PHẬT GIÁO
Phương pháp rèn luyện tâm
Leonard Bullen
Dịch Việt : Mỹ
Thanh
Khi bạn nghe một điều gì về
Phật giáo trong tin tức hàng ngày, bạn thường nghĩ đến một tôn
giáo thờ nhiều hình tượng to lớn, có các thầy tu áo vàng, với
không khí dầy đặc mùi khói nhang. Bạn có cảm giác tôn giáo nầy
không phải dành cho bạn, ngoại trừ có thể đấy chỉ là một buổi
trình diễn ly kỳ, hấp dẫn.
Tuy nhiên, chẳng lẽ Phật giáo chỉ
có thế thôi ? Các nhiếp ảnh gia mới không chụp được các ảnh
thật sự Phật giáo hay sao ? Các báo chí hào nhoáng trình bày
cho bạn thấy cái nền tảng của tôn giáo đó, hay chỉ là những vẻ
bên ngoài ?
Chúng ta hãy nhìn rõ xem Phật
giáo thật sự là gì, Phật giáo được trình bày rành rẽ tận gốc
rễ, vì Phật giáo vẫn hiện hữu ngay cả dưới những trang sức bề
ngoài . Mặc dù Phật giáo thông thường được xem là một tôn giáo,
căn bản của Phật giáo là trau dồi, rèn luyện tâm. Thật sự thì
với truyền thống của tu viện và những yếu tố về mặc đạo đức,
Phật giáo sỡ hữu nhiều đặc điểm với ngoại hình mà các người Âu
Mỹ thường cho là thuộc về tôn giáo. Tuy vậy, Phật giáo không tin
vào một đấng thượng đế, vì Phật giáo cho rằng vũ trụ được
hình thành và chuyển vận bằng những định luật không có chủ
thể, vũ trụ không phải là sáng tạo của một đấng trời nào;
phật giáo không chủ trương cầu xin, vì đức Phật là một vì thầy,
không phải là thượng đế, và phật giáo xem việc thờ cúng không
phải là một điều luật bắt buộc, nhưng đó là cách để bày tỏ sự
biết ơn đối với đức Phật và là phương thức để trau dồi, phát
triển thân tâm. Vì thế, với những nhận xét như nói ở đây, phật
giáo không phải là một tôn giáo.
Lại nữa, Phật giáo hiểu rằng
niềm tin không thể chỉ nằm trong sự tin tưởng vào lời chỉ dạy
của đức Phật. Một người Phật tử không được tin vào bất cứ điều
gì chỉ vì điều ấy được đức Phật nói ra, hoặc vì đó là điều
được ghi trong sách cổ, hoặc vì điều ấy được truyền xuống từ
những bậc ông cha, hoặc vì có nhiều người tin vào điều ấy.
Phật tử có thể xem lời dạy của đức Phật như một giả thuyết,
và truy cứu về điều ấy, nếu đúng thì Phật tử hãy tin tưởng ;
người Phật tử không nên chấp nhận bất cứ điều gì nếu như thấy
không đúng lý lẽ. Điều nầy không có nghĩa là mọi thứ đều phải
được trình bày một cách hợp lý, vì có những nhận thức nằm xa
khung kính tri thức và chỉ có thể nhận biết bởi sự phát triển
về mặt tâm linh. Nhưng yếu tố chánh vẫn là không nên mù quáng tin
về mọi điều trong lời dạy của đức Phật.
Phật giáo là cách sống dựa
trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con
đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn, một trạng
thái xa hẳn cấp bậc của một tâm trí thông thường, chưa được rèn
luyện. Mục tiêu tức thời là đánh ngay vào những gốc rễ của đau
khổ trong cuộc sống hàng ngày.
Mọi hoạt động của con người
được chỉ dẫn, ngay đó hay xa hơn, để tiến đến hạnh phúc bằng
cách nầy hay cách khác; hoặc giả để bày tỏ một việc bằng những
chữ tiêu cực, tất cả hoạt động của con người được chỉ dẫn để
đạt giải thoát, vượt qua những việc bất như ý, không hài lòng.
Bất như ý, có thể được xem như khởi điểm của hoạt động con
người, và hạnh phúc là mục đích cao cả nhất .
