- CHUYỂN HÓA TÂM
- Nguyên
tác Tây tạng: Shamar Rinpoche
- Dịch
sang tiếng Anh: Anila Rinchen Palmo
- Việt
dịch: Lục
Thạch
PHẦN
THỨ NHẤT
TRI THỨC VỤN
VẶT
I.-Tâm
ở gốc rễ của vô minh
Ai
đã tạo ra thế gian? Sự sống từ đâu mà có? Nguyên nhân của đau khổ là
gì, làm sao để diệt khổ và có hạnh phúc? Người có suy nghĩ, khác với
người an phận vô minh, đã tự hỏi như vậy từ bình minh của loài người.
Qua suốt dòng lịch sữ người ta thấy xuất hiện nhiều câu trả lời
khác nhau tiếp cận tới một mức nào đó sự thật của sự vật như Đứùc
Phật đã giảng dạy.
1.-Tư
tưởng ngoài Phật giáo
a.- Lối
tiếp cận không hữu thần
Ở
Ấn Độ thời cổ, có ba trăm sáu mươi triết thuyết khác nhau, ngoài Phật
giáo, trình bày nguyên nhân của thế gian. Trong số các học phái có phái
"Samkhya" (Số luận) phái này cho rằng thế gian (hay vũ trụ vật chất)
là một thành phần của đấng sáng tạo. Thế gian là tạo vật của một
"nguyên lý", sự phối hợp cân bằng của ba điều sung sướng, khổ
đau và trung hòa. Nguyên lý này có năm đặc tính: vĩnh cửu, độc nhất,
không phải là vật chất bất động, vô hình và có khả năng vô ngại sản
sinh những tạo vật của chính mình. Nguyên lý này là nguồn gốc của thế
gian, thế gian là sự hoạt động của nguyên lý. Vậy thế gian là một phần
của nguyên lý chứ không ở ngoài nguyên lý. Thuyết của phái Samkhya tiêu
biểu cho niềm tin thế gian là một phần của đấng sáng tạo, và không
có phân biệt với đấng sáng tạo.
Vật thụ tạo
là tự ngã hay thực thể, sống và kinh nghiệm thế gian và rất khác
nguyên lý. Chỉ có một tự ngã cho tất cả sinh vật. Tự ngã này giống
như một tấm gương hai mặt, một mặt
hướng ra ngoài, nhận hình phản chiếu của các hình thể mà nguyên lý đã
hóa hiện, tự ngã bị xao động bởi những hình thể này tưởng chúng là
thật và chịu ảnh hưởng của chúng. Những hình thể được hóa hiện
này lừa dối tự ngã và làm cho tự ngã rơi vào trạng thái rối loạn,
vô minh, với hậu quả là đau khổ. Do đó, thay vì từ bi, nguyên lý thực
sự đã làm hại tự ngã.
Vì vậy các
môn đồ của phái Samkhya được dạy quay tâm trí vào bên trong, không để
cho mình bị lôi cuốn bởi các tạo vật của nguyên lý có tính lừa dối.
Nếu làm được như vậy thì nguyên lý không thế nào lừa dối được tự ngã. Pháp tu tập chính của
phái này là một loại thiền định rất giống pháp thiền định của Phật
giáo, với kết quả tương tự: khi tâm tránh được sự thu hút của thế
giới bên ngoài, nó sẽ an tĩnh và ổn định. Trạng thái an lạc này được
coi là kết quả của sự "bối rối" của nguyên lý: không những
tâm của hành giả an tĩnh, mà còn một điều nữa là nguyên lý dược dẫn
dụ để tái nhập thế gian vào mình, do đó tự ngã thoát khỏi sự lừa dối
của nó.
Giống như
phương pháp thiền định, tất cả lối sống của các tín đồ Samkhya để
làm giảm và sau cùng là loại trừ, ảnh hưởng của nguyên lý. Nếu còn
tính tham dục là còn chịu sự chi phối của nguyên lý, vì vậy họ chú trọng
sự dứt bỏ, phương tiện độc nhất để đạt giải thoát. Hành giả
Samkhya ít ăn uống và sống đạm bạc nhất: y phục sơ sài hay không mặc
gì cả (họ thường được gọi là "những người khỏa thân") và
không có nhà ở cố định.
Có nhiều nhược
điểm trong triết lý của phái Samkhya, tín đồ phải chấp nhận giáo lý bằng
niềm tin không thôi. Còn nhiều câu hỏi không có giải đáp: "Do đâu
mà có nguyên lý này? Tại sao lại chỉ có một tự ngã hay thực thể cho tất
cả chúng sanh? Nếu chỉ có một tự ngã, tại sao khi một cá nhân được
giải thoát, thì toàn thể tự ngã tức là toàn thể chúng sanh lại không
được giải thoát cùng lúc?", và nhiều vấn đề khác. Nhưng phái
Samkhya được coi là có quan niệm hay nhất trong các phái ngoại đạo vào
thời Đức Phật, vì phái này nhận thấy rằng khi tự ngã chịu sự chi phối
của ngoại vật thì sẽ không có giải thoát, và phương tiện để giải
trừ sự lôi cuốn này là thiền định, làm giảm dần sự liên can của
tâm trí vào thế giới bên ngoài. Về đề tài tâm, phái Samkhya sâu sắc hơn
các phái triết học khác ở Ấn độ trong thời đó.
b.-
Thuyết hữu thần
Thuyết hữu thần cho rằng thế
gian là sản phẩm của môt vị thần sáng tạo. Nhiều giáo lý Ấn độ thời
đó thuộc về học thuyết này. Chúng ta hãy xét chi tiết hơn về quan điểm
và thực hành của các tín đồ của Ishvara, tiêu biểu cho những người
theo học thuyết hữu thần.
