ÐẠO ÐỨC CHO THIÊN KỶ MỚI
Pháp Thoại của ÐẠT LAI LẠT MA thứ 14
Ngày 19 tháng 5 năm 1999 tại Royal Albert Hall, Luân Ðôn, Anh Quốc
Người dịch: Chân Huyền
Diễn từ giới thiệu của Lord
Rees-Mogg, cựu chủ bút tạp chí Times:
Kính bạch Ðạt Lai Lạt Ma,
Thưa quý Bà, quý Ông.
Thật là một hân hạnh lớn lao và xúc động
cho tôi được nói lời giới thiệu trong dịp này.
Kính thưa đức Ðạt Lai Lạt Ma,
Người Anh chúng tôi nhìn ngài không những là một
vị thầy tâm linh cao cả, mà còn giống như một vị bằng hữu. Nơi đây,
ngài đang được bao quanh bởi các bạn hữu và những người ái mộ ngài.
Cuộc đời của ngài, một trong mấy vị thầy
tâm linh vĩ đại của thời đại này, như Thánh Gandhi đã nói, đó không
chỉ là một đời sống tâm linh, mà là một cuộc đời cần thiết để
tham dự vào tiến trình lịch sử và sự thống khổ của dân tộc ngài mà
chúng tôi, dân tộc Anh Cát Lợi hết sức ngưỡng mộ, thông cảm và quan
tâm.
Trong cuộc sống của chính ngài cũng như của dân
tộc ngài, chúng tôi nhận diện được sự kết hợp - duy nhất trên thế
giới - của lòng từ bi và sự can trường. Ngài chính là người đã bắc
được những nhịp cầu trong cộng đồng thế giới, những cây cầu giữa
các tôn giáo - và theo tôi, đó là những điểm son trong sự giảng dạy cao
quý của ngài.
Ngài đã phối hợp được lòng trung thành cùng
tín ngưỡng của riêng mình, với sự hiểu biết sâu rộng và lòng thương
mến các truyền thống tôn giáo khác trên thế giới.
Bây giờ cũng là thời kỳ khó khăn của toàn cầu,
thời kỳ mà chúng ta bị chiến tranh và rối loạn đe dọa. Chúng ta đều
có ý thức về tình huống khốn khó của dân tộc Tây Tạng, những khổ
đau đang diễn ra tại Nam Tư (Yugoslavia) và nhất là Kosovo. Trong cuốn sách
mới nhất, ngài đã đưa thêm ý kiến về chuyện thiết lập một
"Vùng hòa bình" trên thế giới, ở những nơi có nhiều nguy hiểm
và rạn nứt nhất. Chúng tôi xin hoan nghênh ngài buổi chiều hôm nay, đặc
biệt như một vị rao truyền ý kiến hòa bình là phương pháp hay nhất để
giải quyết các vấn đề của thế giới.
Chúng tôi công nhận cao hơn tất cả mọi thứ,
các bài giảng về tâm linh và đạo đức của ngài đều chứa nhiều chân
lý, và bốn điểm đặc sắc, bốn dấu ấn của ngài, có lẽ là
"Khiêm cung, nhân bản, kiên trì và từ bi". Với lòng biết ơn sâu
xa chúng tôi xin chào mừng ngài đã tới đêm nay, bậc đạo sư tâm linh và
là vị sứ giả của hòa bình.
PHÁP THOẠI CỦA ÐẠT LAI LẠT MA
Thưa quý Anh chị em,
Tôi rất hân hạnh được có cơ duyên gặp gở
và nói chuyện cùng quý vị hôm nay.
Tôi nhân cơ hội xin cảm ơn Tibet House Trust đã
tổ chức buổi này. Tôi cũng xin cảm tạ các thành viên thuộc cộng đồng
Tây Tạng đã hát mở đầu, khiến cho tôi nhớ tới quê hương chúng ta.
Tôi đặc biệt muốn diễn tả sự cảm kích
sâu xa của tôi đối với Lord Rees-Mogg về những lời giới thiệu tuyệt vời
của ngài. Ngài ca ngợi tôi nhiều quá tới nỗi tôi tưởng như chân mình
không còn đứng trên mặt đất được nữa.
Tôi cũng muốn nói câu này với nghĩa đen: chiếc
ghế này quá cao, chân tôi không để xuống sàn được. Vậy tôi xin phép bỏ
giầy ra và ngồi khoanh chân lại. Ồ! thật là dễ chịu hơn nhiều!
Trước đây tôi đã nói chuyện trong thính đường
này một lần. Tôi nhớ rất rõ, lúc đó có một người bạn xưa nhất và
thân nhất của tôi hiện diện, đó là Edward Carpenter, khoa trưởng đại học
Westminster, nay đã quá vãng. Tôi luôn luôn kính trọng và ngưỡng mộ ngài.
Bây giờ ngài không còn đây nữa, nhưng tôi vẫn
nhớ tới ngài, cũng như nhớ tới những người bạn khác đã ra đi. Tôi cảm
thấy ấm áp và sẽ còn luôn luôn cảm thấy như vậy.
Chuyện này chứng tỏ thời gian đang di động. Từ
năm này qua năm nọ, từ tháng này qua tháng khác, từng giờ, từng phút, từng
giây, lúc nào cũng chuyển dịch, không bao giờ ngưng. Không ai có thể làm
cho thời gian đứng lại được, không có cách nào kiểm soát được nó.