Bất mãn hay bất như ý, khởi
điểm hoạt động con người, là điểm xuất phát trong Phật giáo; và
điểm nầy được bày tỏ bằng công thức của Bốn Câu Căn Bản, yếu
tố của sự bất mãn được chỉ rõ, nguyên nhân, cách chữa , và phương
cách để chữa .
Câu Căn Bản Thứ Nhất như sau :
Trong Đời Sống con người không
thể tránh được sự bất mãn
Nguồn gốc ý nghĩa của câu nầy,
chữ “bất mãn” thường được dịch là “đau khổ”, bao gồm ý nghĩa
không chỉ là nỗi đau, buồn phiền, và bất mãn, nhưng mọi thứ đều
là không như ý, từ nỗi đau đớn thể xác và sự khổ não về tâm bệnh
, cho đến mệt mỏi chút ít, chán nản hay chỉ một chút thất vọng
.
Đôi khi lại chỉ cho sự “bất mãn”
hoặc “bất như ý”; trong vài bài pháp có thể những từ nầy được
dùng chính xác, trong khi lúc khác từ “đau khổ” lại được sử
dụng. Vì lẽ nầy, chúng tôi sẽ dùng cả hai từ “đau khổ” và “bất
mãn” hay “bất như ý” tuỳ vào nội dung của bài pháp thoại.
Trong vài bài dịch từ bản gốc,
thì sanh là khổ, bệnh là khổ, già là khổ, và sung sướng là
khổ. Trong bản tiếng Anh, câu cuối cùng không có nghĩa gì;
nhưng nếu chúng ta sửa lại là “sự thoả mãn không được như ý”
thì có lẽ dễ hiểu hơn, vì mọi thoả mãn đều vô thường, và mặt
trái của sự sung sướng, thoả mãn thường là đau khổ, và từ nhận
thức nầy, chữ không được như ý có lẽ đúng hơn.
Bây giờ đức Phật dạy rằng sự
bất mãn hoặc đau khổ là không thể tránh khỏi trong đời sống của
con người có cái “ngã”; và “đời sống có cái ngã” cần được
giải thích. Tóm lại, kinh điển dạy rằng cái ngã được xem là
một linh hồn cố định, bất biến lại là một điều không thực.
Trung tâm cốt lõi của mỗi sinh
vật không phải là một linh hồn bất biến, mà là dòng sông cuộc
sống, một nguồn năng lượng luôn thay đổi, và phút giây kế tiếp
không bao giờ giống như phút giây vừa trôi qua. Cái ngã, được xem
như một linh hồn bất diệt, và đây là ảo tưởng của cái ngã, nỗi
đau khổ nhất từ nơi đây mà có. Cuối cùng khi cái ảo tưởng về
Tôi được chuyển hoá thì đấy là sự giác ngộ , trạng thái nầy
cao nhất, và nằm xa hơn cái vũ trụ tương đối mà chúng ta biết .
Nơi trạng thái cao nhất nầy, đau khổ bị dập tắt; khi bất cứ một
cái gì về “ngã” còn tồn tại, cho dù chỉ là một ảo tưởng nhỏ,
đau khổ vẫn còn hiện diện.
Vì vậy, chúng ta phải hiểu
rằng Câu Căn Bản Thứ Nhất không có nghĩa là đau khổ không thể
tránh được; nó chỉ có nghĩa là trong cuộc sống nơi cái ngã ngự
trị, đau khổ không thể tránh khỏi, và nếu như ảo tưởng cái ngã
còn, thì đau khổ vẫn còn .
Bây giờ chúng ta nói đến Câu Căn
Bản Thứ hai , như sau :
Nguyên nhân của đau khổ (bất như
ý) là ham muốn
Nếu bạn trợt té trên sàn nhà
trơn ướt và bị bầm mình, bạn nói nguyên nhân cái đau mà bạn đang
phải chịu đựng là sàn nhà trơn trợt. Điều nầy đúng, và nếu
nói vết bầm của bạn là do ham muốn mà ra thì chắc là không
đúng rồi.
Nhưng Câu Hai không nói đến
trường hợp cá nhân, hoặc nguyên nhân tức thời. Câu Hai muốn nói
đến sức mạnh hợp nhất để giữ nguồn sống là sự ham muốn cho
chính bản thân; vì nguồn sống nầy – ảo tưởng về cái ngã – chứa
đựng những điều kiện cho đau khổ, trong khi sàn nhà trơn trợt chỉ
là một cơ hội cho đau khổ xuất hiện .