Ishvara được
coi là có tám đặc tánh: duy nhất, thường tồn, chuyển động, thiêng
liêng, khả kính, thanh tịnh, sáng tạo và tự tại, vì vậy được gọi là
đấng tối cao. Thế gian mà Ishvara tạo ra không phải là một phần bản thể
của ngài hay sự hoạt động của ngài, như ý kiến của phái Samkhya. Tạo
vật của ngài rất khác ngài, dù ngài có ảnh hưởng đối với nó. Ngài
có quyền năng đưa lên thiên đường những ai ngoan ngoãn tuân phục, và
cho xuống địa ngục tất cả những ai làm trái ý hay không làm vui lòng
ngài.
Những việc
làm chính yếu của các tín đồ Ishvara là thiêu những con vật hiến tế
và những lễ vật khác để cúng vị thần của họ, thiền quán về hình
tướng Ishvara và thực hành các pháp Du Già.
Giáo lý
Ishvara chấp nhận chỉ bằng niềm tin và cũng còn nhiều điều chưa được
rõ ràng. Khuyết điểm lớn nhất của triết thuyết này là không giải
thích nguồn gốc của đấng sáng tạo có thể nêu ra những phản hiện sau
đây về những đăïc tính được coi là của đấng sáng tạo: Ngài được
coi là ổn định, hay thường hằng và cũng chuyển động, nhưng hai tính chất
này loại trừ nhau, vì chuyển động có nghĩa là thay đổi. Sự thanh tịnh
của ngài được định nghĩa là "yếu tính của từ bi", nhưng vì
ngài có quyền năng đưa những người nào không làm ngài hài lòng xuống
địa ngục, nên điều này không hợp với ý tưởng thanh tịnh, hay trong sạch
của ngài. Còn nhiều thắc mắc khác về những quan niệm của thuyết Đấng
Sáng Tạo.
Phái Samkhya cũng
như các phái tin vào Đấng Sáng Tạo đã không thấy rằng gốc rễ của
luân hồi và đau khổ là sự chấp giữ quan niệm về "ta" hay bản
ngã. Vì không biết nguyên nhân thật của đau khổ, họ không thể diệt
được đau khổ. Dù một số pháp thực hành của họ, như thiền định của
phái Samkhya và thiền quán về Đấng Sáng Tạo, giống với các phương pháp
tu tập của Phật giáo nhưng do quan niệm khởi thủy sai lầm, những
phương pháp đó không thể thành công, họ đã đi sai hướng. Điều sai lầm
này cũng có thể xảy ra cho Phật giáo Kim cương thừa. Người nào thực
hành pháp quán tưởng mà không hiểu rằng Sắc tướng được quán tưởng
là rỗng không, không có thực chất hay sự hiện hữu thực sự nào cả,
thì người đó phạm cùng một sai lầm với các hành giả hữu thần. Trong
Mật giáo, giai đoạn phát sinh của pháp quán tưởng phải luôn luôn được
liên kết với giai đoạn thành tựu, nghĩa là hành giả phải hiểu Tánh
Không hay Trí Huệ Bát Nhã. Nếu không hiểu vai trò chánh yếu của giai đoạn
thành tựu và tự giới hạn trong giai đoạn phát sinh thì hành giả sẽ chỉ
thực hành giống như một tín đồ của Ishvara Shantideva (Đạo sư Ấn Độ
thế kỷ thứ tám nói nếu không nhận ra Tánh Không hay Trí Huệ Hoàn Hảo)
thì tất cả các pháp Phật giáo cũng chỉ có kết quả như những quan niệm
nói trên.
c.- Thuyết Hư
vô
Thuyết Hư vô chối bỏ tất cả
các quan niệm về nguyên nhân của thế gian. Tín đồ của thuyết này nói:
"Mặt trời mọc, nước chảy xuống dốc, hạt đậu thì tròn, cái gai
thì nhọn, đuôi công đẹp; những thứ này và tất cả những vật khác
trong thế gian không do ai tạo ra cả, chúng tự nhiên mà có. Thái độ này
bác bỏ hoàn toàn nhân quả và luân hồi, và do đó vô đạo đức, vì những
hành động dù xấu hay tốt cũng không có hậu quả nào cả.
Trong tất cả
các ý kiến thì đây là quan niệm kém hiểu biết nhất và chúng ta chỉ cần
nhìn vào sự tác động của luật nhân quả trong thế giới quanh chúng ta
là có thể phản bác được thuyết hư vô này. Nếu không có luật nhân quả
thì mọi sự vật sẽ có quyền làm theo ý riêng của mình, người ta có thể
trồng lúa mì, gặt lúa mạch, con người có thể sinh ra các loài thú và tất
cả những việc khác. Vì sự thật không phải như vậy nên quan điểm trên
có thể bị phản bác một cách dễ dàng. Đó là những học thuyết ngoài
Phật giáo. Không có thuyết nào có thể làm cho các tín đồ thoát được
đau khổ của luân hồi, vì tất cả các thuyết khác nhau này đều không
biết tới nguyên nhân của khổ.
