn ), Chánh ngữ ( ngôn ngữ đúng đắn ), Chánh nghiệp ( hành vi đúng đắn
), Chánh mạng ( phương tiện mưu sinh chân chính ), Chánh tinh tấn ( nổ lực
đúng đắn ), Chánh định ( tập trung tâm đúng đắn ). Tám chi thánh đạo
này có tác dụng thanh lọc ngôn ngữ , hành vi và tâm lý của con người .
Theo Tứ Diệu Đế , con người đau khổ vì con tham lam sân hận và si mê ,
từ đó tạo ra ngôn ngữ và hành vi bất thiện , nghiã là tạo ác nghiệp
để rồi gặt hái hậu quả khổ đau . Mục tiêu của đạo Phật là chấm
dứt khổ đau , đem đến an lạc và giải thoát . Khổ đau theo đạo Phật
có 2 lĩnh vực :
Một là khổ đau thông thường như
già , bệnh , chết , thất bại , khốn cùng … nghiã là những đau khổ thuộc
về tâm lý , sinh lý , hoàn cảnh vật lý .
Hai là nổi đau khổ do luân hồi
sinh tử trong ba cõi .
Giải quyết đau khổ thông tục ,
Đức Phật dạy :" Đừng làm các điều ác , hãy làm các việc
lành". ( Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành ). Muốn thực hiện
điều này cần phải giáo dục về mặt nhận thức , tư duy , nhận rõ điều
ác , điều thiện ( qua Chánh kiến , Chánh tư duy ) cần phải giữ gìn ngôn
ngữ như không nói dối , không nói đâm thọc , không nói độc ác , không
nói lời phù phiếm vô ích ; Cần phải giữ gìn hành vi như không được
giết hại , không được trộm cắp , không được tà dâm ; giữ gìn phương
tiện mưu sinh chân chính như không lường gạt trong nghề nghiệp , không
hàng nghề độc ác như buôn bán vũ khí , chất độc rượu , buôn người
, đồ tể … Những giới điều này được đúc kết thành 5 giới của người
phật tử : Không được sát sinh , không được trộm cắp , không được tà
dâm , không được nói dối , không được uống rượu , ma túy .
Giải quyết nổi khổ vì bị luân
hồi sinh tử , đạo phật cho rằng phải thanh lọc tâm ý chấp ngã thành
vô ngã , đoạn trừ hoàn toàn tham , sân , si , bằng ba Thánh đạo : Chánh
tinh tấn , Chánh niệm , Chánh định để đưa đến Chánh trí , Chánh giải
thoát .
Đạo đức Phật giáo mang tính phổ
quát , là cơ sở đạo đức cho xã hội . Hành vi đạo đức Phật giáo
mang tính tự giác , không ép buộc bởi Thượng đế hay một áp lực nào ,
chỉ vì nhu cầu hạnh phúc và an ổn cho đời sống cá nhân và cộng đồng
một cách lâu dài . Đó là những nguyên tắc đạo đức cho bất cứ người
nào , thời đại hay xã hội nào . Đây là tính ưu việt của đạo đức
Phật giáo .
5. Socrate ( 649 – 399 BC ) :
Là một nhà hiền triết rất nổi tiếng thời Hy Lạc cổ đại. Đối với
vấn đề đạo đức , ông cho rằng :" Một nền đạo đức thực tiển
không thể căn cứ vào một giáo lý mơ hồ , ta có thể tạo dựng một nền
luân lý hoàn toàn không lệ thuộc thần học , hoàn toàn thích hợp với ngườicó
tôn giáo cũng như không có tôn giáo thì xã hội có thể được ổn định
mà không cần thần học" ( Will Durant – Câu chuyện triết
học ) . Ông cho rằng tinh hoa của một nền luân lý chính là nhận thức
sáng suốt về quyền lợi chính đáng , thấu triệt được luật nhân quả
, kiểm soát được lòng ham muốn … mọi tội lỗi đều do nhu si mà ra .