Vì bản chất của thế giới mà
chúng ta đang sống, nên thật là điều không tưởng khi muốn chữa đau
khổ bằng cách loại bỏ hết những cơ hội có thể mang lại đau
khổ; cũng như thật là không thể đánh vào nguyên nhân hay cơ sở
chánh của cái khổ. Vì thế Câu Ba căn bản là :
Giải thoát sẽ đạt được bằng
cách tiêu diệt ham muốn
Sự ham muốn của cái ngã là giữ
chặt lấy đời sống; dòng sông ý thức hiện hữu mà chúng ta gọi là
ngã; và chỉ vì cái si mê của ngã mà sự bất như ý và đau khổ
xuất hiện. Khi diệt trừ được sự nắm giữ si mê về ngã, gốc rễ
của đau khổ cũng bị tiêu diệt.
Mục đích cao nhất của thực tập
trong Phật giáo là để tiêu diệt cái ngã. Chính ngay nơi nầy sự
hiểu lầm xuất hiện, và đó là điều tự nhiên; nhưng một khi nhận
thấy rằng tiêu diệt cái ngã là huỷ diệt si mê thì sự hiểu lầm
nầy sẽ biến mất. Khi si mê được tẩy trừ, thực tại xuất hiện;
như vậy tiêu diệt si mê là để thực tại hiển hiện. Khi si mê về
cái ngã vẫn tiếp tục che tối thực tại thì ta không tài nào tìm
thấy nó.
Giờ đây khi si mê bị tiêu diệt
thì thực tại nầy là gì. Thực tại cao tột là Không Duyên Khởi,
cũng được gọi là Không Sanh, Không Cội Nguồn, Không Pha Lẫn. Với
cách thức không đầy đủ, không chính xác, chúng ta có thể diễn tả
nó như một trạng thái khả quan tích cực. Đó là nơi có hạnh
phúc và tự do, hoàn toàn thoát khỏi đau khổ và nó rất khác
biệt với trạng thái hiện hữu tầm thường và không thể nào diễn
tả bằng lời được. Trạng thái Không Duyên Khởi có thể được chỉ
dẫn – đến điểm – chỉ bằng cách nói về những điều mà trạng
thái đó không có.
Trong các bài pháp Phật giáo,
Không Duyên Khởi thường được giải thích là tâm không còn tham, sân,
si. Đây cũng nói đến sự hoàn hảo của các cá tánh đối nghịch,
vị tha, từ bi, và trí tuệ.
Đạt đến trạng thái Không Duyên
Khởi là mục đích cao tột của tất cả thực tập Phật giáo, và
cũng tương đương như sự giải thoát rốt ráo khỏi đau khổ và sự
bất như ý. Sự việc nầy đưa chúng ta đến với câu cuối cùng của 4
Câu Nói Căn Bản.
Con đường giải thoát là Bát Chánh
Đạo
Con đường có tám yếu tố sau đây :
1. Hiểu biết đúng, sự hiểu biết về
bản chất chân thật của hiện hữu
2. Suy nghĩ đúng, ý nghĩ không còn
vướng vào nhục dục, xấu xa, và độc ác.
3. Nói lời chân thật, không bịa đặt,
nói xấu, nói lời cộc cằn thô lỗ, và không nói nhảm.
4. Hành động chân chính, tránh việc
sát hại, trộm cắp, và tà dâm.
5. Cuộc sống chân chính, nghề nghiệp
không làm hại đến các chúng sinh .
6. Cố gắng chân chính, hoặc cố gắng
tiêu diệt kiết sử của tâm thức và nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp.
7. Tâm thức chân chính, sự hoàn hảo
của chánh niệm.
8. Tư duy chân chánh, nuôi dưỡng tâm
thức qua việc thiền định.
Bây giờ bạn thấy trong Con đường Bát
Chánh Đạo, quan trọng là nó không có tính chất tôn giáo; nó giống như môn
học tâm lý đạo đức.
Nhưng con người ở phương Đông cũng
như ở phương Tây, nói chung, giống như sự đòi hỏi phiến diện bằng cách nầy
hay cách khác – ít nhất ở mặt bên ngoài – những cái không quan trọng lại
được xem là cần thiết.
