- Ðạo Ðức Phật Giáo
và Kỹ Thuật Tạo Sinh (Cloning)
- trong Khoa Di Truyền Học
Quán Như
---o0o---
Cả thế giới rúng động khi
công ty nghiên cứu sinh học American Advanced Technology loan tin là họ đã
clone được một phôi sinh (embryo) của người. Không những chỉ có giới
thẩm quyền thuộc các tôn giáo độc thần lớn tiếng kết tội các khoa học
gia muốn cướp quyền Thượng Ðế, giới khoa học gia, các nhà lập pháp cũng
như chánh quyền các nưóc Tây Phương vội vã lên tiếng chống đối. Thượng
viện Anh đã triệu tập một phiên họp khẩn cấp để thông qua một đạo
luật chống cloning, trong đó những người nào thi hành thí nghiệm cấy một
phôi sinh của người, khác hơn là phôi sinh đã được kết hợp tự nhiên
bởi một tinh trùng và một trứng, có thể bị kêu án 10 năm tù. Tổng Thống
Bush tuyên bố là cloning phôi sinh người là một việc làm trái đạo đức
và thúc dục Thượng Viện Mỹ thông qua dự luật cấm cloning người. Tuy
nhiên thượng viện Mỹ nói là họ không vội vã trong việc cấm cloning và
sẽ điều tra xem kỹ thuật này có giúp ích gì trong việc chữa các chứng
bịnh hiểm nghèo cho dân chúng không. Các phản ứng tại Âu Châu cũng
tương tự. Pháp, Ðức, Gia Nã Ðại và Ý đều lên tiếng chống đối việc
tạo con người trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên các nhà khoa học di truyền
nói là quần chúng phải phân biệt giữa hai kỹ thuật Cloning. Kỹ thuật
Cloning thứ nhất là tái tạo một cá thể con người (productive cloning) và
một kỹ thuật khác là tạo những tế bào để thay thế các tế bào bị
hư hại (Theurapetic cloning) trong cơ thể. Các nhà khoa học nói là các tế
bào này chỉ là mầm sống sơ khởi, chưa phải là một cá thể người, do
đó không liên hệ đến các vấn đề đạo đức về hủy diệt sự sống.
Các phôi sinh do American Advanced Technology cấy được chỉ mới sinh ra chừng
6 tế bào khác, tuy nhiên chúng có đầy đủ các yếu tố di truyền của người
cung cấp tế bào . Vatican dĩ nhiên nghiêm khắc lên án thí nghiệm tái tạo
người cũng như thí nghiệm tái tạo các tế bào phôi sinh (Stem cells) để
chữa bịnh. Các chánh phủ Tây Phương mặc dù lên án productive cloning nhưng
vẫn cho phép theurapetic cloning các tế bào phôi sinh để áp dụng vào việc
chữa bịnh.
Phó giám đốc trung tâm nghiên cứu
Advanced Cell Technology, Tiến sĩ Robert Lanza, nói là công trình này có những
tiềm năng lớn lao trong việc chữa các chứng nan y và cấm đoán việc thử
nghiệm này sẽ ngăn chặn những khám phá y học cần thiết để chữa trị
những chứng bịnh hiểm nghèo, như ung thư, tiểu đường và các chứng run
rẩy (Parkinson) ở các người già. Các khoa học gia ở trung tâm ACT tiết lộ
người hiến tế bào để thử nghiệm là Bác sĩ Judson Someville, hiện đang
bị tê liệt và ngồi trên xe lăn vì một tai nạn xe đạp 11 năm trước đây.
Bác Sĩ Someville đã hiến tặng các tế bào ở bắp chân phải để các
nhà khoa học cấy một phôi sinh vào. Các tế bào này khi sinh trưởng vẫn
còn giữ toàn vẹn nhiễm thể của ông. Nếu các tế bào này sinh trưởng,
chúng có thể được thay thế cho các tế bào hư hại và bác sĩ Someville có
thể đi lại được bình thường. Bác sĩ Someville sắp sữa lập gia đình
một lần nữa và có hai cô con gái. Ông nói nếu thí nghiệm thành công,
ông hy vọng một ngày nào đó ông có thể đi dạo bình thường với 2 cô
con gái. Bác sĩ Someville là một người sùng đạo (Tin Lành) và là một đảng
viên đảng Cộng Hòa, một đảng trên nguyên tắc kịch liệt chống đối
kỹ thuật cloning, cho dù chỉ là cloning chữa bịnh. Bác sĩ Someville nói là
ông không ngần ngại gì khi tham gia vào chương trình này và ông không thấy
có một sự xung đột gì với niềm tin tôn giáo của mình.