2.-
Tư tưởng Phật giáo
Khác với
các phái triết học nói trên, các phái tư tưởng Phật giáo nhận thấy rằng
vô minh và ngã chấp là nguyên nhân và là động lực của luân hồi. Để
giải thoát khỏi luân hồi cần phải trừ phiền não. Trong bốn phái chính
yếu của tư tưởng Phật giáo, có những phái được coi là siêu đẳng, vì
dù rằng cả bốn phái đều có những phương tiện để đạt giải thoát,
nhưng không phải tất cả đều có tầm vóc cần thiết để có thể đưa
hành giả của phái mình tới Phật quả viên mãn, hoàn hảo trong mọi phương
diện.
a.- Phái
Vaibhasika
Phái triết học Phật giáo
Vaibhasika (Phái Nhất Thiết Hữu, Tỳ Bà Sa) dạy rằng tất cả các sắc tướng
chỉ có thật theo nghĩa tương đối, thực tế tối hậu của chúng gồm những
vi trần không thể chia nhỏ được, hay những nguyên tử theo nguyên nghĩa của
nó là các nguyên tố đã tạo nên những vật chất đó là : đất, nước,
lửa, gió và không gian (Akasha). Những hạt vi trần này có thật, nhưng không
phải là vật được sáng tạo.
Cũng như thực
tế tối hậu của những sắc tướng thuộc thế giới bên ngoài là hạt
vi trần, thực tế tối hậu của tâm là "khoảnh khắc tâm trí" niệm khởi lên từng
sát na (sát na tâm), hạt nguyên tử của tâm, một khoảnh khắc bất khả
phân của tâm thức. Những khoảnh khắc niệm khởi này là có thật, nhưng
sự bền vững của thức thì không. Tâm quá khứ đã qua, tâm tương lai
chưa tới, vậy chỉ có khoảnh khắc tâm hiện tại là thật. Cái mà chúng
ta gọi là dòng tâm thức chỉ là sự tổng cộng của những sát na niệm
khởi. Vậy, hiện tượng tâm, cũng như những vật có tướng, chỉ có thật
một cách tương đối, thực tế tối hậu của nó là phần tử bất khả
phân "khoảnh khắc tâm" (sát na tâm).
Tất cả các
phái Phật giáo đều cho rằng có đau khổ vì có sự hiểu lầm về liên hệ
giữa tâm nhận biết và đối tượng được nhận biết. Tâm vô minh cho rằng
nó và đối tượng mà nó cảm nhận là hai và phân cách với nhau. Sự
phân biệt này có nghĩa là khi một vật được cho là đẹp xuất hiện thì
tham dục phát khởi, còn đối với một vật không đáng ưa thì cảm giác
ghét bỏ sinh ra. Với hai loại phản ứng ưa và ghét, tâm bị các cảm xúc
quấy nhiểu, những vận hành của tâm lệ thuộc luật nhân quả, và do đó
có đau khổ.
Những khác biệt
giữa các phái Phật giáo là ở quan niệm về tính chất thật của liên hệ
giữa tâm và đối tượng. Phái Vaibhasika cho rằng có sự liên hệ trực tiếp
giữa lục thức và lục trần mà không qua trung gian nào cả. Phái
Sautrantika phản đối ý kiến này.
b.- Phái
Sautrantika
Theo phái
Sautrantika (kinh Lượng), không thể có sự liên lạc trực tiếp giữa tâm
và các phần tử thế giới bên ngoài, vì có sự khác biệt lớn về tính
chất giữa hai bên. Tâm thì trong như thủy tinh và có ý thức. Thế giới vật
chất thì chết và bất động. Tâm chỉ có thể nhận biết trực tiếp một
vật gì có cùng tính chất với nó, vì vậy kiến thức về vật chất bên
ngoài phải xảy ra với một tiến trình khác hơn là sự liên lạc trực tiếp
giữa tâm và vật.
Theo ý kiến của
phái Sautrantika, đối tượng vật chất là một hình ảnh được ghi nhận
bởi tâm thức, hình ảnh này sẽ là hệ quả tự nhiên của sự hiện hữu
các đối tượng đó, nó có thể được cảm nhận bởi tâm vì nó có
cùng tính chất với tâm. Đối với vật có thật, nhưng sẽ là ẩn tàng
đối với tâm nếu không có sự hóa hiện tâm lý mà nó sinh ra, có thể
được nhận biết bởi tâm. Tâm coi sắc tướng này là thật, gây ra tiến
trình ưa ghét, hành động và hậu quả, nên kết thúc với đau khổ như đã
nói ở trên. Nên nhớ, đối vật không gây ra đau khổ, mà đó là do tâm
bám giữ vào hình ảnh mà đối tượng sinh ra và cho rằng hình ảnh tâm
lý này là có thật.