Trong khi những đặc điểm phiến diện
trong thực tập Phật giáo cần được thay đổi tuỳ vào hoàn cảnh xung quanh,
những đặc tính quan trọng, không thay đổi của thực tập được tóm tắt trong
bảng chỉ dẫn của Bát Chánh Đạo, đức Phật đã dạy về Trung Đạo, con đường
trung dung giữa những trạng thái cực đoan.
Mặc dù thật là bất tiện khi nói về
những khía cạnh khác của Bát Chánh Đạo như là tám bậc, không nên xem chúng
là những bậc riêng biệt, phải làm từng chặng. Ngược lại, mỗi bậc phải được
thực tập cùng lúc với những bậc khác, và có lẽ tốt hơn nếu nhìn chúng như
tám lằn ranh của một con đường hơn là tám bậc nối tiếp nhau.
Bước thứ nhất của con đường, hiểu
biết đúng, quan trọng nhất là thấy mọi việc như chúng là – hoặc ít nhất,
thử làm mọi việc với tính cách không trốn tránh, hoặc tự lừa dối. Nghĩa
là, hiểu biết đúng bắt đầu bằng sự yêu thích trí tuệ, yêu bản chất tự
nhiên của sự hiện hữu, và như thế đấy được coi như là bước đầu của con đường
thực tập; nhưng khi đã đến cuối con đường, sẽ đạt được tình thương và trí
tuệ.
Trong khi Chánh Kiến có thể được xem
như sự thấu hiểu hoàn hảo của phật pháp, nó dựa vào sự hiểu biết ba đặc điểm
chánh yếu trong thế giới tương đối, của vũ trụ, thời gian, hình thể và vật
chất. Ba đặc điểm nầy có thể tóm tắt như sau :
1. Vô thường : Tất cả mọi thứ trong
thế giới tương đối nầy luôn thay đổi liên tục.
2. Bất như ý : Trong một mức độ nào
đó của đau khổ và bất như ý dính liền với cuộc sống « có bản ngã », hoặc
liên hệ tới những giới hạn kinh nghiệm cá nhân trong thế giới tương đối.
3. Vô ngã : Không có thực thể --
không là con người hay bất cứ chúng sanh nào – sở hữu một linh hồn hay bản
ngã thường hằng, không thay đổi. Mỗi một chúng sanh có một dòng sinh lực
luôn thay đổi, sự thay đổi tuỳ thuộc vào hiện tượng tinh thần và vật chất,
giống như một dòng sông luôn trôi chảy và không bao giờ đứng yên một chỗ
dù chỉ trong tích tắc.
Như vậy, bản ngã, không phải là một
thực thể tĩnh lặng mà là một dòng thay đổi liên tục. Khái niệm năng động
về sự hiện hữu là một ý nghĩ sâu xa tiêu biểu trong phật giáo ; trong cuộc
sống không có bất cứ vật gì là tĩnh lặng, cuộc sống là một dòng trôi chảy
liên tục mà ta cần phải học để biết cách bơi theo nó.
Một khái niệm khác của Chánh Kiến,
là nhận thức rằng vũ trụ có tiến trình của nó với nền tảng nhân và quả,
với hành động và phản kháng, sự liên tục không cố định và chúng đều giống
nhau trong thế giới đạo đức, tinh thần và vật chất. Tuỳ vào hành động tốt
mà người tạo tác có lúc hưởng được sự sung sướng, và có lúc vì hành động
xấu ác mà kẻ tạo tác phải chịu đau khổ.
Các ảnh hưởng tốt hay xấu – nghĩa
là, hạnh phúc và đau khổ là kết quả của những hành động đã tạo tác – thông
thường kết quả không theo liền sau nhân tạo tác ; thường có sự chậm trễ
trong vấn đề thời gian, kết quả của hạnh phúc và đau khổ chỉ xuất hiện khi
nhân duyên đầy đủ. Kết quả có thể không xuất hiện trong hiện tại. Và như
vậy, cái chết thông thường là một sự thăng bằng về mặt « hưởng phước »,
nếu như quả tốt chưa xuất hiện kịp thời ; và đồng thời cũng là một sự thăng
bằng về mặt « chịu khổ », nếu như đau khổ là kết quả không thể tránh khỏi.