Ông phân biệt hai hạng người : Một là hạng người vô minh ; Hai là hạng
người trí tuệ . Người có trí tuệ cũng bị cám dỗ bởi tham sân si nhưng
họ biết dùng trí tuệ để chế ngự sự cám dỗ và không rơi vào vòng tội
lỗi .
Theo Socrate , bản tính con người là
thiện . Khi người ta biết điều thiện thì người ta sẽ làm điều thiện
. Cho nên , sự phân biệt thiện ác rất quan trọng trong đời sống của
con người, người có trí tuệ chính là người biết rõ thiện ác .
6. Platon ( 427- 347 BC ) :
là học trò của Socrate . Vấn đề đạo đức ông cho rằng đó là sự
công bằng hay là sự thăng bằng :" Mỗi cá nhân là một sự phối hợp
các ước muốn , các tình cảm , các suy nghĩ . Nếu các yếu tố được
điều hoà thì cá nhân sẽ được tồn tại thành công nếu các yếu tố
ấy không làm đúng phận sự của mình , nếu để tình cảm hướng dẫn hành
động con người sẽ mất thăng bằng , thăng bằng là sự ổn cố của
tâm hồn . Tất cả những sự xấu xa trên đời đều do sự thiếu điều
hoà , nghĩa là thiếu sự thăng bằng giữa con người và vũ trụ , giữa
con người với con người , giữa con người với xã hội". Ông nhấn mạnh
sự thăng bằng hay công bằng là một sự quan hệ giữa cá nhân , tuỳ thuộc
vào tổ chức xã hội .
Tuy nhiên , ông công nhận sự đau
khổ của con người xuất phát từ trong tâm hồn của con người . Ông cho
rằng con người không được hạnh phúc vì :" Do lòng tham và sự xa hoa
.Con người không chịu bằng lòng với một đời sống giản dị , họ luôn
muốn chiếm đoạt , muốn ao ước , muốn ganh đua , muốn ghen ghét . Họ bất
mãn với những gì họ có và chạt theo những gì họ chưa có , họ chỉ muốn
những gì thuộc về kẻ khác ( Câu chuyện Triết học ) .Ông cũng chủ
trương như thầy của ông là hành vi con người có giá trị khi tham , sân ,
si được hướng dẫn chuyển hoá bởi trí tuệ . Ông chủ trương cải hoá
lòng người bằng âm nhạc
Điều này tương tự như chủ
trương của Khổng Tử ở Trung Hoa . Ông nói :" Cần phải dạy cho dân
chúng biết âm nhạc . Nhờ âm nhạc mà tâm hồn con người ý thức được
sự điều hoà và nhịp điệu , do đó mà ý thức được công lý".
7. Aristote ( 384-322 ) : Ông
là học trò xuất sắc của Platon . Ông chủ trương thuyết Trung Dung dạy
con người hành động hợp lý giữa các thái cực . Cũng như các bậc thầy
của ông vấn đề đạo đức vẫn đặt trên nền tảng lý trí :" Đạo
đức tuỳ thuộc vào sự suy luận chính xác , sự kiểm soát tinh thần , sự
quân bình của lòng ham muốn . Thói quen suy luận đưa người ta đến chỗ
thánh thiện . Một người hành động chính đáng không phải vì lý do họ
là một người có đạo đức nhưng ngược lại vì họ có đạo đức do sự
huấn luyện suy tư , công phu mà họ hành động chính đáng". ( sđd )
Điều đó có nghĩa là sự thánh thiện đạo đức của một con người không
phải tự nó có mà phải do tập luyện hành trì lâu ngày trở thành thói
quen . Đặt biệt , Aristote hướng đạo đức đến cứu cánh của ó là hạnh
phúc cho đời sống của con người . Ông nói :" Mục đích trực tiếp
của cuộc đời không phải cái hay cái đẹp mà chíng là hạnh phúc".