Ðiều chúng ta có thể làm là dùng thời gian sao
cho xứng đáng, có tính cách xây dựng hay dùng nó một cách tiêu cực để
phá hoại. Chọn lựa là vấn đề của chúng ta, quyết định trong tay ta.
Tôi nghĩ chuyện rất quan trọng là ta nên dùng
thời gian cho tốt lành. Tôi tin rằng cuộc sống có ý nghĩa là để tạo hạnh
phúc cho ta. Những hành động bất thiện luôn luôn mang đau buồn tới,
trong khi những hành động thiện mang lại phúc lạc.
Ðêm nay có một số bạn tới đây chỉ vì tò
mò, không sao cả. Những bạn tới với kỳ vọng nào đó, thì cũng xin đừng
mong ước nhiều. Tôi không có chi cống hiến quý vị đâu.
Có khi người ta tới thăm tôi, mang nhiều kỳ vọng
quá, như mong ước được tôi ban cho một thứ ân sủng kỳ diệu hoặc
cái gì tương tự, có người tìm tới tôi như một lương y.
Tôi thường nói với họ rằng nếu tôi là thầy
thuốc giỏi thì tôi đã không bị mụn trứng cá như thời đó. Tôi không
tự chữa bệnh được, thì tôi không đáp ứng được sự mong mỏi thiếu
thực tế của quý vị. Và tôi muốn nói rõ: chúng ta đều là những con người
giống nhau và tôi không phải là một người đặc biệt.
Nhân loại có chung một căn bản, dù chúng ta là
người Nam hay Bắc, Ðông hay Tây, giàu hay nghèo, có học hay thất học,
theo tôn giáo này hay tôn giáo kia, có tín ngưỡng hay là không - làm người;
chúng ta có những bản thể giống hệt nhau. Giống nhau về tình cảm, về
tinh thần và thể chất.
Về thể chất, có thể ta có những khác nhau nho
nhỏ ở hình tướng cái mũi, màu tóc v.v... nhưng đó là những tiểu tiết.
Từ căn bản, chúng ta giống nhau. Và chúng ta có cùng tiềm năng - đó là
khả năng chuyển hóa tâm thức và thái độ sống của mình.
Nếu hôm nay chúng ta không sung sướng vì sợ
hãi chuyện gì, vì ghen hay giận, thì chính những phản ứng đó lại làm
cho chúng ta khổ hơn. Hơn nữa, nếu như hôm nay chúng ta cảm thấy hạnh
phúc, như thể không có gì phải lo lắng, nhưng rồi mọi chuyện cũng có
thể thay đổi, trở nên xấu, vì những nguyên nhân không dự đoán được.
Chúng ta giống nhau ở chỗ có thể trải qua những
kinh nghiệm tốt hay xấu. Hơn nữa ta có khả năng giống nhau ở điểm có
thể chuyển hóa được thái độ của mình.
Tôi nghĩ điều rất quan trọng là nhận biết mỗi
người trong chúng ta đều có thể thay đổi để trở nên một con người
tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Nhận biết được như vậy là chuyện cần yếu.
Giờ đây, tôi để ý nhiều người thật sự hào
hứng vì thiên kỷ mới sắp tới. Có một thứ kỳ vọng là khi sang thiên
kỷ mới, đời sống sẽ đổi mới, nhiều hạnh phúc hơn. Tôi cho rằng
nghĩ như vậy là sai. Trừ khi bạn có thiên kỷ mới trong tâm bạn, chứ
cái mới bên ngoài không thay đổi gì nhiều, chúng ta vẫn có ngày đêm,
có cùng mặt trăng mặt trời ấy v.v...
Tháng 12 năm ngoái, tôi ghé thăm Paris (thủ đô
Pháp quốc), trên tháp Eiffel thấy người ta để số ngày còn lại trước
khi hết thế kỷ 20. Ðiều đó chứng tỏ họ nhiệt thành mong đợi thế kỷ
mới. Nhưng tôi nghĩ: "Thật sự thế kỷ mới có khác gì?" Tôi nghĩ
rằng cuộc đời cũng tiếp tục giống như cũ.
Tôi cho rằng điều quan trọng nhất là ta chuyển
đổi tâm ta để có thể suy nghĩ và quan niệm một cách mới mẻ. Chúng ta
nên cố gắng để có một thế giới nội tâm mới. Hàng bao thế kỷ,
hàng bao đời, nhân loại đã đầu tư tất cả sức lực vào sự phát triển
các phương tiện vật chất, nhờ vào khoa học và kỹ thuật.
Ngày nay tôi nghĩ toàn cầu chúng ta, nhất là tại
các quốc gia Tây phương, chúng ta đạt tới mức sống rất cao rồi, mà vẫn
có bao nhiêu vấn đề, nhất là trong lãnh vực tội ác và bạo động. Tại
Anh, Mỹ và các nơi khác, người trẻ tuổi bắn giết kẻ khác không vì
lý do đáng kể. Và trong lãnh vực ngoại giao quốc tế, tôi tưởng như các
quốc gia rất quý trọng tự do dân chủ, nhưng sự tự do đó, ngay cả tại
các nước ở Mỹ châu hay Tây Âu, sự thực vẫn dựa vào sức mạnh khá
nhiều.
Tôi nghĩ đó là những quan niệm lỗi thời.