Sau khi chết, thân thể tan hoại, dĩ
nhiên, dòng sinh lực vẫn còn tiếp tục, không phải trong dạng của một linh
hồn bất biến, mà là trong dạng của dòng năng lực luôn thay đổi. Tức thời
sau khi chết, một chúng sinh mới bắt đầu cuộc sống trong dòng đời ; nhưng
chúng sinh nầy không nhất thiết phải là một người, và trong tích tắc sự
đầu thai có thể xảy ra ở một tầng hiện hữu khác. Tuy vậy, chúng sinh mới
đó vẫn chịu một ảnh hưởng trực tiếp của chúng sinh kia vừa qua đời.
Như vậy, chúng sinh mới nầy là sự tiếp
tục không ngừng nghỉ của chúng sinh kia, mà dòng đời vừa đứt đoạn. Chúng
sinh mới thừa hưởng phần phước đức còn lại của chúng sinh đã chết, và như
vậy, phần phước đó sẽ mang lại cho chúng sinh mới nầy sự sung sướng trong
tương lai. Đồng thời, chúng sinh nầy cũng phải chịu luôn phần ác báo còn
lại của kẻ kia, và như vậy, sẽ phải chịu đựng sự đau khổ nào đó trong tương
lai.
Tóm lại, trong ý nghĩa của sự liên
tục, chúng sinh mới giống như chúng sinh đã chết. Cũng như vậy – chỉ trong
ý nghĩa của sự liên tục – một ông già không khác với cậu thanh niên lúc
trẻ, cậu thanh niên không khác với đứa bé con lúc trước, và đứa bé con
không khác với đứa bé mới sanh khi xưa đó. Cá tính của ông già với cậu
thanh nhiên, và với đứa bé con, và đứa trẻ sơ sanh, chỉ là một sự liên tục ;
không có cá tính nào khác.
Tất cả mọi vật trong vũ trụ thay đổi
ngày nầy sang ngày khác, từ phút nầy tới phút khác, như vậy một chúng sinh
lúc nầy chỉ khác với chúng sinh lúc sau chút xíu thôi ; Cá tính duy nhất
là sự liên tục. Cũng như vậy, một chúng sinh được tái sinh thì khác với
chúng sinh vừa chết kia ; nhưng do sự liên tục mà cá tính hôm nay vẫn
không khác cá tính lúc trước.
Những lời giảng dạy nầy là căn bản
của phật pháp – bản chất thật về bản ngã là một ảo giác, quy luật nhân quả
trong phạm vị đạo đức, và sự tái sinh của những năng lượng đời sống – nhưng
không cần mọi người phải chấp nhận bất cứ điều gì nếu cảm thấy không đúng
lý với bản thân. Chấp nhận bất cứ lời giảng dạy nào cũng không quan trọng ;
quan trọng là sự cố gắng không ngừng để nhận thấy mọi vật như chúng là,
không trốn tránh không tự lừa dối.
Dàn bài ngắn gọn của bài pháp coi như
khá đầy đủ với Chánh Kiến dẫn đầu. Bước kế tiếp, suy nghĩ hoặc mục đích
chân chính, giải thoát các khả năng tri thức khỏi những yếu tố xúc cảm có
hại, như tham dục, ác ý, và hành động bạo tàn, làm bất lợi cho những quyết
định sáng suốt, không thiên vị.
Chính ngữ, Chính mạng, và Chính
nghiệp tạo nên một phần của con đường đạo đức, chúng giúp cho những nhiễm
ô của tâm thức nằm dưới sự điều khiển và không cho chúng trồi lên để tạo
thành những hành động có hại. Tuy vậy, những nhiễm ô nầy không thể bị tiêu
diệt hoàn toàn chỉ nhờ vào sự đạo đức, và những bước khác của con đường
cần được áp dụng để chùi rửa những nhiễm ô của tâm thức một cách sạch sẽ
hoàn toàn.
Bây giờ bước kế đến – Chính tinh tiến
– chúng ta bước vào phạm vi của tâm lý thực tiễn, Chính tinh tiến trong
bài nầy nghĩa là sự cố gắng của ý chí. Cũng có nghĩa là, bước thứ sáu trên
con đường là sự trau dồi bản thân, luyện tập ý chí để phòng ngừa và khắc
phục những trạng thái tâm thức có thể làm cản trở sự phát triển tâm linh,
và bồi dưỡng cũng như khuyến khích những trạng thái tâm thức có thể mang
lại sự phát triển tinh thần.