Định nghĩa về hạnh phúc , ông nói :" Hạnh phúc là sự phát triển
hoàn toàn đầy đủ các đức tính của con người . Đức tính nổi bậc
nhất của loài người là khả năng suy luận , chính nhờ đức tính này
mà loài người đứng trên tất cả các loài khác . Chính vì vậy mà khả
năng suy luận một khi được phát triển hoàn toàn đầy đủ sẽ đem đến
hạnh phúc hoàn toàn cho con người".
Tóm lại , trên đây chỉ nêu tiêu
biểu và sơ lược về quan niệm đạo đức của một số tôn giáo , Triết
học Đông Tây . Nếu cần thiết có thể tham khảo rộng
hơn và đủ hơn qua các tác phẩm
chuyên môn . Nhìn chung quan niệm về đạo đức là :
- Con người phải có lòng từ bi nhân ái bao , bao
dung .
- Phải có trí tuệ biết rõ thiện ác
- Phải bớt dục vọng , biết tri túc khiêm tốn .
4. Đạo đức là những đức tính
mang tác dụng chuyển hoá con người bản năng thành con người tự chủ ,
con người đau khổ thành con người hạnh phúc .
IV. MỤC TIÊU CỦA
ĐẠO ĐỨC
Các tiêu chuẩn đạo đức và các
hành vi đạo đức nhằm mục đích đem đến cho con người và xã hội một
cuộc sống hạnh phúc . Banzeladze , một tư tưởng gia phương tây viết
:" Vân đề lý tưởng tối cao và ý nghĩa của cuộc sống thực chất
là vấn đề hạnh phúc . Con người là giá trị cao nhất , là cơ sở , là
ngọn nguồn của mọi giá trị , mọi thứ đều là phương tiện cho con
người và cuộc sống của con người". ( Đạo Đức Học NXB Hà Nội
)
Những quan điểm và hành vi đạo
đức nếu không đáp ứng được mục tiêu hạnh phúc cho con người thì
không thể coi là đạo đức được ; không thể chấp nhận các tiêu chuẩn
đạo đức mà đưa đến sự áp bức , hảm hại , bất công và đau khổ .
Như vậy , mục tiêu của đạo đức là hạnh phúc . Hạnh phúc là gì ? Một
vấn đề khá phức tạp .Có người quan niệm rằng hạnh phúc đến từ vật
chất như tài sản , sắc đẹp , danh vọng hoặc đến từ sức khoẻ của
cơ thể ; đến từ tình yêu ( một mái nhà tranh hai quả tim vàng chẳng hạn
) hoặc đến từ cảm thụ thẩm mỹ nghệ thuật hoặc sự ân sủng của
Thượng đế …
Mặc dù quan niệm về hạnh phúc
khác nhau nhưng có một kinh nghiệm chung về hạnh phúc , đó là một cảm
thọ có điều kiện , nghĩa là cảm giác thoải mái sung sướng vui tươi do
các điều kiện phù hợp có mặt . Những cảm giác ấy Đạo Phật gọi là
Lạc thọ , đó là một trong 3 cảm giác : Lạc , Khổ , và Trung tính , đã
là cảm thọ thì nó vô thường . Vì vậy có những cảm thọ thoáng qua
nhanh , có những cảm thọ tồn tại lâu dài , có những cảm giác hạnh
phúc nhưng nó lại là nguyên nhân của cảm giác khổ đau , có những cảm
giác hạnh phúc là nền tảng cho những cảm giác hạnh phúc cao hơn .