Ngày xưa, quyền lợi các quốc gia còn có tính cách độc lập riêng rẽ,
các cộng đồng như làng xóm, đều có thể tự túc. Trong khung cảnh đó
quan niệm về chiến tranh, về quân đội còn có nghĩa lý: nếu bên ta thắng
trận thì bên địch phải thua.
Nhưng ngày nay, tình trạng đó đã thay đổi hoàn
toàn. Không chỉ các làng xóm mà ngay cả các quốc gia hay đại lục, cũng
không còn độc lập nhiều, nhất là về kinh tế. Trong hoàn cảnh đó, khi
tiêu diệt hàng xóm của bạn là bạn tự tiêu diệt. Vậy nên tôi cho rằng
lối suy nghĩ và chánh sách xưa cũ nay đã lỗi thời!
Còn về lối sống? Mỗi người trong chúng ta đều
muốn sản lượng quốc gia tăng tiến. Nếu nó đúng yên thì người ta cảm
thấy như có chỗ nào sai trái vậy. Sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ đi đến
chỗ không tiến lên được nữa. Hãy coi sự cách biệt giữa các xứ giàu
và nghèo.
Nói chung ở các nước phương Bắc thặng dư của
cải, nhưng những người ở các xứ phía Nam cũng giống như người
phương Bắc vậy. Tất cả đều sống trên cùng địa cầu, nhưng họ không
có đủ nhu cầu căn bản, hầu như còn chết đói.
Ðôi khi tôi nghĩ rằng họ đói vì họ đã có
những lỗi lầm. Vài quốc gia đó bỏ tiền vào việc trang bị quân sự
thay vì phát triển nông nghiệp... và kết quả là bị nạn đói ăn. Nhưng
ngay trong xứ giàu thì khoảng cách giữa người nghèo và các tỷ phú cũng
rất lớn.
Vài người bạn Mỹ mới cho tôi biết rằng vài
năm trước Hoa Kỳ chỉ có chừng 15 tỷ phú, nhưng tôi nghĩ nay con số đó
đã lớn hơn nhiều. Số nhà giàu bạc tỷ tăng lên nhưng người nghèo vẫn
nghèo và có lẽ nhiều người còn nghèo hơn xưa nữa.
Khoảng cách vĩ đại giữa giàu và nghèo có
tính cách toàn cầu, và ngay trong một quốc gia cũng có. Ðó không phải chỉ
là chuyện thiếu đạo đức, mà nó còn có nguồn gốc của nhiều vấn đề
thực tế. Vậy thời chúng ta nên giải quyết những chuyện đó, ta cần
nâng cao đời sống của những người ở phương Nam và những người nghèo
nói chung.
Hơn 15 năm trước, tôi đi thăm các đại học
trong xứ này (Anh quốc), tôi được nói chuyện với một chuyên viên về
sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Người đó nói với tôi rằng, nếu mức
sống của người phương Nam được nâng cao như mức sống dân phương Bắc
đang hưởng, thì với nhân số hiện tại của toàn cầu, ta sẽ có vấn đề
không biết tài nguyên thế giới đủ cho bao lâu nữa? Tôi trả lời:
"Nâng cao mức sống của người phương Nam là một chuyện, chúng ta dù
sớm hay muộn, cũng vẫn phải đối diện với vấn đề giới hạn bớt việc
xử dụng tài nguyên thiên nhiên".
Tôi nghĩ, ta cần phải nhìn lại lối sống của
chúng ta. Sinh môi ô nhiễm cũng là một vấn đề quan trọng. Tổ chức các
hội nghị đây đó về vấn đề ấy rất tốt, nhưng tôi thấy phải có
những biện pháp thực sự và hữu hiệu.
Một lần nữa tôi thấy vấn đề này liên hệ
tới lối sống. Tại Mỹ châu hay Anh quốc đây, tôi thấy rất nhiều xe hơi
trên xa lộ đa số chỉ có một người trong xe. Hình như mỗi người có một
chiếc xe, mỗi gia đình có hai hoặc ba chiếc.
Nếu nghĩ tới xứ Trung quốc, với hơn hai tỷ
người và Ấn Ðộ với khoảng 900 triệu dân. Nếu theo đà này, thì hai quốc
gia đó sẽ có tới gần ba tỷ chiếc xe hơi. Như vậy thật là nan giải.
Ðó là vấn đề chung. Ðôi khi tôi nghĩ rằng không
phải chỉ có tôi mà có hàng triệu người cảm thấy tình trạng ngày nay
khá nguy hiểm, nhưng thường tiếng nói của họ không được nghe rõ.
Vậy có lẽ tôi nên nói thay cho nhiều triệu người
đang im lặng đó, những người chỉ có giọng nói yếu ớt. Nguy thay,
chúng ta nhìn thấy tình trạng thực tế đó rồi, nhưng lại có khoảng
cách giữa nhận thức với thái độ của chúng ta. Tôi tin rằng hiện thực
đã thay đổi, nhưng lối suy nghĩ của ta vẫn vậy, do đó mà có bao nhiêu
vấn đề.
Một điểm khác nữa là các vấn đề chúng ta
đang gặp phải ở Kosovo, ở Bắc Ái Nhĩ Lan và Nam Dương, không phải chỉ
là vấn đề mới đây, mà chúng đã phát khởi từ nhiều thập niên, nhiều
thế hệ rồi.