Bước thứ bảy trên đường cũng là môn
tâm lý thực tiễn ; bước nầy gọi là Chính niệm, và nó bao gồm sự phát triển
tối đa của khả năng tầm thường của sự chú tâm. Sự phát triển về mặt chú
tâm – sự hiểu biết lan rộng và mạnh mẽ -- tâm thức dần dà có thể phân biệt
mọi vật và thấy rõ mọi vật như chúng là.
Hoạt động cơ bản của bước thứ bảy,
Chính niệm, là phát triển sự chú tâm về cái bản chất không thực của cái
ngã. Tuy vậy, cần phải liên tục cải thiện khả năng chú tâm bình thường, và
như vậy, tâm thức được trang bị tốt hơn để đối diện với những vấn đề căng
thẳng của sinh hoạt hàng ngày trong thế gian.
Phương cách của đức Phật, sự chú tâm
bao gồm sự phát triển về khả năng tập trung, để tạo nên chánh niệm liên
tục trong tất cả những ý nghĩ chợt xuất hiện, tất cả những chữ đã được nói,
tất cả những hành động đã làm, với cái nhìn buông xả, không tham đắm,
không thiên vị, và không mê lầm.
Chính niệm có nhiều cách áp dụng
trong sinh hoạt hàng ngày. Thí dụ, chính niệm có thể được sử dụng để có
một cái nhìn thấu đáo, sự hiểu biết rõ ràng, của những động lực nằm sau
các hoạt động, và sự hiểu biết rõ ràng về động lực nầy là một điều thật
quan trọng.
Chính định, bước cuối cùng trong tám
bậc, trau dồi tâm thức ở những trạng thái cao hơn – đến lúc hấp thụ mọi
thứ trong chính niệm – những trạng thái tâm thức cao tột nầy được sử dụng
để thống nhất, thanh tịnh hoá, và làm mạnh mẽ tâm thức để đạt đến sự giải
thoát, sáng suốt.
Khi đạt được giải thoát thì ảo giác
về bản ngã, với những tham đắm, đau khổ cũng được chuyển hoá và bị dập tắt
hoàn toàn.
Sự hiểu biết xuyên suốt là mục đích
tối hậu của tất cả các thực tập phật giáo, và với sự sáng suốt đó, sự hiểu
biết về bản chất thực của đời sống cũng sẽ hiện diện, tột bậc của sự hiểu
biết về Không Duyên Khởi. Không Duyên Khởi là sự dập tắt bản ngã, không
hẳn là không hiện hữu hoặc huỷ diệt, bởi vì sự tiêu diệt bản ngã chỉ là sự
tiêu diệt si mê. Mỗi sự miêu tả về Không Duyên Khởi đều thất bại, bởi vì
nó nằm xa hẳn thế giới chữ nghĩa, và ý nghĩ ; và cách duy nhất để biết về
Không Duyên Khởi là thực hành Bát Chính Đạo từ đầu đến cuối.
Như vậy, đây là nguyên gốc của phật
giáo ; đây là phật giáo của Bát Chính Đạo, của con đường đưa đến giải
thoát khỏi bản ngã và đạt đến sự hiểu biết thấu đáo về thực tại.
Buddhist Publication Society (BPS)
Bodhi Leaves BL 42
Vài hàng về tác
giả
Leonard A. Bullen là một trong những
nhà tiên phong về hoạt động Phật giáo tại Úc. Ông là chủ tịch đầu tiên của
Hội Phật Học Victoria, được thành lập vào năm 1953, và ông là người đầu
tiên của uỷ ban quản trị của Hội Đoàn Phật giáo Úc. Ông cũng là phó chủ
bút của tờ nhật trình phật giáo Metta. Ông mất vào năm 1984, hưởng thọ 76
tuổi.
Những sách báo của ông được xuất
bản BPS :
Kỹ
thuật Sống (A Technique of Living – Wheel No. 226/230) và “Tác dụng
và Phản tác dụng trong Phật pháp” trong Nghiệp và Kết Quả (Action and
Reaction in Buddhist Teaching –in Kamma and Its Fruit -- Wheel No. 221/224).