So với các tôn giáo độc thần Tây
Phương, Phật Giáo với lý thuyết duyên khởi là một tôn giáo không bị
những tiến bộ khoa học bỏ rơi và những khám phá mới càng chứng tỏ
thị kiến của đức Phật về sự sống và về vũ trụ rất gần gũi với
thị kiến khoa học. Lập trường của Phật Giáo, hay ít nhất là của một
số Phật Tử, về khoa di truyền học như thế nào? Sau đây là bài viết của
Christina Desser.
Một học giả Phật Giáo nổi tiếng
ở Mỹ nói đùa: ‘Nếu cloning được Ðức Phật thế giới này sẽ bỗng
chốc biến thành tịnh độ’. Ðây là một lời nói đùa, nhưng không phải
là không phản ảnh lý tưởng của Phật Giáo; ai cũng có thể là Phật sẽ
thành và giống như nhãn quan của Bồ Tát Thường Bất Khinh, ai cũng là một
bồ tát hóa thân. Tuy nhiên lời nói bông đùa đó phản ảnh một chút lạc
quan ngây thơ về những tiến bộ vượt bực của khoa sinh học di truyền
cũng như những ảnh hưởng không ai lường trước được về những khám
phá của khoa này.
Chúng ta đang bị mê hoặc bởi những
lợi ích có thực hay tưởng tượng: một thế giới không còn bịnh tật,
những khám phá làm vơi khổ đau của con người, đúng như lý tưởng của
đạo Phật. Thực phẩm tăng thêm nhiều chất lượng, được sản xuất dồi
dào và không lo còn có ai bị đói. Y tế sẽ được cải thiện và nếu
chúng ta lựa chọn những Genes tốt, cũng như lựa toàn hạt lúa giống tốt,
khả năng trí thức của con người sẽ tăng tiến không giới hạn. Không
phải thế giới chỉ có một vài thiên tài làm đảo lộn lịch sử, hoặc
chỉ có một thiên tài độc nhất kiểu Phạm Công Thiện, mà thiên tài mọc
đầy rẫy như cúc vạn thọ. Những ai nghĩ mình là thiên tài sẽ lấy làm
khó chịu vì trong tương lai không còn ai giữ độc quyền tri thức. Ðó là
chưa kể chúng ta có thể khuynh đảo các genes gây bịnh già và biến giấc
mộng trường sanh bất tử của Lão Trang thành sự thật. Nghĩa là con người
có khả năng chấm dứt dòng tiến hóa từ hàng triệu năm nay và kết thúc
với một chủng loại siêu việt! Những mơ ước của chúng ta vô tận. Từ
thập niên trước những điều mơ ước chỉ là những giấc mộng con,
không ai ngờ chỉ có hơn 10 năm, những giấc mộng này bỗng chốc thành sự
thật. Ðó là một viễn tượng của một hình ảnh Niết bàn hay thế giới
Tịnh độ của Phật Giáo Ðại Thừa có thật ở đây, bây giờ.
Chúng ta chào mừng các tiến bộ
này với cả hai tay và hy vọng như chúng ta đón mừng những phát minh khoa
học khác. Tuy nhiên những áp dụng vào canh nông, y tế và sinh sản con người
sẽ làm đảo lộn tất cả mọi trật tự và khoa sinh học di truyền sẽ
ảnh hưởng đến tất cả mọi khía cạnh của đời sống. Trong thời gian
qua, việc cấy genes vào các chủng loại khác (transgenic) đã được áp dụng
để biến đổi bắp, lúa mì, gạo và các mùa màng khác; việc chế tạo
các vũ khí sinh học di truyền được tiến hành một cách thầm lặng nên
không ai chú ý; chế biến năng lượng; sản xuất các dược liệu và các
phương pháp điều trị y khoa. Khi phối hợp với kỹ thuật tái tạo
(productive cloning) chúng ta có thể thay đổi các nhiễm thể di truyền của
thế giới hữu tình. Mặc dù khoa sinh học di truyền bắt đầu viết lại
pho lịch sử tiến hóa của nhân loại, phần lớn chúng ta cũng còn lờ mờ
về các áp dụng này. Trong khi Phật Giáo Tây Phương còn chăm chú vào những
vấn đề như phá thai, các liên hệ sinh lý thái quá, các bạo hành cơ thể,
chủng tộc và phái tính, khoa sinh học di truyền trẻ trung đã có những tiến
bộ nhanh chóng về canh nông và y tế và hậu quả của các áp dụng này chưa
được giới Phật Tử để ý tới một cách đúng mức.