Tôi nghĩ rằng khi câu chuyện mới nảy sinh ra,
người ta có nhiều cơ hội để thay đổi tình trạng, làm cho nó dịu xuống
thì họ không để ý tới. Người ta bỏ quên nó, coi như không có gì
nghiêm trọng, mặc cho những người liên quan trực tiếp với nó tự lo. Rồi
sau khi vấn đề đã quá trầm trọng thì quá trể.
Một khi tình cảm của con người đã không còn
kiểm soát được thì rất khó khăn. Thật vậy, theo giáo lý nhà Phật, khi
nhân duyên đã tự do phát triển một thời gian dài thì tiến trình sẽ tới
một điểm không thể đảo ngược lại được.
Tôi nghĩ rằng nhiều vấn đề của chúng ta đã
khởi lên tương tự như vậy. Trong thời gian chúng mới xuất hiện, có nhiều
cơ hội để giảm thiểu, loại trừ hay đề phòng thì chúng ta lại làm lơ.
Vấn đề xứ Tây Tạng cũng giống như vậy.
Trong các thập niên 20, 30, 40 tôi nghĩ chính người Tây Tạng đã quá coi thường
hướng đi tương lai của xứ họ. Do đó mọi chuyện đã xảy ra, và khi
nó đã thành một khủng hoảng hiện thực, nổ tung lên rồi thì đà quá
trể!
Dùng võ lực tất nhiên là phương cách sau cùng.
Một khía cạnh của chuyện dùng sức mạnh là nó rất bất ngờ. Dù bạn
khởi đầu chỉ định dùng võ lực có giới hạn thôi, nhưng khi đã có bạo
lực thì hậu quả sẽ khôn lường.
Bạo động luôn luôn làm phát khởi bạo lực chống
lại nó, hình như tại Kosovo sự thể là như vậy. Nên tôi nghĩ, bạo lực
là một phương cách sai lầm, nhất là thời đại tiến bộ này.
Xét đoán các chuyện đương thời, ta thấy rõ
ràng có gì sai quấy trong hành xử chung của chúng ta. Nếu ta phát triển
các hành động chánh đáng, tôi nghĩ chúng ta có thể giảm thiểu nhiều vấn
đề, và có thể loại trừ nó nữa.
Ða số các vấn nạn của chúng ta đều do con
người tạo ra, đó là sản phẩm của chính chúng ta. Vậy nếu nhân loại
dùng những phương pháp thích hợp hơn, với tầm nhìn xa hơn và hiểu biết
sâu hơn, thì tình trạng này sẽ thay đổi khá nhanh.
Căn cứ vào các kinh nghiệm của thế kỷ này,
và những gì ta đã học được từ đó, chúng ta nên thẩm định lại giá
trị các thái độ của mình rồi cố gắng thêm để cải tiến mọi chuyện.
Như thế, có lẽ thế kỷ này sẽ được hạnh phúc, hòa bình hơn, loài người
thân thiện nhau hơn. Tôi tin chắc như vậy.
Ít nhất so với thời gian đầu thế kỷ 20, tôi
nghĩ hôm nay nói chung, có nhiều dấu hiệu chứng tỏ chúng ta đang có bối
cảnh rộng rãi hơn. Ta có thể nói loài người trưởng thành hơn.
Vậy nếu chúng ta tiếp tục gắng sức nữa về
hướng đó, qua lãnh vực giáo dục, thì tôi nghĩ thiên kỷ tới sẽ được
an bình hơn. Dù sao, khi mong như thế chúng ta cần phải sửa soạn. Khi
chúng ta sẵn sàng rồi, thì nhìn về thiên kỷ tới ta mới thấy hứng khởi.
Nếu không có thay đổi gì trong chính con người chúng ta, thì chuyện hy vọng
năm mới sẽ mang tới đổi thay là chuyện không thực tế.
Tương lai nhân loại tùy thuộc vào thế hệ
ngày nay. Vậy mỗi chúng ta có bổn phận phải suy ngẫm về tương lai.
Trong bối cảnh đó, tôi xin chia xẻ với thính giả quan điểm của tôi, tương
lai nhân loại tùy thuộc rất nhiều vào tư tưởng và hành xử của chúng
ta.
Trên đây tôi mới nói tới vấn đề giáo dục.
Ngành giáo dục tân tiến rất tốt, nhưng hình
như nó căn cứ theo sự đồng thuận toàn cầu về tầm quan trọng khai triển
đầu óc - giáo dục về khả năng tinh thần. Không có sự chú ý vào giáo
dục toàn diện một con người, để trở thành người tốt có lòng nhân.
Tôi nghĩ tới các cơ sở giáo dục được thiết
lập từ ngàn năm trước ở Âu châu, trong đó nhà thờ và gia đình coi
sóc vấn đề giáo dục luân lý và nuôi dưỡng lòng nhân ái trong tim người.
Như vậy sự giáo dục mới có thăng bằng.
Nhưng rồi thời gian qua đi, ảnh hưởng của nhà
thờ đã giảm thiểu, đời sống gia đình trở nên thiếu ổn định và lắm
vấn đề, nên thời nay khía cạnh quan trọng đó trong việc nuôi dạy con
cái đã bị coi nhẹ. Hình như không có cơ sở giáo dục nào chăm sóc đặc
biệt về đạo đức cho người ta nữa.