Nhìn chung thì hạnh phúc đến từ
yếu tố tinh thần được nhiều người chấp nhận hơn , ít người cho rằng
hạnh phúc đến từ vật chất . Aristote , Triết gia cổ đại Hy Lạp cho rằng
:" Mặc dù tiện nghi vật chất cần thiết cho đời sống hạnh phúc nhưng
yếu tố chính là sự sáng suốt của tâm hồn . Những khoái lạc giác quan
không phải là chìa khoá của hạnh phúc . Hạnh phúc phải là sự khoái lạc
của tâm trí". ( Câu chuyện triết học ) Ông ta công nhận giá trị của
vật chất nhưng coi hạnh phúc thuộc giá trị tinh thần cao hơn , đây là
cái nhìn được nhiều triết gia chia xẻ . Banzeladze viết :" Tronh lãnh
vực khoái cảm vật chất , khoái cảm càng mạnh thì càng ngắn ngủi . Cường
độ khoái cảm tỷ lệ nghịch với độ dài thời gian của nó … trong
lãnh vực những khoái cảm về tinh thần nhân tố thời gian có một giai
trò hoàn toàn khác , thời gian tác động có lợi cho con người . Ở đây ,
không có quy luật tỷ lệ nghịch , ngược lại cường độ khoái cảm
càng cao trong lãnh vực này thì nó càng kéo dài".
( Đạo đức Phật giáo – T. Chơn
Thiện )
Đức Phật có lần so sánh hạnh
phúc của vua Bimbisara và hạnh phúc của ngài , Ngài dạy rằng hạnh phúc
mà vua Bimbisara hưởng thụ không kéo dài trong một ngày một đêm , còn hạnh
phúc mà ngài hưởng thụ một cách thuần tuý kéo dài 7 ngày 7 đêm vì đó
là hạnh phúc của tâm linh ( thiền định ) ( Kinh tiểu khổ uẩn –
Trung bộ I ). Đức Phật thường dạy đệ tử phải biết rõ bản
chất của lạc thọ ( cảm giác hạnh phúc ) sau khi biết rõ hãy an trú vào
nội lạc ( hạnh phúc tâm linh ) ( Kinh Trung Bộ )
Đề cập đến haạnh phúc của một
con người bình thường trong xã hội , Đức Phật dạy có 4 loại hạnh
phúc :
- 1.Hạnh phúc khi có được tài sản sở hữu hợp
pháp .
- 2.Hạnh phúc của sự hưởng thụ hợp lý tài sản
ấy.
- Hạnh phúc của sự không vướng mắc nợ nần của
ai .
4.Hạnh phúc của sự không có tội lỗi ( tâm hồn
trong sáng thanh thản )
- ( Kinh tăng Chi – chương 4 pháp )
Hạnh phúc thứ tư được coi là căn
bản và cao nhất , nếu hạnh phúc tinh thần này không có mặt thì 3 loại
hạnh phúc trên trở nên vô nghĩa . Một người có nhiều tội lỗi không
thể sống hạnh phúc được , ngược lại một người không có gây tạo tội
lỗi thì có thể sống hạnh phúc , nghĩa là tâm hồn thanh thản , lương tâm
trong sạch không có lo âu sợ hãi ân hận… một người như vậy phải là
một người sống có đạo đức , sống không bị chi phối , thúc bách của
tham lam , sân hận và tà kiến .
Quan niệm hạnh phúc theo Phật giáo
nó đồng nghĩa với giải thoát . Như vậy toàn bô hệ thống giáo lý Phật
giáo noi chung và hệ thống giới luật nói riêng đều là con đường đi vào
đạo đức và hạnh phúc . Sự giải thoát hay hạnh phúc của một con người
nhiều hay ít , cao hay thấp tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức của người
ấy , nghĩa là tuỳ thuộc vào sự chế ngự dục vọng nhiều hay ít , nhất
htời hay triệt để . Người phật tử xuất gia hay tại gia không phải sống
hai lối sống khác nhau mà chính là sống trên một trình giải thoát khỏi
dục vọng và đau khổ , tuỳ theo điều kiện và cấp độ tu tập mà có sự
khác nhau giữa hai đời sống xuất gia và tại gia .