Giáo lý của
cả hai phái Vaibhasika và Sautrantika có thể đưa hành giả tới quả vị La
Hán. Qua phân tích tỉ mỉ thân và tâm vốn được nhận lầm là
"ta", hành giả sẽ thoát ngã chấp do hiểu ra rằng tất cả những
gì mình áp đặt lên ý tưởng "ta" đều là những phần tử tâm
lý và vật chất vô ngã, không thể chứng minh được sự hiện hữu của
cái "ta"mà y yêu quý, sự giác ngộ về tánh vô ngã này sẽ giúp
hành giả sự hiện hữu của các phái này tránh được sự quấy nhiểu của
các cảm xúc và đạt quả La Hán.
Thêm vào tiến
trình phân tích này, phái Sautrantika hiểu rằng thân thể mà người ta bám
giữ cũng phải là thân thể được làm bằng các hạt vi trần có thật,
mà chỉ là hình ảnh tâm lý của nó, vậy càng không có lý do để coi nó
là thật và nhận nó là "ta". Cả hai phái này dùng thiền định để
làm cho tâm an tĩnh, rồi trong sự an tĩnh này hành giả thực hiện việc
quán sát phân tích.
Vì hai phái
này tin vào sự thật tối hậu của các hạt vi trần làm nên tâm và vật
chất, sự liên lạc giữa hai bên trực tiếp hay gián tiếp tùy thuộc quan
niệm riêng của mỗi phái, nên họ phải nói rằng sau khi tất cả chúng
sinh đã giác ngộ thế giới bên ngoài không sự sống vẫn tiếp tục hiện
hữu. Theo giáo lý Bát Nhã một quan niệm như vậy gây chướng ngại cho việc
thực hiện Phật quả, vì quan niệm này tạo ra một tấm màn vô minh che mờ
sự toàn giác. Nhưng khi hành giả của hai phái Vaibhasika và Sautrantika đạt
quả La Hán, tâm không còn mê muội vì sự quấy nhiễu của các cảm xúc,
thì người đó có thể chìm vào thiền định không dứt, do đó y sẽ nhận
ra sai lầm của mình, sửa đổi quan niệm để vén lên tấm màn cuối cùng
che phủ giác ngộ viên mãn.
Người ta có
thể thắc mắc tại sao Đức Phật lại dạy những điều mà hai phái này
chủ trương, nếu sự thật không có hạt vi trần nào hiện hữu thực sự,
dù là vật chất hay tâm lý để tạo nên các sự vật ở các cõi vật chất
và tâm lý. Lý do là giáo lý đó không thể thiếu đối với hạng người
chưa sẳn sàng chấp nhận sự không thật của thế giới ngoài tâm. Dù
không thể đưa hành giả tới giác ngộ trọn vẹn, thuyết vi trần này cũng
có thể làm cho y loại bỏ được phiền não do các cảm xúc gây ra và đạt
quả La Hán, lúc đó tri kiến biết của y sẽ phát triển tới chỗ y có thể
chấp nhận sự thật về các đối vật ở thế giới bên ngoài và tiến dần
tới Phật quả viên mãn.
c.- Quan niệm
Đại thừa
Đối với hạng
người nhắm thẳng tới giác ngộ trọn vẹn, Đức Phật dạy đầy đủ sự
thật về tâm và thế giới vật chất.
Ngài giải
thích rằng sự không hiểu biết của tâm về tính chất thật của chính
mình làm phát sinh các cảnh giới và các loại chúng sanh sống trong các
cõi đó. Do vô minh, tâm cho rằng có thế giới bên ngoài, phân cách với
nó, mà thật ra thế giới chỉ là sự phóng chiếu của tâm. Vì vậy, thế
giới không phải là vật hiện hữu như một phần bản thể của đấng sáng
tạo ra nó, nó cũng không ở bên ngoài cũng không vừa ở trong vừa ở
ngoài đấng sáng tạo của nó; nó cũng không hoàn toàn không có nguyên
nhân. Nếu thế giới là một phần bản thể của đấng sáng tạo rao nó,
thì nó đã hiện hữu rồi, không cần phải tạo ra nó lần thứ hai. Nếu
nó ở ngoài đấng sáng tạo thì nó đã có sẳn để được gọi là ở
"bên ngoài" đối với một đấng sáng tạo đã hiện hữu từ trước,
vì làm sao có "anh" nếu không có "tôi" trước. Nếu nói rằng
thế giới xuất hiện qua sự phối hợp của hai điều trên thì phạm hai
nhược điểm đó. Còn về sự không nguyên nhân thì chúng ta đã nói rằng
thuyết này là vô lý, vì chúng ta có thể thấy tận mắt sự phối hợp của
cha mẹ đưa tới việc một đứa con được sinh ra, như cây lúa mọc ra từ
hạt lúa.
Vậy thế gian
là gì? Đức Phật dạy rằng thế gian được tạo thành bởi nhân duyên. Vật
này tùy thuộc vào vật kia, và vật kia tùy thuộc vào một vật khác.