Tôi thấy khá rõ là giáo dục hay kiến thức chỉ
là một dụng cụ. Người có nó sẽ xử dụng nó để xây dựng hay phá hoại
tùy theo động cơ trong người họ. Một nền giáo dục chỉ đào tạo một
bộ óc thông mình mà thôi có thể tạo ra thêm nhiều vấn đề. Và đối với
các cá nhân thì khi có nhiều tư duy và tưởng tượng quá mức, tâm thần
họ có thể đi tới chỗ lụn bại!
Nếu một đứa bé được giáo dục tốt về khả
năng tinh thần lại tình cờ có bố mẹ hiền lương, có trách nhiệm, vừa
thương yêu, vừa dạy con có kỷ luật, thì mọi chuyện sẽ rất tốt trong
chiều hướng xây dựng. Tôi hy vọng trong tương lai, ngành giáo dục sẽ
chú trọng tới sự phát triển từ tâm và tình yêu nơi con người. Tôi nghĩ
đó là điều cần thiết.
Từ mẫu giáo lên tới đại học, tôi nghĩ ta cần
dạy trẻ những vấn đề liên quan tới đời sống của cá nhân trẻ, kể
cả vai trò của các em trong xã hội và gia đình. Không có cái đó, bạn
không thể là một con người hạnh phúc, gia đình bạn cũng không có hạnh
phúc và xã hội cũng vậy. Cha mẹ cũng có trách nhiệm trong vấn đề này.
Tôi cũng hy vọng trong tương lai sẽ có ít vụ
ly dị hơn, nhất là những cặp đã có con cái rồi. Ðối với trẻ em,
tôi nghĩ cha mẹ đặc biệt cần có một cuộc hôn nhân hạnh phúc và bền
chặt. Như vậy, qua kinh nghiệm của họ, họ có thể hướng dẫn cho con em
về những lợi ích của tình yêu, từ tâm và lòng nhân ái.
Tôi cũng muốn thêm điều mà tôi nghĩ có ích,
là ta phải cho trẻ biết khi chúng bị vướng vào một tình huống đối
nghịch nào, thì cách hay nhất là giải quyết chuyện đó bằng đối thoại,
chứ không bằng bạo động. Bạo động thì có bên thắng bên thua, nhưng
trong thế giới ngày nay, điều đó không còn thực tế nữa, như tôi đã
nói trước đây.
Nếu quyền lợi là chuyện phân chia rõ ràng, điều
lợi lạc của tôi chẳng liên quan gì tới bạn, thì có thắng có thua là
đúng. Nhưng điều này không thể xảy ra vì ngày nay quyền lợi của chúng
ta đều có tương quan chặt chẻ. Vậy giải pháp khả dĩ có thể là sự tương
nhượng đồng đều 50-50 hoặc có lẽ 60-40 mà thôi.
Vì không thể có một phe hoàn toàn thắng, nên
chuyện đối thoại với nhau là cần thiết. Muốn giải quyết một vấn đề,
bạn cần để ý tới những gì đối phương quan tâm đến và nghĩ tới lợi
ích của họ. Trong cái nhìn sáng suốt đó, bạn gắng tìm giải pháp.
Ta nên bắt đầu dạy trẻ lối đối thoại này
ngay ở lứa tuổi rất nhỏ, huấn luyện cho chúng khả năng biện luận cho
các quan điểm khác nhau. Theo phương pháp đó trẻ sẽ tập cách đối thoại
và quan niệm đó sẽ từ từ thấm vào chúng. Ðối thoại là phương pháp
thích hợp, có hiệu quả và thực tế.
Trong xã hội loài người, lúc nào cũng có sự
xung đột, bất đồng ý kiến. Ngay trong chính mình, có khi buổi sáng ta
hoàn toàn bị một ý tưởng chi phối, tới buổi chiều, ta lại có ý nghĩ
khác hẳn hoặc đối nghịch với ý tưởng đó. Ðôi khi sự xung đột này
cực kỳ khó khăn. Những đối nghịch nội tâm có thể đưa người ta tới
chỗ tự tử.
Vậy nên khi nào bạn có hai tư tưỏng đối nghịch
nhau, cách hay nhất là bạn suy nghĩ theo cả hai luận cứ rồi tìm cách tổng
hợp các điểm xung đột. Tôi nghĩ cả hai đều có sức mạnh trái chiều
nhau, nhưng nếu ta có thể mang chúng gần lại, tìm được thăng bằng cho cả
hai là có tiến bộ rồi.
Hơn nữa, nếu ta khôn ngoan nhìn rõ và vượt qua
được sự trái nghịch ấy thì ý tưởng mới mẻ sẽ hiện ra, như thế sự
xung đột lại có ích. Nó lại là nền tảng cho sự tiến bộ. Chỉ khi nó
quá đáng, ta không kềm chế được và diễn tả ra bằng bạo lực thì nó
mới có hại thôi.
Một khi trẻ em đã phát triển được thói quen
tốt đó, thì khi nào có xung đột, chúng sẽ biết ứng đối ngay bằng cách
đối thoại chứ không bằng bạo lực, đánh đấm. Tôi đã nói với vài
thính chúng rằng, được huấn luyện như thế, khi trẻ tan học về nhà thấy
cha mẹ cãi nhau, chính trẻ có thể thuyết phục cha mẹ rằng họ làm vậy
là sai quấy.