Quan điểm Phật Giáo về các vấn
đề này ra sao? Khoa học di truyền có phải một đáp ứng nhân đạo cho những
đau khổ của con người? Hay đó chỉ là một hình thái vô minh nguy hiểm
phát sinh từ tham, sân và si để kích thích hành động con người?
Các cơ quan nghiên cứu khổng lồ
trên mặt trận canh nông như Monsanto, Novarris, DuPont và các nhà khoa học
đang biến đổi genes của hạt giống- cổ võ cho khoa di truyền, dựa trên
những lý do nhân đạo. Các người này nói là khoa di truyền cần thiết
vì nông phẩm sẽ được sản xuất dồi dào hơn và không còn ai bị đói
ăn nữa. Khoa di truyền sẽ giúp làm giảm lượng thuốc xịt sâu rầy. Khoa
di truyền giúp việc bào chế các dược phẩm mới cũng như các thuốc chủng
ngừa cho dân nghèo. Tuy nhiên những hành động của họ của các công ty
này chứng tỏ những lời tuyên bố đầy nhân đạo này không đúng sự thật.
Việc cung cấp thức ăn cho người nghèo không thể nào đủ lời để cho các
công ty lớn này theo đuổi công trình nghiên cứu về di truyền học. Hiện
chỉ mới có một loại nông phẩm được chế biến để làm tăng dinh dưỡng
có tên là Gạo Vàng (Golden Rice) do các nhà khoa học được tài trợ duy nhất
bởi công ty này. Cho tới ngày hôm nay có người nghi ngờ về hiệu năng của
vụ mùa có genes bị chế biến này.
Ngoài các vụ biến đổi genes của
các nông phẩm, có những thú vật được chuyển genes (transgenic) như dê,
bò, chuột và heo. Cơ quan kiểm soát thực phẩm và dược phẩm của Mỹ sắp
sửa chấp thuận cho phép chương trình nuôi cá hồi (salmon) có genes được
biến đổi để cá có khả năng lớn thật nhanh và do đó các công ty nuôi
cá sản xuất được nhiều, và dĩ nhiên là có lời nhiều. Ở Trung Quốc
một loại cá chép được đổi genes có lẽ đã được tung ra thị trường.
Các nhà khoa học chuẩn bị thả vào thiên nhiên một loại bọ đã bị đổi
genes. Loại bọ này khi làm tình với các con bọ cái khác sẽ sinh ra một
loại trứng bị hư và do đó sẽ làm tiêu diệt các loại bọ trước đây
đã tàn phá mùa màng bông vải. Tuy nhiên điều nguy hiểm là những con bọ
đổi genes không thể nào thu hồi lại được. Trong khi những loại thảo mộc,
bọ và cá có genes bị biến đổi sẽ thay đổi quá trình tiến hoá của
môi sinh thiên nhiên, những con người được tạo sinh (cloned) và có genes
biến đổi sẽ vĩnh viễn làm thay đổi quá trình tiến hóa của con
người. Những điều mà mới đây chúng ta nghĩ chỉ là khoa học giả tưởng,
bây giờ đã thành sự thực. Hơn 50 năm trước Hitler mơ ước tạo được
một chủng loại Aryan toàn hảo và giấc mơ đó chỉ được điện ảnh hoá
qua phim The Boys From Brazil do Gregory Pech đóng vai chánh, bây giờ có thể thực
hiện một cách dễ dàng, nếu luật pháp cho phép! Trên thực tế giáo phái
Raelians hy vọng có thể tạo sinh (cloning) một đứa con đã chết của hai
tín đồ trong một phòng thí nghiệm bí mật. Một thí nghiệm tạo sinh
khác do Tiến Sĩ Panayiotis Zaros của viện nghiên cứu Mỹ Andrology và Trung
Tâm Kentucky Centre for Reproductive Medicine đã thực hiện. Tiến sĩ Zaros đã
có những nỗ lực tạo sinh người cho các cặp vợ chồng không có con
cái. Nhà khoa học này hy vọng rằng việc tạo sinh người sẽ thành công
trong vòng một năm.