Không có gì hiện hữu thật sự, vì một vật có thật phải là một hiện
tượng tự hữu và độc lập. Vì vậy không có vấn đề tìm kiếm nguyên
nhân của thế gian, vì nó không có sự hiện hữu riêng của nó. Thí dụ một
cái nhà: không có "căn nhà" hiện hữu độc lập với tường, trần,
sàn, v.v...
và
những cái này cũng không hiện hữu độc lập với những thành phần kết
hợp nên chúng. Cả một nguên tử nhỏ nhất cũng không hiện hữu độc lập
với những thành phần của nó, dù là nguyên tử vật chất hay nguyên tử
tâm lý. Không có thể xác hiện hữu độc lập với những thành phần của
nó, không có tâm hiện hữu độc lập với những khoảnh khắc tâm lý của
nó. Căn nhà, bức tường, hạt nguyên tử, tâm là có thật một cách tương
đối, nhưng một cuộc khảo sát kỹ, rốt ráo sẽ cho thấy không có vật
nào tự hiện hữu độc lập với những thành phần của nó, nó không có
thực tế thật sự nào của chính mình.
Vậy có hai loại
chân lý: chân lý tương đối (tục đế) vật gì có vẻ là thật, và chân
lý tuyệt đối (chân đế) là cái gì có thật. Hai sự thật này không phải
là một. Nếu hai sự thật này là một thì khi biết cái này sẽ tự động
biết cái kia. Không phải là một, vì chúng ta có thể vẫn không biết
chân lý tối hậu trong khi đã biết chân lý tương đối của một vật nào
đó. Nhưng hai loại chân lý này cũng không hoàn toàn khác biệt và độc lập
với nhau, vì chúng không thể phân cách nhau, lý do đơn giản là chân lý
tuyệt đối của một vật là tính chất thật của nguyên lý tương đối
của nó. Chúng ta không thể nói chân lý tương đối là giả, vì hình tướng
của một vật là rất thật, giống như hình phản chiếu trong gương hay một
ảo ảnh do một nhà ảo thuật tạo ra là có thật. Nhưng vì nó không có yếu
tính riêng của nó, tức là không có ý nghĩa theo quan điểm của chân lý tối
hậu, nên cũng sai nếu nói rằng chân lý tương đối là thật.
Chúng ta có thể
hiểu thế gian phát sinh từ tâm bằng hai cách. Có thể trực tiếp qua thiền
định và các pháp khác có hiệu lực giảm vô minh tới mức tâm có thể
nhận ra tính chất và sự vận hành của chính nó. Việc thực hành các phương
pháp này hoàn toàn tùy thuộc nổ lực của hành giả, chứ không do sự
giúp đở của một đạo sư. Một loại hiểu biết khác kém hơn, nhưng cần
thiết cho những người vẫn còn vô minh ngăn che sự hiểu biết trực tiếp,
đó là tri thức phát xuất từ suy luận và lý luận để nhận định giá
trị của các lý thuyết (nhân minh học hay luận lý học). Qua việc nghe giảng
và nghe tranh luận, rồi suy ngẫm về những điều đã nghe. Chúng ta có thể
suy luận rằng thế gian được sinh ra từ tâm. Loại tiến trình tìm hiểu
này giống như ngắm bóng mình trong gương để biết mình đẹp hay xấu. Chúng
ta không trông thấy bộ mặt thật của mình mà chỉ thấy hình phản chiếu
của nó, nhưng chúng ta cũng có thể nhận xét đúng. Một ví dụ khác,
chúng ta có thể suy luận là có lửa khi chỉ trông thấy khói. Loại hiểu
biết gián tiếp này đủ để giúp chúng ta dùng trong lúc đầu, vì nó là
căn bản cho việc thiền quán dẫn tới sự hiểu biết trực tiếp tính chất
thật của sự vật.
II.-
Thế giới hiện tượng của Tâm
Trong
sự nhận biết có hai thành phần: chủ thể nhận biết và vật được nhận
biết. Hiển nhiên là có sự liên quan giữa hai bên, vì có hiệu ứng của
các đối tượng trên tâm. Đối tượng xinh đẹp sinh ra tham muốn, đối
tượng không hấp dẫn gây ra ghét bỏ và đối tượng trung tính mang lại
sự vô tâm. Vậy, hoặc tâm và các đối tượng có cùng tính chất chính yếu,
hoặc có một liên hệ nhân quả giữa hai bên, như liên hệ giữa khói và
lửa.
Phái
Sautrantika đã nói rằng tâm muốn nhận biết một vật gì thì vật đó phải
có cùng tính chất với tâm. Nếu đối tượng có bản thể là vật chất
thì làm sao tâm có thể nhận biết? Tâm phi vật chất và vô tướng, tính
chất của nó không thể diển tả được, vì nó không có hình dạng, mầu
sắc hay cái gì khác. Do sự khác biệt hoàn toàn về tính chất của vật
chất và phi vật chất nên không có vấn đề liên lạc giữa hai bên. Thị
giác không bao giờ có thể liên lạc với hình dạng, thính giác và các
giác quan khác cũng không liên lạc với các đối tượng. Sự khác biệt về
tính chất này cũng loại trừ liên hệ nhân quả. Hoàn toàn khác tính chất
thì làm sao các đối tượng vật chất có thể xuất hiện như kết quả của
tâm, hay làm sao tâm lại có thể được sinh ra bởi vật chất?