V. GIỚI LUẬT
LÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC :
Mục tiêu của đạo đức là hạnh
phúc hay nói cách khác , muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo
đức . Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn
phù hợp với thực tiển của con người và hoàn cảnh xã hội mà con người
đang sống . Có những tiêu chuẩn được coi là đạo đức nhưng nó không
thực sự cần thiết và thực sự phù hợp với quy luật hạnh phúc . Có
những tiêu chuẩn đạo đức chỉ phù hợp với một giai đoạn lịch sử
nào đó .
Tóm lại nó không có tính phổ
quát , không đạt chuẩn mực đạo đức toàn diện .
Vì vậy , thiết lập nền tảng đạo
đức phải mang tính phổ quát , phù hợp với chân lý và thực tiển đời
sống con người . Đạo Phật có thể cung cấp một hệ thống đạo đức
như vậy .
Một người muốn trở thành một
phật tử , tự nguyện đặt mình vào kỷ luật tâm linh mà Đức Phật đã
thiết lập , họ phải tuân thủ 5 giới , 10 giới hay nhiều giới hơn nữa
như 250 giới của Tỳ kheo , 48 giơi của Bồ tát … Những giới luật ấy
là những nguyên tắc hành trì , để sống có phẩm chất hơn , có tác dụng
hướng thượng và hướng thiện tâm lý và hành vi của cin người chứ không
phải những nguyên tắc bất di bất dịch hoặc cứng nhắc giáo điều . Giới
luật ấy giúp con người nhận ra được một cách sâu sắc hơn về bản
chất của cuộc sống và rút ra được hệ quả đạo đức , nuôi dưỡng
những niền tin vào cuộc sống hiện tại và hướng đi của tương lai .
Nếu một người hành trì các
nguyên tắc đạo đức hay những giới luật này mà họ không cảm thấy một
sự bình an , thanh thản nào thì họ đã không hiểu và hành trì đúng .
Trong thực tế , có những phật tử tuân thủ các nguyên tắc của giới nhưng
đời sống của họ vẫn thiếu đạo đức , mối tương hệ của họ với
tha nhân bất ổn , các mối quan hệ khác bị khủng hoảng , Đức Phật dạy
đấy là rơi vào giới cấm thủ , một trong những kiết sử , những ức
chế tâm lý .Nguyên tắc hành trì mà Đức Phật thiết lập cho các đệ tử
khép mìng vào đó để làm đình chỉ dục vọng bản năng có thể nói đó
là những nguyên tắc khách quan và phổ quát . Đó là 5 giới của người
phật tử :
- Không giết hại .
- Không trộm cắp .
- Không quan hệ tình dục phi pháp .
- Không dối gạt hại người .
- Không rượu chè say sưa .
Một nhà trí thức phương tây nhận
định :" Năm giới này cho thấy 5 hướng chính mà người phật tử tự
mình kiểm soát để ( hành trì ) tri hành . Đó là giới thứ nhất răn người
phật tử kiềm chế nóng giận , giới thứ hai kiềm chế tham đắm vật chất
, giới thứ ba kiềm chế nhục dục , giới thứ tư kiềm chế sự khiếp
nhược và ác ý ( nguyên nhân không chân thật ) và giới thứ năm kiềm chế
lòng ham muốn các sự kích thích nhơ bẩn’.( Edmond- Homs – Tín điều của
Đức Phật ) . Dù phật tử hay không là phật tử , các nguyên tắc đạo
đức này cần phải được thực hành , dù trong điều kiện thời gian hay
không gian nào , nếu không muốn có hậu quả xấu . Đức Phật xác định
rằng một người nếu có hành vi sát sinh , lấy của không cho , tà hạnh
trong các dục , nói láo và đắm say rượu men rượu nấu thì sẽ có một
cuộc sống sợ hãi và hận thù đồng thời cõi ác đau khổ đang chờ đợi
họ ; ngược lại một người ( phật tử ) từ bỏ sát sinh … thì cuộc sống
không có sợ hãi , hận thù và cõi thiện đang chờ đợi họ . giá trị của
một con người phải được đánh giá qua tài sản , thân tướng , dòng họ
, địa vị … mà được đánh giá qua 5 nguyên tắc đạo đức trên . Đức
Phật dạy thêm rằng :" Một người mà hành trì của họ được bảo
vệ bởi 5 nguyên tắc ( giới ) trên thì người ấy có thể thành tựu một
cách nhanh chóng bốn tăng thượng tâm hiện tại lạc trú". ( Tăng
Chi III )
i sâu hơn các nguyên tắc căn bản
trên , Đức Phật thiết lập 10 giới ( 10 điều thiện ) nhằm nâng cao hơn
nữa hành vi và tâm lý đạo đức của con người 10 điều ấy được thiết
lập trên cơ sở hành vi , ngôn ngữ , tâm lý .