Tôi nghĩ rằng giáo dục người ta như vậy, ngày
nào đó tất cả chúng ta sẽ hiểu rằng loài người là một giống vật sống
quây quần và trong xã hội, lợi ích cá nhân phải tùy thuộc vào lợi ích
chung, trong đó mỗi cá nhân chúng ta phải là một con người tử tế, nhạy
cảm và là một công dân tốt.
Như vậy, cá nhân sẽ được an bình, gia đình
và xã hội cũng vậy. Khi có sự dị biệt xảy ra, chúng ta sẽ bàn thảo,
chia xẻ với nhau những lo lắng trong tinh thần hòa bình và thân hữu.
Sự phát triển thái độ có giá trị nền tảng
và nhân bản: con người có trách nhiệm, biết lo cho người khác và có
tâm bao dung. Ta có thể coi đó là những đức tính căn bản. Tin vào tôn
giáo hay không là chuyện của mỗi người, nhưng dù có tôn giáo hay không,
khi làm người, ta là một phần tử của nhân loại.
Nếu không có các tính thiện kể trên ta không
thể hạnh phúc được... Vậy, ta không thể bỏ lơ, coi thường những chuyện
có ảnh hưởng trực tiếp lên hạnh phúc của ta.
Chúng ta có thể coi các giá trị nhân bản ấy
là "đạo đức thế tục", vì nó không thuộc vào tôn giáo nào. Thế
tục đây không có nghĩa là bài bác tôn giáo, mà có ý nói: tín ngưỡng chỉ
có tính cách cá nhân.
Tôi nghĩ rằng chúng ta thực sự cần cố gắng
nhiều để quảng bá, khuyến khích những giá trị nhân bản này. Phát triển
đạo đức là chuyện nên làm, vì tôi tin rằng bản chất con người vốn
dễ thương.
Có những ý kiến khác tôi, dĩ nhiên, có một số
cho rằng con người có bản chất hung hăng. Nhưng nếu nhìn toàn thể cuộc
đời từ lúc sanh ra tới khi chết đi, tôi nghĩ sự hung dữ chỉ lâu lâu mới
xảy ra một lần. Ngoài ra, hầu như suốt đời chúng ta sống với tình cảm
và yêu thương.
Cơ thể chúng ta được cấu tạo theo một hệ
thống trong đó mỗi tế bào của ta đều hoạt động tốt đẹp hơn nếu
ta có tâm bình an. Tâm xao động thường làm cho thân mất quân bình.
Nếu tâm an là yếu tố quan trọng để ta khỏe
mạnh, thì cơ thể chúng ta đã được cấu tạo thích hợp với sự hòa
bình trong ta. Do dó ta có thể nói bản chất của loài người nghiêng về hướng
yêu thương, tử tế nhiều hơn.
Cơ thể chúng ta cũng được cấu tạo để ôm
ấp, chứ không để đánh nhau. Hãy coi bàn tay mình: nếu nó được dùng để
đánh đấm, theo tôi, nó phải cứng như sừng trâu.
Quan trọng hơn nữa theo y khoa, những tuần lễ
đầu tiên của đứa bé mới sanh rất quan trọng cho sự phát triển của
bé. Vì bộ óc em phát triển rất nhanh, và sự tiếp xúc của bé với mẹ
hay một người khác trong thời gian đó là yếu tố quan trọng nhất để
trí óc bé được lành mạnh.
Chuyện này chứng tỏ cả thể chất chúng ta cũng
khao khát tình thương của người khác. Các phản ứng kể trên đều cho ta
thấy mình cần tình thương của nhân loại ra sao.
Về phương diện tâm thần, ta nhận thấy khi ta
từ bi hơn, thì tâm ta dễ bình an hơn. Khi nghĩ tới người khác, tâm ta sẽ
rộng mở và các vấn đề cá nhân của mình sẽ trở nên vô nghĩa. Mặt
khác, nếu ta chỉ nghĩ tới "tôi, tôi, tôi", tinh thần ta trở nên
nhỏ hẹp và một vấn đề bé xíu sẽ trở thành vĩ đại.
Khi nghĩ tới người khác và chia xẻ cái khổ
đau của họ, có thể lúc đó bạn cũng buồn phiền, nhưng đó là chuyện
tự nguyện. Trong thâm tâm, bạn có can đảm, tự tin và sức mạnh nội tại
khi bạn quan tâm tới khổ đau của người khác. Ngược lại khi bạn đau
khổ vì những vấn đề khởi lên dù bạn không muốn, thì chuyện đó
trùm lên bạn. Giữa hai cái khổ trên có sự khác biệt lớn lắm.
Theo kinh nghiệm nhỏ bé của tôi, càng quán từ
bi, càng nghĩ tới vô số chúng sanh đang khổ, tôi càng thấy có thêm sức
mạnh nội tâm. Rồi khi tôi có vấn đề này kia, nó không còn làm phiền
tôi bao nhiêu.
Ta càng có nội lực, tự tin thì sợ hãi và nghi
ngờ càng giảm bớt, tự động ta sẽ trở nên cởi mở hơn. Rồi ta có thể
nói chuyện với các bằng hữu anh em thêm dễ dàng, vì khi bạn cởi mở
thì họ cũng có đáp ứng tương xứng.
Trái lại khi chúng ta sợ hãi, thù hận hay nghi
ngờ, cánh cửa của trái tim ta đóng lại, thì ta sẽ liên hệ với nhiều
nghi ngại. Tôi nghĩ rằng điều tệ hại nhất là ta nghi ngờ người khác
và có cảm tưởng họ cũng ngại mình, kết quả là chúng ta trở nên xa
cách nhau, cuối cùng là cô đơn và thất vọng.