Vậy chỉ có
một kết luận: đối tượng chính là tâm thức, như vậy những vấn đề
trên không hiện hữu. Tuy nhận biết đối tượng vì chúng là sản phẩm của
tâm, và tâm có thể sinh ra tâm. Thí dụ trong giấc mộng: nếu một người
mơ thấy con ngựa, người đó có thể cảm nhận con ngựa, vì nó là vật
do tâm tạo. Nó được sinh ra bởi tâm và có cùng tính chất với tâm. Cũng
vậy, tất cả những đối tượng khác nhau và những cảm giác về chúng
được nạp vào dòng tâm thức đều do tâm tạo.
Nếu xét kỹ
hơn chúng ta sẽ thấy thuyết thế giới vật chất được tạo bằng các hạt
bất khả phân là không thể chấp nhận được, vì những hạt này không
thể có thật. Một "nguyên tử" được định nghĩa là phần tử
nhỏ nhất, tới mức không thể được chia nhỏ hơn. Một vật có tính chất
không thể phân chia được khi nó không có kích thước gì cả, nhưng như vậy
làm sao các nguyên tử có thể gắn vào nhau để tạo ra những khối lớn?
Vì không có kích thước, một nguyên tử không có bề mặt hay khía để một
nguyên tử khác gắn vào nó, hoặc trực tiếp, hoặc bởi sự trung gian của
một lực nào đó. Các phần tử tâm, các khoảnh khắc tâm trí được coi
là tạo nên tâm cũng có thể được phản bác bằng cách này. Vậy thuyết
nguyên tử là vô lý.
Chúng ta khó
có thể chấp nhận ý tưởng thế giới vật chất được làm bằng các hạt
tử . Thí dụ, một cái nhà là một tập hợp những hạt tử bằng đá, xi
măng và những vật khác. Một đứa
trẻ trên bãi biển xây một tòa lâu đài bằng những hạt cát. Đối với
tâm vô minh thì sự vật có vẻ như vậy, nhưng sự thật không phải như vậy.
Tâm vô minh rối loạn, hay sai lầm thì giống như cái tâm trong mộng tưởng
sự vật đang diễn ra là thật. Trong giấc mộng về một đứa trẻ xây
lâu đài cát trên biển, thì cả tòa lâu đài lẫn những hạt cát đều không
có thật; chúng chỉ có vẻ là thật đối với tâm mê muội trong mộng. Cũng
vậy, theo chân lý tuyệt đối thì các vật hình như được làm bằng các
hạt tử, nhưng theo chân lý tuyệt đối thì không có đối tượng của các
cảm giác nào là có sự thật vật chất.
Khi nói về
các đối tượng cảm giác, chúng ta phải nhớ rằng tâm cũng có khả năng
riêng của nó với sự nhận biết này kiến lập ý niệm từ thông tin mà
tâm nhận được qua năm khả năng cảm giác kia (nhãn thức, nhĩ thức
v.v...). Những đối tượng của tâm hay ý thức (thức thứ sáu) thì được
gọi là "Pháp", một pháp trong trường hợp này được định
nghĩa là một sự vật gì có thể được nhận biết bởi khả năng tâm.
Thí dụ sau đây cho thấy sự liên quan giữa một trong năm cảm giác và ý
thức.
Khi trông thấy
một cái ly, trước hết cái ly là một hình thể tự lộ diện với khả năng
thị giác; nó được nhận ra là một
hình thể (nhưng chưa là một cái ly) bởi nhãn thức và nó được truyền
tới ý thức như một pháp (một hiện tượng). Ý thức sẽ ghi nhận nó
và tâm bắt đầu tiến trình loại trừ để có ý niệm về đối tượng
cần được biết này. Do có kinh nghiệm quá khứ, tâm có thể nhận ra rằng
hình ảnh mà nó nhận được không phải là một cái chén, một cái muỗng
hay một cái gì khác, mà là một cái ly. Khi đã nhận xét và gọi tên đối
tượng, tâm biết hình ảnh được truyền bởi nhãn thức là một cái ly.
Vậy ý thức
và sự biết của ý thức có chức năng ý niệm hóa các vật đối tượng
và cảm nhận chúng là vật này hay vật kia bằng cách phân biệt một vật
với những vật khác. Ý thức cũng đánh giá các đối tượng, phán xét
chúng là đáng ưa thích, không đáng hài lòng, hay trung tính, từ đó sinh ra
những phản ứng tham muốn hay tránh né.
Sự nhận biết
của năm cảm giác kia không liên can gì tới việc ý niệm hóa này, chúng
chỉ biết về sắc, thanh, hương, vị, xúc. Vì vậy việc ý niệm hóa của
ý thức chịu trách nhiệm cho sự cảm nhận thế giới quanh chúng ta. Thí dụ,
cọp cái chỉ có tính chất hấp dẫn đối với con cọp đực, chứ không
với một người hay một con vật nào khác, vì sự hấp dẫn đó phát sinh
từ việc ý niệm hóa từ ý thức của
con cọp đực.
Vậy, thế giới
quanh chúng ta được vẽ lên bởi hoạt động ý niệm hóa của tâm.