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều
lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã
chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử. Hoặc là họ không có
con nối dõi.
Trên quan điểm đạo đức Phật
Giáo, việc tạo sinh nẩy ra nhiều vấn đề rắc rối. Có phải chăng ý muốn
cho người thân sống lại là một hình thái bám chặt vào cái thân như điện
ảnh mà Ðức Phật đã cảnh cáo? Có phải chăng việc tạo sinh chính mình
là một hình thức chấp ngã đi ngược lại với nguyên tắc vô thường
trong tất cả kinh điển Phật Giáo? Những cặp vợ chồng không có con cái
muốn có người nối dõi qua hình thức tạo sinh cũng là một hình thức chấp
ngã và kéo dài các vòng luân hồi vô tận!
Những cặp vợ chồng có khả năng
có con cái muốn có con theo ý mình (design baby) sau khi đã gạn lọc những
genes hạ đẳng và cấy vào những genes tốt và do đó sẽ tạo ra một chủng
tộc thượng đẳng mà Hitler ngày xưa đã mong muốn? Những người chống
đối việc chuyển genes để tạo ra design babies nói là trong tương lai gần,
sẽ có hai ‘giống’ người khác nhau. Một giống tự nhiên ‘trời sinh
sao thì cứ để vậy’ và một ‘giống’ người đã được chuyển genes
thượng đẵng. Nhà sinh vật tế bào Lee Silver cho rằng nếu cloning và kỹ
thuật chuyển genes được luật pháp bật đèn xanh, xã hội Mỹ trong tương
lai sẽ có hai ‘giống’ người. Giống người được chuyển genes chiếm
10% trong xã hội Mỹ và họ sẽ nắm tất cả các địa vị đầu não trong
các lĩnh vực truyền thông, kinh tế và kiến thức (đại học), trong khi
90% còn lại sẽ làm những nghề hạ tiện. Tới một lúc nào đó hai giống
người này không còn liên hệ với nhau nữa và những cuộc hôn nhân ‘dị
giống’ sẽ không bao giờ xảy ra nữa, tương tự như tình trạng giữa người
và vượn, hai bên sẽ không thể nào có những liên hệ sinh lý nữa. Lục
đạo của Phật Giáo đã trở thành ‘thất đạo’, bảy nẽo luân hồi!
Và tình trạng này cũng không khác gì xã hội đẳng cấp của Ấn Ðộ là
bao. Thay vì dùng thần quyền để biện minh cho đẳng cấp như các giáo sĩ
bà la môn, giống người thượng đẳng sẽ dùng genes toàn bích để biện
minh tại sao họ là những người sinh ra để lãnh đạo, ăn trên ngồi trước.
Khoa học giả tưởng? Viễn tượng một xã hội có hai ‘giống’ người
khác biệt, một có genes toàn bích, một giống người tự nhiên, gần hơn
mọi người nghĩ nhiều!
Tất cả những thí nghiệm tạo
sinh (cloning) thường được thi hành bí mật trong các phòng thí nghiệm và
hiện nay không ai biết là khả năng tạo sinh của các nhà khoa học đến mức
nào rồi. Sẽ có những hậu quả không thể nào lường được cho con người
và các chủng loại khác. Những công ty lớn đang nghiên cứu việc biến đổi
genes không thèm để ý đến những hậu quả đến môi sinh của chúng ta.
Trên thực tế không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra khi việc chuyển đổi và
hổn hợp các genes giữa những chủng loại khác nhau được thực hiện. Về
sự chuyển genes giữa các cây cỏ khác nhau, Steve Jones, giáo sư khoa di truyền
ở đại học Luân Ðôn tin rằng sự ô nhiễm genes sẽ không thể nào
tránh được. Các genes đã được chuyển đổi trong thực vật sẽ lẫn lộn
với các genes khác và có thể gây ra những hậu quả cực kỳ nguy hại. Nếu
như côn trùng có genes làm tuyệt giống tràn lan, thình lình tất cả các
côn trùng đều biến mất. Không có côn trùng thì môi sinh không thể tồn
tại, không có thụ phấn, không kết hoa hay quả. Nếu môi sinh trong tình trạng
mất thăng bằng thì thế giới và nhân loại sống còn nữa không? Cái này
có thì Cái kia có. Cái này không còn thì cái kia không còn, Chưa bao giờ
thuyết duyên khởi của Phật Giáo trở nên minh bạch và dễ hiểu như thế!