Ðó là nguyên nhân khiến tôi nghĩ lòng từ bi
và quan tâm tới người khác là những điều tuyệt diệu. Vấn đề là người
ta thường hay nghĩ rằng lòng từ bi, yêu thương và bao dung có tính cách
tôn giáo, những ai không quan tâm tới tôn giáo thường coi thường những
giá trị đó. Theo tôi, như vậy là sai lầm.
Tất cả chúng ta đều cần quan tâm tới những
giá trị đó nhiều hơn. Ðó là phương cách duy nhất để sửa soạn đón
thiên kỷ mới.
Ðiểm chính yếu thứ hai tôi muốn nói tới, rất
quan trọng là sự hòa đồng và hiểu biết giữa các tôn giáo.
Tôn giáo là đặc điểm của loài người. Thế
giới loài vật không có tín ngưỡng. Ðức tin khi được xử dụng đúng mức
thì có ích lợi, nếu không nó sẽ mang lại tai biến. Lý do là tôn giáo
có liên quan tới tình cảm của con người, đôi khi tình cảm chúng ta có
thể lầm lẫn. Khi đó không có lý lẽ gì nữa, chúng ta trở nên chính thống
và quá khích.
Vì vậy chúng ta cần cố gắng nhiều hơn để các
tôn giáo lớn trên thế giới giúp cho loài người tiến bộ hơn, phục vụ
nhân loại và cứu lấy địa cầu; trong khi đó chúng ta cũng cố gắng để
giảm thiểu những đối nghịch nhân danh tôn giáo.
Trong vài năm nay tôi thực hành theo nhiều phương
cách khác nhau để thực hiện chuyện này. Hiện nay có một số huynh đệ
trong các tôn giáo khác đang tiếp tay với tôi.
Thứ nhất, là tổ chức các cuộc họp giữa những
học giả thuộc các truyền thống để bàn thảo về những điểm tương
đồng và dị biệt thuần trí thức.
Thứ nhì, tổ chức những gặp gỡ cho các tín
đồ thuần thành thuộc các tôn giáo khác nhau để họ có thể trao đổi
kinh nghiệm nội tâm. Chuyện này có ảnh hưởng rất mạnh và cực kỳ hữu
ích để hiểu được giá trị của các truyền thống khác với ta.
Trong trường hợp riêng, tôi được gặp linh mục
Thomas Merton và các hành giả nghiêm túc khác, tôi thực sự được mở mắt
về giá trị của truyền thống họ thực hành. Phương pháp này rất có lợi
ích cho việc cảm thông và hiểu biết lẫn nhau.
Phương pháp thứ ba là cuộc hành hương đa tôn
giáo. Một nhóm người nhiều tôn giáo khác nhau, cùng đi hành hương thăm
viếng chung với nhau những địa điểm linh thiêng. Nếu có thể, họ cầu
nguyện chung, nếu không, chỉ cần ngồi thiền chung.
Hành hương như vậy là một kinh nghiệm vô cùng
quý giá và sâu xa. Trong dịp tới thăm Lộ Ðức (Loudres) phía Nam nước Pháp,
đi hành hương chứ không phải đi du lịch, tôi đã uống nước thánh và
đứng trước tượng Mẹ Maria. Tôi nghĩ tại đây, ngay địa điểm này đã
có hàng triệu người tới xin ân sủng, an bình và đã được hài lòng.
Khi ngắm tượng Mẹ Maria, tôi khởi lên niềm
kính ngưỡng sâu xa đối với Thiên chúa giáo vì tôn giáo này đã đem lại
lợi ích hàng triệu người. Thiên Chúa giáo có thể có triết lý không giống
chúng tôi, nhưng đó là chuyện khác. Giá trị giúp ích và làm lợi cho
loài người của tôn giáo này là chuyện rất rõ ràng.
Vì vậy tôi có kinh nghiệm thấy được sự ích
lợi của các cảm xúc sâu xa về tôn giáo khác tại những địa điểm
linh thiêng. Một số các bạn Thiên Chúa giáo đã đáp ứng đề nghị này,
năm ngoái có vài anh em thân hữu đạo Chúa đã tới Bồ Ðề đạo tràng
vài ngày. Chúng tôi người tin Phật, kẻ tin Chúa đối thoại với nhau và
mỗi sáng sớm chúng tôi cùng ngồi quán tưởng dưới cây Bồ Ðề, thật
là một sự kiện lịch sử.
Tôi nghĩ có lẽ từ thời Bụt và Chúa ra đời
(hơn 2500 và 2000 năm trước), đây là lần đầu tiên có một cuộc hội ngộ
như vậy.
Phương pháp thứ tư là tổ chức những kỳ họp
mặt như hồi giữa thập niên 1980 tại Assisi, Ý quốc. Các nhà lãnh đạo
tâm linh thuộc nhiều truyền thống cùng tới đọc kinh trên cùng diễn đàn,
rồi trao đổi với nhau về một đề tài đặc biệt.
Tại Assisi, đề tài là vấn đề môi sinh. Sự
kiện này rất có ý nghĩa đối với hàng triệu tín đồ mỗi tôn giáo,
khi họ thấy các nhà lãnh đạo của họ dự phần vào việc trao đổi thân
thiện và cùng đưa ra thông điệp hòa bình như các tôn giáo khác.