III.-
Tâm thức không có thật
Chúng
ta đã nhận xét rằng không có vật chất nào hiện hữu độc lập, dù nó
nhỏ như hạt tử hoặc lớn như quả núi. Vạn vật chỉ hiện hữu một
cách tương đối, trong sự tương quan với những vật khác. Nếu có trái,
ắt có phải; không có trái thì không có phải. Nếu không có nóng thì
không thể có lạnh, không có dài thì không có ngắn, không có "ta"
thì không có "người".
Do đó, nếu
không có đối tượng biết thật, thì không thể có cái gì thật để biết
đối tượng đó: Nếu đối tượng của cảm thức không có thật, thì
tâm cảm nhận nó cũng không có thật. Những khoảnh khắc tri thức tạo
nên tâm không có thực tế độc lập nào cả. Sự hiện hữu của những
khoảnh khắc tri thức này tùy thuộc vào các đối tượng của chúng: Nếu
không có âm thanh thì không có nhĩ thức hay thính giác, v.v...Thế giới bên
ngoài được phát họa bởi sự biết bằng quan niệm hóa của ý thức, nhưng
cả sự biết đó cũng không có sự thật độc
lập nào của riêng nó. Cả sự biết lẫn đối tượng của nó đều không
thật và không là gì khác hơn những sự phóng chiếu của tâm thức. Tâm
là nguyên nhân của mọi sự vật, nhưng tâm không có thật theo bất cứ ý
nghĩa nào.
IV.-
Tám thức
Việc
ý niệm hóa của tâm vô minh, rối loạn sinh ra thế giới, và thế giới
này chỉ hiện hữu một cách tương đối và không độc lập mà tùy thuộc
nhân duyên, hay nguyên nhân và điều kiện. Những nguyên nhân và điều kiện
này gồm tám loại tri thức, trong đó căn bản thức là nhân tố chính yếu,
có tính cách quyết định.
Căn bản thức
(Alaya, A-lại-da thức, tạng-thức) là điều kiện căn bản cho sự sản
sinh các giác thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý và cảm xúc thức mà nó phóng chiếu ra. Cảm xúc thức hay mạt-na
thức là ý thức chịu sự tác động của các cảm xúc. Cả tám thức này
đều có cùng yếu tính, dù có vẻ khác nhau, giống như những làn sóng
trên mặt nước đều có tính chất nước. Các loại ý thức này chỉ
khác nhau ở chức năng, tùy thuộc tính chất của đối tượng mà chúng cảm
nhận.
1.- Năm cảm giác (Tiền ngũ thức)
Những
điều kiện cho sự cảm nhận của tâm thuộc thế giới bên ngoài, là năm
đối tượng cảm giác (ngũ trần): sắc, thanh, hương, vị. xúc. Bên trong
chúng là năm giác quan với các khả năng cảm nhận. Khả năng cảm nhận
không phải là toàn thể giác quan, mà chỉ là phần cảm giác của nó và
được làm bằng một loại vật chất rất tinh tế, có công dụng làm nổi
bậc đối tượng để ý thức có thể biết về đối tượng.
Mỗi loại cảm
giác liên quan tới khả năng cảm giác đó chứ không tới giác quan như một
toàn thể. Người ta có mắt là giác quan để nhìn, nhưng khi khả năng thị
giác trong mắt bi hỏng, thì sẽ không còn có thị giác nữa.
2.- Ý thức hay Tâm khoảnh khắc
Khả năng
cảm giác của tri thức về các vật đối tượng để biết về chúng,
được gọi là tâm khoảnh khắc, và chất cảm giác tinh tế của nó có
tính chất tâm.
Nó được gọi
là tâm khoảnh khắc vì nó xảy ra mỗi lần một hành động biết của tâm
bắt đầu hay ngừng lại. Vào chính lúc này tri thức diễn ra. Phải có một
khoảng cách giữa tri thức và đối tượng để tri thức có thể diễn ra.
Điều này cũng giống như khoảng cách giữa mặt người và mặt gương để
người có thể nhìn thấy bóng mình trong gương. Tâm khoảnh khắc là khoảng
cách giữa tri thức và đối tượng. Nhưng nó không trống không, mà là một
vật có tính tâm thức, có thể liên lạc với tâm thức vì nó là tâm thức.
Qua thiền quán, tâm thức còn có thể nhận biết khả năng cảm giác của
chính mình hay ý thức (thức thứ sáu). Sáu khả năng cảm giác (lục căn),
sáu tri thức vụn vặt (lục nhập) thuộc về chúng, và sáu đối tượng
(lục trần) kích thích chúng, tất cả đều phát xuất từ căn bản thức
và tan biến trở lại thức này vào lúc cuối cùng, như sóng nổi trên mặt
nước rồi nhập trở lại nước. Tất cả những thành tố này là những
sự phóng chiếu của tâm thức, kể cả những đối tượng cảm giác vốn
không có thực tế cụ thể nào. Thêm nữa, những thành tố này không hiện
hữu độc lập, mà chỉ có thể hiện hữu tùy thuộc nhau. Liên hệ tương
thuộc của các tiến trình cảm giác xảy ra như thế nào? Từ thời vô thủy,
nhũng tập quán vô minh của chúng ta để lại những dấu vết được chứa
trong căn bản thức (Alaya, tạng thức). Căn bản thức không biết tính chất
thật của mình nhận lầm căn bản thức và thân thể cùng tâm trí (năm uẩn)
là bản ngã, là "ta". Niềm tin này gây ra các cảm xúc phiền não
và các cảm xúc này quy định hành vi của chúng ta. Những hành động của
chúng ta lệ thuộc luật nhân quả, để lại những dấu vết, hay thiên hướng
được chứa trong căn bản thức cho đến khi chúng chín và sản sinh trường
tri thức tương ứng với thiên hướng đó. Thí dụ căn bản thức chứa tiềm
năng của sự trở thành con người, khi tiềm năng này chín thì từ căn bản
thức sẽ phát sinh sáu khả năng cảm giác, sáu đối tượng và sáu tri thức
vụn vặt của một kiếp người.