- Hành vi gồm có : Không sát sinh
- Không trộm cắp
- Không quan hệ tình dục phi pháp
-
- Ngôn ngữ gồm có : Không nói dối .
- Không nói hai lưỡi .
- Không nói lời độc ác .
- Không nói lời phù phiếm ba hoa .
-
- Tâm ý gồm có : Không tham lam .
- Không sân hận .
- Không si mê tà kiến .
10 giới điều này thực sự bước
vào lộ trình của giải thoát , đây là giới căn bản cho cả tại gia và
xuất gia , khác với 5 giới là bước đầu chỉ quy định trong phạm vi , hành
vi và ngôn ngữ là những biểu hiện đạo đức cụ thể gây hậu trực tiếp
, tuy vậy vẫn chưa thể hiện được nguồn gốc , động cơ bên trong có
người có thể giữ gìn vẻ bề ngoài như là có đạo đức để lừa gạt
người khác nhưng họ vẫn không thể là người tốt thực sự , vì động
cơ bên trong không lành mạnh , chỉ tốt bề ngoài chưa phải là thiện thật
sự . luật pháp của xã hội cũng chỉ giới hạn ở mức độ hành vi và
ngôn ngữ mà thôi . Đức Phật dạy rằng :"một người thực hành 10
điều bất thiện thì cuộc sống của họ là phi đạo đức đồng thời
không đạt được mục tiêu hạnh phúc"." Này các Tỳ kheo , sát
sinh , lấy của không cho , tà hạnh trong các dục , nói láo , nói hai lưỡi
, nói lời độc ác , nói lời phù phiếm , tham lam , sân hận và tà kiến ,
đây gọi là phi pháp và phi mục đích" (Kinh tăng Chi III ). Ngài
khuyên mọi người nên sống đúng theó0 điều thiện , như vậy phù hợp với
nguyên tắc đạo đức và quy luật của hạnh phúc .
Trong 10 điều thiện phân làm 3
lãnh vực : Thân , Khẩu , YÙ – Theo Phật giáo lãnh vực tâm lý rất quan
trọng , những hành vi của thân khẩu ý đều có động cơ từ ý thức –
Những hành vi bất thiện chỉ là những biểu hiện của động lực bên
trong : Tham , sân hay tà kiến . Vì vậy , đạo phật thường coi trọng tu tâm
hơn tu tướng , nếu lòng tham không được nhân diện và tu tập để chế
ngự chúng thì tội ác sẽ phát sinh , thiện pháp sẽ tổn giảm . Đức Phật
dạy :"này các tỳ kheo , do nhân tham , sân , si mà có sát sinh , lấy của
không cho tà hạnh trong các dục , nói láo , nói hai lưỡi , nói lời độc
ác , nói lời phù phiếm … Như vậy , tham là nhân duyên cho nghiệp sinh khởi
, sân là nhân duyên cho nghiệp sinh khởi , si là nhân duyên cho nghiệp sinh
khởi ; ngược lại tham sân si đoạn diệt thì nghiệp đoạn diệt". (Kinh
tăng Chi III ) Sự phát triển giới điều trong các sinh hoạt của Tăng
chúng cũng chỉ khai triển sâu và rộng hơn 3 cái động lực thiện và bất
thiện bên trong tâm ý này . Tham lam là gốc nhưng tham có nhiều loại : tham
sắc , tham tài , tham danh , chấp ngã … sự mở rộng giới luật chính là
để tương ứng với nhiều sắc thái khác nhau của 3 tâm bất thiện này .