Khi nghiên cứu về những vấn đề
này Phật Tử sẽ suy nghĩ như thế nào?
Trong một quyển tiểu thuyết giả
tưởng, Michel Houellebecq, cuốn Elementary Particles (Vi Trần?), cho rằng Phật
Giáo có thể đồng ý với cloning, hay ít ra là cũng không phản đối. Một
trong những nhân vật trong truyện phát biểu:
rồi đây con người như chúng ta
biết hiện nay sẽ biến mất, nhường chỗ cho một chủng loại mới trung
lập về phái tính, không đàn ông mà cũng không phải là đàn bà, vượt lên
trên cá nhân, phân biệt cá thể và tiến hoá. Không cần nói là những
tôn giáo chủ trương mặc khải phản đối quyết liệt những kỹ thuật này.
Chỉ có Phật Giáo là tuy có im lặng và nghi ngờ, tuy nhiên tất cả những
lời dạy của Ðức Phật đều dựa trên đệ nhất đế, khổ đế, và phần
lớn đề cập đến sinh lão bịnh tử, và nếu Ðức Phật quán niệm về
những vấn đề này, Ngài không nhất thiết phản bác kỹ thuật cloning.
Tôi (tác giả) nghĩ là quan điểm của
Houllebecq không đại diện cho chánh kiến, tuy nhiên có dịp nào những tu sĩ
và học giả Phật Giáo có dịp thảo luận về vấn đề này, có nhiều ý
kiến thích thú mới sẽ nẩy sinh và có để đưa chúng ta sang một bước
ngoặc bất ngờ. Trong một thế giới mà con người có khả năng (hay nghĩ
mình có khả năng) kiểm soát quá trình tiến hoá của chính chủng loại của
mình và môi sinh quanh mình, quan niệm về nghiệp của Phật Giáo có thay đổi
không? Chúng ta có quyền gì thay đổi quá trình tiến hoá của các thế hệ
tương lai? Kỹ thuật tạo sinh-sinh sản mà không cần có liên hệ sinh lý-
có giúp chúng ta tránk khỏi bị ràng buộc những ham muốn về sinh lý? Kỹ
thuật tạo sinh có củng cố quan niệm chấp ngã và ái ngã nhiều hơn hay là
phân hóa ngã của chúng ta thành những cái ngã con con (mini-me’s) và làm
cho chúng ta mau giải thoát hơn? Hay là những kỹ thuật tân tiến này khiến
chúng ta càng ôm chặt cái ngã ‘duy ngã độc tôn vô thượng’ của mình
và muốn kéo dài tuổi già đau khổ của mình mà Ðức Phật đã tiên kiến?
Quá trình thành trụ hoại diệt có còn đúng không và duyên khởi sẽ đóng
vai trò nào?
Kỹ thuật thay đổi, biến hoá và
đùa bỡn với đời sống hiện nay trong khoa học di truyền là những khám
phá có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử nhân loại, cũng giống như lúc
con người khám phá ra lửa và chẻ nhỏ các hạt nhân nguyên tử. Phải có
một nền đạo đức mới để hướng dẫn những quyết định về chánh
trị và kinh tế để cùng đi tới với khoa học tạo sinh, bởi vì chúng ta
không thể ngăn cản những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật và thái
độ cấm đoán của Vatican chỉ phản ảnh cho một thái độ tiêu cực và
vô bổ. Nghiên cứu những vấn đề này có thể làm sáng tỏ hơn về vai
trò của đạo đức Phật Giáo cũng như có thể góp phần một phần nào
vào việc thiết lập những nguyên tắc đạo đức mới cho toàn thể nhân
loại. Nếu Phật Tử, nhất là những người xuất gia, chỉ loay hoay với
những mối lo âu hình thức lặt vặt như tạo phước điền, tụng kinh Pháp
Hoa mấy thời, niệm Phật giải thoát, chỉ tự biến mình thành những ông
thầy cúng, thầy tụng, hoàn toàn biệt lập với đời sống và biến Ðạo
Phật thành những giáo phái kiểu vô thượng sư chuyên đi lừa bịp các
tín đồ nhẹ dạ. Có thể trích ra một thiền ngữ thích hợp cho hình thức
tu tập kiểu này là, mài ngói nghìn kiếp, ngói vẫn còn là ngói, chẳng
bao giờ ngói trở thành gương.
Quán Như
Viết theo Christina Desser, Tricycle số Kỹ Niệm Mười Năm, Muà Thu 2001.