Ðó là bốn phương pháp tôi xin đề nghị chúng
ta có thể cổ võ cho sự hòa đồng tôn giáo. Có một điểm khác mà tôi
muốn chia xẻ với bạn bữa nay. Chúng ta đã nói chuyện về việc phát triển
tinh thần chăm sóc người khác, chia xẻ các vấn nạn với họ và cố giảm
thiểu lòng thù hận.
Chúng ta không nên có thái độ thù ghét đối với
một cá nhân nào trong gia đình hay ngoài xã hội, đối với cả nhân loại,
vì lòng sân hận chính là thứ phá tan hạnh phúc và hòa bình của ta.
Chúng ta cần có một thứ như "giải giới" trong nội tâm. Với sự
giải giới này và chánh niệm về chiến tranh, quan niệm về quân sự và hủy
diệt sẽ trở nên lỗi thời.
Trên căn bản đó chúng ta cần nghiêm chỉnh nghĩ
tới việc giảm thiểu vũ khí. Trước hết là võ khí nguyên tử thật là
một khởi đầu tuyệt diệu. Chương trình này không nên giới hạn vào
các đầu đạn nguyên tử mà nên tìm cách hủy diệt các loại vũ khí đó.
Chúng ta còn cần cố gắng nhiều. Rồi từ từ,
thế giới chúng ta sẽ không còn cần quân sự nữa. Chúng ta sẽ có một
thế giới vô võ khí. Tôi cho ta nên có mục tiêu xa như thế
Tôi không nói rằng thế giới sẽ làm được
chuyện này ngay, trong vài trường hợp có thể nó cần nhiều thế hệ, nhưng
tôi cho rằng tư tưởng này đáng để vào trong đầu chúng ta.
Dĩ nhiên thế nào cũng có một số những con người
bá đạo. Ðể đối phó với họ chúng ta cần một thứ lực lượng quốc
tế. Chúng ta đã có tổ chức gìn giữ nền hòa bình quốc tế như vậy
trong Liên Hiệp Quốc.
Trước hết chúng ta nên thành lập một lực lượng
võ trang giới hạn cho từng vùng, gồm một số nhỏ lực lượng di động
có phẩm chất và hiệu năng để kiểm soát các nước hội viên. Nếu có
tranh cải lực lượng này có thể hành động như một biện pháp đối phó.
Tuy nhiên, không xứ nào được có quân đội riêng
Tỷ dụ như tại Costa Rica, 50 năm nay họ được
an hưởng là xứ không có võ trang. Bằng cách này, theo tôi sự giải giới
nội tâm sẽ đi cùng với sự giải giới võ khí.
Tôi nghĩ điều lợi thứ nhất của chuyện này
là chúng ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều tiền. Mỗi trái bom hay hỏa
tiển đều rất đắt giá. Vậy nếu có tranh chấp trong nhiều tuần, nhiều
tháng thì sẽ tốn kém rất nhiều.
Thay vì phí tiền bạc vào việc phá hoại nhau,
chúng ta nếu dùng nó một cách xây dựng như làm nhà thương, trường học
cho các xứ nghèo thì lợi ích biết bao.
Không phải chúng ta chỉ tiết kiệm được tiền
tài mà ta còn ngăn ngừa được mức độ ô nhiễm nữa.
Tôi hay nói đùa rằng các xưởng thay vì làm xe
tăng thì sản xuất xe ủi đất dễ hơn. Các khoa học gia làm việc cho
quân đội, thay vì đem bộ óc siêu quần vào việc phát triển các phương
tiện tàn phá, họ có thể đổi sang một bình diện xây dựng. Làm như thế,
họ xứng đáng lãnh lương gấp đôi ngay.
Chúng ta nên suy nghĩ như thế nếu chúng ta quan
tâm tới phúc lợi của nhân loại trong tương lai. Theo tôi, chúng ta nên bớt
háo hức về thiên kỷ mới mà nên có các suy tư hướng nội, sửa soạn
chúng ta nhiều hơn cho thời đại mới.
Ở lứa tuổi tôi, tôi thưộc vào thế kỷ này,
và sau cùng tôi đã sẵn sàng từ biệt nó. Vậy nên thế hệ trẻ hơn sẽ
tạo hình cho thế kỷ sau đây. Xin các bạn trẻ hãy suy tư cho cẩn thận,
đừng bị xúc động hay bị vướng mắc gì, xin hãy suy tư theo bình diện
rộng rãi và có viễn kiến đường dài. Ðó là điều rất quan trọng.
Tôi xin ngừng bài nói chuyện ở đây. Nếu quý
bạn thấy có vài điểm đáng tìm tòi thêm, xin hãy làm chuyện đó. Trái lại
nếu bạn thấy những điểm tôi nêu lên không thích đáng hay vô nghĩa lý,
thì xin cứ quên nó đi, bỏ nó lại trong phòng này. Xin cảm ơn các bạn rất
nhiều.
Trích dẫn: CHUYỂN HÓA TÂM (Phát khởi lòng Từ
bi) của ÐẠT LAI LẠT MA thứ 14. Nguyên tác Transforming the Mind (Teachings on
Generating Compassion), Anh ngữ: Geshe Thupten Jinpa, Việt ngữ: Chân Huyền dịch.
Làng Cây Phong xuất bản - 2001.
Sưu tầm và đánh máy: Thanh Sơn.