Những nguyên tắc giới luật vừa để chế ngự , đình chỉ 10 ác nghiệp
nhưng đồng thời cũng để phát triển 10 thiện nghiệp , trong luật gọi
tính chất 2 mặt này của giới : Chỉ trì và Tác trì .
Đạo phật chú trọng vào động
cơ tâm ý hay ý nghiệp điều đó không có nghiã là coi thường hành vi của
thân và khẩu và kết quả của đối tượng . Ví dụ giới sát :" Cố
ý tự tay mình làm dứt sinh mạng con người hoặc cầm dao đưa người khác
giết , hoặc khen ngợi sự chết hoặc khích lệ cho chết … Người kia vì
các điều trên mà chết thì phạm tội giết người phải bị trục xuất"
( Giới Tỳ kheo) Một giới nếu vi phạm phải có tác ý , hay cố ý
làm căn bản nhưng để thành một hành vi phi đạo đức phải có biểu hiện
thân khẩu và kết quả của đối tượng . Có trường hợp thân khẩu
hành động có hậu quả cho đối tượng nhưng không cố ý , không tác ý
thì không phạm tội hay tội rất nhẹ . Đó là lý do đạo đức Phật giáo
thường đi sâu vào động lực tâm ý của con người . Những động lực tâm
ý ấy trở thành giới luật có tác dụng phòng ngừa và làm cho con người
trở nên thánh thiện .
Đối với người xuất gia giới luật
rất nhiều và chi tiết Tỳ kheo 250 giới, Tỳ kheo ni 348 giới , Bồ tát 48
giới … nhưng cũng chỉ phát triển từ sự đoạn trừ các động lực bất
thiện của tâm ý là tham , sân , si . Nếu một người không có tham sân si
thì đạo đức đã hoàn thiện không còn giữ các giới điều trên làm gì
Vì vậy , đức tính của một Tỳ kheo được Đức Phật dạy bao gồm các
thiện tâm mà nguồn gốc là vô tham , vô sân , vô si diễn ra như sau
:"Người có tâm xấu hổ ( tàm quý ) sẽ đưa đến tâm sợ hãi các tội
lỗi , đưa đến không phóng dật , đưa đến biết khiêm cung , đưa đến
nghe lời dạy bảo , đưa đến ưa gần người hiền đưa đến có lòng tin
vào chánh pháp , đưa đến lòng vị tha , đưa đến tinh cần trong thiện pháp
, đưa đến chế ngự các dục vọng , đưa đến thiện giới được tuân
thủ , đưa đến gần gũi bậc thánh hiền , người trí tuệ , đưa đến
ưa nghe pháp , đưa đến không quan tâm chỉ trích kẻ khác , đưa đến chánh
niệm tỉnh giác , đưa đến tâm định tỉnh , đưa đến tác ý hợp chân
lý , đưa đến không lầm theo tà đạo , đưa đến tâm tỉnh bén nhạy ,
tích cực , đưa đến đoạn trừ thân kiến , giới cấm thủ và nghi ,
đưa đến đoạn trừ tham sân si để thành tựu đạo đức hoàn toàn vô
tham , vô sân , vô si". ( Kinh Tăng Chi III )
Tóm lại , đạo đức Phật giáo
được xây dựng trên cơ sở giới luật mà những giới luật ấy là những
nguyên tắc nếu được tuân thủ sẽ đem đến hiệu quả chế ngự dục vọng
bản năng , thiết lập các mối quan hệ giữa con người với con người ,
con người với thiên nhiên một cách hoà điệu ; xa hơn nữa có thể tịnh
hoá tâm thức thoát ly các chướng ngại và ức chế tâm lý để sống một
đơi hạnh phúc chân thực .
http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/024-nentanggioi.htm