Căn bản để
chúng ta nhận thức thế giới là tri thức vụn vặt của ý thức, hay trí
khoảnh khắc vì chính ý thức ý niệm hóa những đối tượng được cảm
nhận bởi năm giác quan phân biệt chúng với nhau, rồi chấp giữ chúng hay
loại bỏ chúng. Đây là một loại tham dục. Một loại tham dục khác là của
cảm xúc thức, có tính chất giống như của ý thức, nhưng sự tham dục của
thức này diễn ra theo một cách hơi khác.
3.- Mạt-Na thức (thức thứ bảy)
Mạt-na
thức là thức bị quấy nhiễu bởi các cảm xúc và nó bám vào ý tưởng
tự ngã. Nó là thành phần của tâm có khả năng suy nghĩ và cho rằng
"ta hiện hữu" và "ta tốt hơn và quan trọng hơn người khác".
Đây là tư tưởng rất sai lầm, vì không có bản ngã nào trong căn bản thức
cả. Ý tưởng về sự hiện hữu của một cái ta làm phát sinh một cảm
xúc gây phiền nhiễu cho tâm. Mạt-na thức cũng là nguồn gốc của sự kết
hợp được gọi bằng thuật ngữ "Các hành vô thường", là những
sự kết hợp tạo nên vạn vật có tính sinh diệt của thế giới hữu vi.
Cho rằng năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức của thân và tâm là thật
và là tự ngã, tâm tạo ra các hành không có thật và do đó có thể được
giải trừ bằng cách tìm hiểu thực chất của chúng.
Tóm lại, ý
thức hay tâm khoảnh khắc là nguồn gốc của tri thức vụn vặt hay phàm
trí. Ý thức là điều kiện của sự phát sinh các trạng thái cảm xúc của
tâm, và do đó làm cho tâm bị mờ ám, nên cũng được gọi là ô nhiễm thức.
4.- Căn bản thức (A lại da thức)
Căn
bản thức là nơi huân tập các chủng tử nghiệp đã tạo ra từ trong quá
khứ cho đến khi chúng chín mùi. Thức này giống một mảnh đất để gieo
hạt giống, là căn bản và chỗ trụ cho toàn thế giới quanh ta, vì thế
giới chính là sự hoạt động của bảy thức nói trên, mà chính thức
này phát xuất từ căn bản thức.
Tất cả những
hoạt động của bảy thức đó để lại những chủng tử tốt hay xấu
được chứa trong căn bản thức, nhưng căn bản thức có tính vô ký,
không biết tới tốt hay xấu. Căn bản thức giống như biển, còn các chủng
tử nghiệp giống như hơi nước từ mặt biển bốc lên khi chúng thành thục.
Bảy thức giống như mưa rơi xuống đất, thành sông chảy về biển để
rồi lại bốc hơi.
Căn bản thức
là thức tái sinh từ kiếp này sang kiếp khác. Khi một kiếp người chấm
dứt, trong cõi Bardo tiếp theo, căn bản thức lại phóng chiếu ra sáu thức
cùng với Mạt-na thức (ngã chấp), để sống trong cõi trung giới này. Khi
trạng thái Bardo chấm dứt, một lần nữa từ căn bản thức phát xuất
các khả năng cảm giác và các đối tượng, để chiếm giữ trạng thái kế
tiếp, kiếp sống mới.
Căn bản thức
cũng được gọi là tri thức có điều kiện, vì để hiện hữu nó phải
tùy thuộc vào bảy thức kia. Theo thí dụ về biển nói trên, biển sẽ
không hiện hữu nếu không có sự bốc hơi, mưa và sông, cũng vậy, căn bản
thức không thể hiện hữu nếu không có hoạt động của bảy thức kia và
những chủng tử nghiệp của chúng để lại trong căn bản thức. Khi tâm
giác ngộ về tính chất thật của mình và do đó không còn vọng niệm nữa,
khi đó hoạt động của bảy thức được hóa giải và chúng chấm dứt.
Cùng lúc đó căn bản thức cũng tiêu diệt.
Điều quan trọng
phải hiểu rằng căn bản thức là một hiện tượng tùy thuộc các hiện
tượng khác. Nếu căn bản thức có thể tự hiện hữu không cần có hoạt
động của bảy thức thì như vậy nó chính là Nguyên lý của phái Samkhya,
và giáo lý của Đức Phật sẽ không khác học thuyết của phái này.
Giới thiệu | Tri
thức vụn vặt | Tri thức nguyên thủy | Chuyển hóa